3.
Sân đình làng tôi xưa kia vốn là sân đất. Cỏ gà rất mịn. Thứ cỏ
không bao giờ mọc quá mắt cá chân, ấy là bố tôi sau này kể thế.
Năm đình nhận “sắc phong” của triều đình, các bô lão trong làng
hô hào người làng quyên góp, sân đình bấy giờ lát gạch lá nem. Loại gạch vuông, bốn cạnh
bằng nhau, ở giữa có hình chữ triện. Gạch này làm bằng đất sét mãi đâu dưới phủ
Hương Canh, lại nung bằng rơm nếp. Thấy bảo gạch đốt rất công phu, chứ không
đốt bằng than hay bằng củi như ở nơi khác. Nhờ vậy buổi chiều sân gạch tỏa
nhiệt rất nhanh. Chỉ tầm giờ “thân” trở đi, mát lắm. Xung quanh là bao lơn,
tường hoa cao ngang đầu người.
Anh cu Tý con nhà bác Tỏm hay cõng tôi ra đây. Đặt tôi ngồi chơi
ngay dưới chân những con voi, con ngựa bằng đá. Chơi như thế không sợ tôi bị
bẩn áo quần, lại không sợ trâu bò thả rông của dân làng dẫm phải.
Ông thủ từ coi đình lại hiền, chỉ bảo:
- Đừng để em mày tè ra đấy. Nếu nó nhỡ phải dọn ngay đi đấy.
Miệng vâng dạ, anh cu một loáng đã chạy ra sau đình. Mấy đứa em
của anh ấy đang thập thò sau gốc cây gạo đang mùa ra hoa. Chúng làm như thích
thú mỗi khi có một bông hoa đỏ rực từ trên cành cây cao rớt xuống, xoay tròn như cái chong chóng. Kỳ
thực chúng đang đợi anh cu Tý mang cho chút gì. Hôm thì miếng cơm cháy, hôm mấy
quả dưa chuột, hay đại loại thứ gì cho được vào mồm. Cu Tý bớt được từ khẩu phần của mình, hay thó được ở trạn bát, hay
đáy một cái thúng bỏ không nào đấy ở nhà tôi.
Lão Tùng, người làm công lâu năm mách mẹ tôi chuyện này. Mẹ tôi
chỉ ừ hữ không nói gì. Của miếng chín, trẻ con đói lòng thậm chí có ăn vụng
chút cũng chẳng sao, huống chi anh ấy chỉ nhặt những thứ đầu thừa đuôi thẹo?
Tôi khi ấy lên ba. Lên ba làm gì biết khái niệm lòng tham, ăn
vụng hay ăn trộm là thế nào? Nên tôi chẳng quan tâm.
Tôi chỉ sợ anh ấy bỏ tôi lại một mình. Sân đình rộng thênh thang,
một đứa trẻ như tôi tưởng tưởng ra nhiều nguy cơ lắm. Nhưng mà chuyện đó không
xảy ra.
Anh ý chỉ chạy đi một loáng là trở lại. Ít phút sau, cả bầy bốn năm
đứa em chạy vào. Thêm cả mấy đứa trong xóm, chúng chơi bạn với nhau. Đứa nào
cũng thích làm ngựa, làm trâu cho tôi cưỡi.
Người ở quê có thể hèn từ bé. Tôi tý tẹo thế này, sao đứa nào
cũng gọi tôi bằng “cậu”? Sau này tôi mới biết chúng gọi vậy để lấy lòng mẹ tôi.
Thỉnh thoảng bà cho chúng cỗ tò he, cái bánh đa mật, hay vài cái kẹo bột.. Có
việc gì sai, chúng nhanh nhảu đi làm ngay.
Có hôm, chúng còn tranh nhau cõng kiệu tôi, đến nỗi suýt nữa thì
đánh nhau. Cụ thủ từ coi đình phải gọi cả bọn vào, bắt đứng khoanh tay. Cụ bảo
đến đây mà tranh cãi nhau là cụ cấm cửa. Đứa nọ nhìn đứa kia, lấm lét như chó
ăn vụng bột, tự dưng lại cười, thôi, làm lành luôn.
Tuổi ấu thơ của tôi quanh quẩn trên sân đình như thế. Làng tôi
chả có ai là Thị Kính, hay Thị Màu để làng “ăn khoán”. Nên khu đình luôn yên
tĩnh trang nghiêm. Chỉ trừ mấy ngày có hội cuối tháng giêng, hay ngày chợ gần
tết. Khi ấy thì bát ngát người. Hàng xén bày sát đến cổng đình. Tường bao loan
treo đầy tranh Đông Hồ, câu đối, hay các bức thư pháp.
Tôi vẫn chưa hiểu gì về ý nghĩa của những thứ này, vì lúc đấy
chưa đi học, còn ngu. Chỉ thấy nhiều màu vẻ, đẹp mắt, thế thôi.
Nhưng, những hôm đó, anh Cu Tý vất vả với tôi lắm. Tôi đòi anh ấy
cõng mình xem hết chỗ nọ đến chỗ kia, chả thích vào sân đình lê la nữa.
Nhưng mà anh ấy ranh ma, có nhiều đối sách mà tôi vẫn nhớ cho đến
tận bây giờ, sau bảy mươi năm, như nó vừa mói xảy ra.
Thoạt đầu là trò chơi châu chấu hùm đối đầu. Những con châu chấu
đực to bằng ngón tay cái của tôi khi đấy, xanh lè, cựa ở hai chân nhọn và rất
sắc, đôi cánh dài màu xám phủ kín một phần lưng và bụng phía trên.
Cuộc đấu “ai thắng ai” của chúng là không khoan nhượng.
Anh cu Tý kiếm ở đâu thứ cỏ có nhựa trắng như sữa bôi lên đầu của
cả hai bên. Chờ cho lúc nhựa chuyển sang màu nâu xẫm là dí đầu cả hai bên vào
nhau, giữ im một lúc. Thứ nhựa này khi đã chuyển màu như thế dính còn hơn cả
keo “con voi” thế kỷ sau này người ta hay dùng để gắn nhựa hay kim loại vào với
nhau.
Anh đặt cả hai xuống sân đình lát gạch lá nem như tôi đã kể. Hai
bên lấy hết sức lao vào nhau. Càng mù quáng lại càng điên cuồng.
Khi đầu óc đã gần nhau rồi mà không dung nạp tư tưởng của nhau
nữa thì thật kinh khủng. ( Thực ra châu chấu, dù là châu chấu hùm đi nữa thì làm
đeck gì có tư tưởng ? Chẳng qua là tôi gán ghép như thế cho có vẻ nhân văn,
nhân viếc một chút )
Cả hai lồng lộn không ai chịu ai, quăng quật cho đến lúc xác xơ
đôi cánh, què gãy cho bằng hết cẳng chân. Từ miệng chúng ứa ra thứ nước màu
xanh đậm. Đó là máu của loài côn trùng ăn cỏ, không đỏ như máu người. Cả hai
giãy giụa một hồi rồi lăn ra chết.
Anh cu Tý khoái lắm.
Lúc bấy giờ tôi chưa ý thức được bản năng sâu thẳm từ trong con
người anh. Cái bản năng sinh tồn, độc ác và thú tính. Tôi cứ há hốc mồm ra mà
theo dõi cuộc đấu của những sinh linh bé bỏng và tội nghiệp. Chơi chán trò đó
anh bảo “đồng đảng” trẻ ranh với mình đào hang bắt chuột. Trò này mới là trò
chơi ghê gớm, kinh người.
Một đứa trong bọn kiếm đâu được lọ dầu hôi. ( nên nhớ vào thời đó
thứ dầu thắp đèn này hiếm và quý lắm, làng tôi nhiều nhà chỉ thắp hà tiện buổi
tối ăn cơm một lúc, xong phải tắt ngay kẻo tốn, thế mà tụi trẻ kiếm được. Thế
mới tài! Mới biết khi người ta kể cả trẻ già, lớn bé, cố tình, việc gì cũng có
thể làm được ).
Mỗi con chuột bị buộc một túm dẻ tẩm dầu, châm lửa mang ra ngoài
bức tường bao phía ngoài đình thả. Không thể tả được khung cảnh lúc đó, chúng
hoảng hốt như thế nào. Chúng cuống cuồng trèo lên cây gạo cao chót vót mang
theo ngọn lửa sau đít. Đó là những con chuột ngu. Càng trèo cao như thế, lửa
càng bám sát vào bụng vào lưng chúng bởi lửa bao giờ chả bốc lên, còn nước thì
chảy xuống? Chỉ một lúc sau, nóng không
chịu được nữa các chú họ “thử” này lập tức lộn cổ xuống đất, máu ứa ra miệng. Một
vài con khôn ngoan hơn chui vào bụi cây, có con may mắn nhờ đám lá ướt sương
dập tắt lửa, thoát chết. Nhưng cũng có con chui phải bụi cây khô, lửa cháy đùng
đùng, cái chết càng đến mau hơn.
Có một lần, một con chạy lọt qua được chỗ nứt khe tường, lao đầu
vào trong đình. May mà hôm đó ông thủ từ đang quét sân, nếu không chẳng biết sự
kiện sẽ đi đến đâu? Cháy đình là cái chắc.
Anh cu Tý và đám trẻ bị cấm cửa một thời gian, không được lai
vãng đến sân đình. Anh
Cõng tôi ra phía bờ đê, cách xa đình một quãng khá dài. Ở đấy dân
làng đang phụ giúp ông Tú Ất dựng trường.
Thấy người ta gọi ông bằng thầy, đám trẻ học đòi cũng gọi theo,
mặc dù chưa đứa nào học ông được lấy một buổi.
**
Bác Tỏm toét mắt, làm cho nhà tôi từ hồi tôi chưa là cái trứng
kia. Không ai biết gốc gác, cội nguồn của bác ý như thế nào? Một năm vỡ đê, ông
nội tôi dẫn quan phủ đi kinh lý, bắt gặp mẹ bác ấy ngồi co ro ở đầu làng. Cái
váy bà ấy mặc vá phải đến hàng trăm miếng. Đầu bà không vấn khăn, tóc như đám
rơm mục che gần kín khuôn mặt. Thấy quan quân rầm rộ, bà hãi, lẩn tránh sau một
bụi chuối. Ông nội tôi thoáng thấy e là có kẻ gian bảo một anh tuần đinh đi
theo xem xem là ai, có động thái gì? Anh tuần: “ bẩm cụ, mẹ con ăn mày”. Ông
nội tôi bảo: “ thày đưa mụ ấy về cho bát gạo, đừng để quan trên nhìn thấy. Vùng
ta làm gì có người đói rách, ăn mày, ăn xin?”
Người này cui cúi, vâng dạ rồi đi.
( Thế mới biết, đối với cấp trên, kẻ dưới thường “làm láo báo cáo hay”
như một lẽ dĩ nhiên có từ đời kiếp nào rồi. Chả đợi đến thời suy thoái đạo đức
sau này mới xuất hiện).
( Còn nữa..)
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét