Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

T.T CHƯA ĐẶT TÊN. ( Bạn nào có nhã ý đặt dùm nha )


PHẦN I
 
1.   

 Một buổi chiều năm Bính Tý, sau cái chết của cụ Phan Chu Trinh mười một năm, có người khách lạ sang sông. Lúc bấy giờ mặt trời đang khuất dần sau đỉnh Nghĩa Lĩnh, hắt lên nền mây dát bạc những tia nắng hình dải quạt. Cảnh vật vừa mơ hồ vừa lấp lánh tạo bởi vô vàn con sóng trên mặt sông làm khách dãn dần vẻ tư lự, mệt mỏi đường xa. Anh sửa lại chiếc khăn đóng đội đầu, kéo tà áo dài cho ngay ngắn. Cử chỉ ấy cho thấy anh không có vẻ gì của người đang vội vã hay nóng ruột. Thằng bé đi theo chạc mười bốn, mười lăm tuổi, tóc cắt ngắn, chỉ để ba cái chỏm. Một trước thóp thở, hai cái hai bên phía trên thái dương. Đôi bồ nó mang theo không giống các loại bồ người vùng này hay dùng. Đôi bồ nhỏ sơn bằng sơn ta đen bóng. Chiếc đòn gánh bằng gỗ nom hình cánh cung cũng đen bóng gần như vậy.
Khách gập cái ô lục soạn, đưa tay chỉ về phía cây gạo còng  giáp bờ sông bảo thằng tiểu đồng:
- Chưa có đò, ta vào quán đó nghỉ chút.
Thằng bé nhanh nhảu:
- Cậu để con gọi?
Người khách lạ gạt đi:
- Thôi hãy còn sớm, ta cũng không muốn sang đó sớm quá. Cứ nghỉ thong thả, khi nào đò sang hãy đi.
Có lẽ mới qua đây lần đầu, thằng bé có vẻ háo hức trước phong cảnh của vùng này. Nhà nó ở mãi trên Bắc Giang trùng điệp núi đồi, đâu có bằng phẳng, quang đãng, rộng mênh mang như ở đây. Phía sau lưng nó dãy Tam Đảo một màu tím ngát, xa xa phía trước mặt là dãy Ba Vì mây trắng bồng bềnh. Cậu chủ bảo với nó vùng này là nơi “Tàng long, tụ thủy”, nới gặp gỡ của mấy con sông. Nó nghe thì biết vậy, chứ tàng long tụ thủy là nghĩa thế nào nó chưa biết.
Nó mới theo chần cậu tú được nửa năm nay. Sau ngày bố nó bị sở liêm phóng bắt ngoài Hà Nội vì tội liên quan đến “bình dân, dân chủ” gì đấy. Mẹ nó gửi nhờ cậu chủ vừa nuôi vừa dạy nó sau này trở nên người. Giờ nghe cậu ấy nói, chỉ biết vậy, toàn những tên núi tên sông nó mới nghe lần đầu, nó thắc mắc lắm, nhưng lại không dám hỏi.
Trẻ con thóc mách nhiều, là trẻ con hư, mẹ nó nói thế.

Quán bà lão bán hàng nước ngay sát gốc cây. Lưng bà còn còng hơn cả cây gạo làm nơi mở quán của bà.
Quán lợp rạ còn mới, áng chừng vừa mới thay lại mái sau vụ gặt vừa rồi. Hàng quán chẳng có gì nhiều. Mấy cái bát sành úp trên chiếc chõng tre để bày hàng. Một lọ kẹo bột. mấy cái bánh tẻ, bánh chưng be bé. Dễ thường khi đói, một người có thể ăn hết chừng ấy thứ bày lên. Chồng bánh đa chưa quạt treo lơ lửng ngay phía trên. Hồi đó chưa có túi Politilen như bây giờ, nên bánh không nướng trước vì sợ ỉu. Khi nào có người hỏi mua bà lão mới nhóm chậu than để quạt.
Thấy khách bà lão cười móm mém:
- Ông dùng gì ạ?
- Dạ không dám, con còn ít tuổi, xin cụ đừng gọi thế, không phải ạ!
- Vậy cậu với cháu đây cần gì? Mở hàng cho bà lão lấy may. Thời buổi khó khăn, buôn bán khó lắm cậu ạ!
Bà lão hay chuyện. Bù cho cái lưng còng của bà, đôi mắt vẫn còn tinh, tai chưa bị nghễnh ngãng. Được cái tính ưa sạch sẽ. Chỉ nhìn qua mấy thứ bày biện khéo léo trên mặt chõng bán hàng, biết bà là người cẩn thận.
Bà bảo: “mấy tháng trước tôi chưa bị đau lưng như hồi này. Cứ hai ba ngày là tôi lại may được cái yếm đũi, các bà các cô con nhà khá giả thích yếm của tôi lắm! Người tận bên Lủ, bên sông Chanh cũng sang tận đây để đặt. Cái yếm dễ mà khó. Người không biết cắt vừa tốn vải, lại dúm dó nom chẳng ra làm sao..”
- Ý chết để để tôi rót cho cậu bát nước. Nước vối hay chè xanh?
- Cụ cho con nước vối.
- Thứ này uống lành, lại mát, nghe bảo còn là vị thuốc nữa đấy!
- Con biết. Người mắc trĩ uống thứ này rất tốt. Hơn cả thuốc đấy cậu ạ. Ở bên xóm Liều có ông cai Kèn. Thuốc chữa bao nhiêu năm không khỏi. Sau tôi bày cho cứ nụ vối sao khô, tán thành bột bôi vào chỗ trĩ lòi ra, rồi thì nước lá vối uống kèm. Chỉ độ ba tháng thì khỏi..
Thằng bé đi theo người khách bụm miệng cười. Khách mắng nó:
- Hư nào, với người già như vậy là không được, vô lễ!
Thằng bé khịt mũi, lấy lại vẻ mặt nghiêm trang. Ông Khách bảo:
- Mày muốn mua gì bảo bà bán cho?
Bà lão vui vẻ:
- Có chuối, lạc luộc, kẹo bột..cháu lấy thứ nào?
Nó không nói gì, vẻ e dè. Khách bảo:
- Bà cho cháu ba xu kẹo.
- Kẹo trẻ con đứa nào cũng thích. Ba xu thì hơi nhiều, ăn hết không kẻo để lâu chảy nước cháu ạ - Bà lão hàng nước nói. Đúng là bà lão thật thà, bán hàng người ta ai chả muốn bán được nhiều? Có ai sợ người mua dùng không hết đâu?
Người khách chờ cho bà lão lấy kẹo bày ra đĩa nung bằng đất xong, lại hỏi:
- Con từng qua đây vài lần, chưa từng nghe ai nói có nơi nào gọi là xóm Liều cả? Vì sao lại có tên như thế hả cụ?
- Chuyện lâu rồi, nhiều người giờ không biết cũng phải.. Bà cụ chợt hạ giọng, quay sang một bên lấy vạt áo đũi lau khóe mắt
Khách đồ chừng câu chuyện này có gì đó liên quan đến bà lão. Không dưng bà xúc động đột ngột như thế?
Bà lặng đi một lúc. Khách cũng không hỏi thêm. Ông ta trầm ngâm nhìn ra lối bờ sông. Nơi có bãi thầu dầu cao hơn đầu người, lá rộng bằng bàn tay xòe, thân và cành tim tím, mọc ra gần tới mép nước. Thứ cây này trồng để ép dầu, người Nhật dùng chạy máy, đang được trồng nhiều ở vùng này. Tiếp đến là những nương dâu xanh rờn. Thấp thoáng bóng người đội nón lá rộng ẩn hiện trong ánh nắng chiều. Khung cảnh đẹp đến nỗi bất giác khách thở dài..
Bất chợt bà lão kể:
- Vùng này là ngã ba sông, đồng non bãi nổi, nhiều chỗ ngập nước thành ra đi lại không thuận lắm. Vào các năm sau năm cụ Đề Thám bị hại, tiếp đến sự biến Yên Bái không thành. Nghĩa quân ở các nơi ấy có một số tản về đây ẩn mình. Những người này gan góc lắm. Dân trang Khả Lãm ngày xưa vốn lành hiền, rút rát, ít chữ nghĩa, chỉ biết lo làm, lo ăn.. Chỉ từ khi các ông ấy về dạy chữ, dạy võ nghệ, một số mới bạo dạn hơn trước. Cũng kể từ đấy quan quân triều đình, kể tây tà cũng không dám lộng hành như trước. Muốn qua lại vùng này phải qua sông, qua đò, bãi sậy, lau lách nhiều nên chúng e ngại, không dám nghênh ngang như ở nơi khác. Từng có nhiều vụ đánh đắm thuyền, phục kích trong bãi sậy giết không ít quan quân. Cái tên xóm liều có từ cái tích này.. Nhưng mấy năm nay tạm tạm yên. Cậu đừng lo..mình là người lương thiện chắc không xảy ra chuyện gì.. Những năm trước, cữ này tôi đã dọn hàng về rồi. Khách cũng chẳng ai qua sông vào khoảng này đâu.
Lại hỏi:
- Cụ có phải người gốc gác vùng này không ạ?
- Già vừa mới nói. Ông nhà này trước ngày làm bếp cho cụ Đề. Sau theo ông Nắm một thời gian. Còn tôi người Nhã Nam, theo chồng chạy giặc về đây.
- Con cái của cụ có đông không ạ?
- Có một cô con gái. Nó đầy tuổi thì ông nhà tôi bị người ta báo quan bắt, đày đi Lao Bảo một thời gian, ốm bệnh mất rồi..
Bà lại lấy bàn tay răn deo nâng vạt áo lau khóe mắt.
Khách thấy không nên hỏi thêm nữa. Nỗi bi thương không phải là chỗ người ta nên đụng vào.
Bà cụ sắp lại mấy cái bát, mặc dù nó vẫn ngay ngắn, chưa ai đụng tới. Một hồi. Lại chính bà lão kể:
- Nó mới lấy chồng bên kia sông mấy năm nay. Vợ chồng nó cứ bảo về đấy nó nuôi, không nên ở đây một mình. Vừa không yên trí, ngộ nhỡ ốm đau.. Nhưng tôi chưa muốn phiền. Một mình ở đây cũng có cái thoải mái, tuổi già thích thế, ngại va chạm nhờ vả kể cả con cái mình.. Nó cho đứa con đầu của nó ra ở đây với tôi. Nhà nó hôm nay có việc, nó về mai sớm mới sang.. Già hỏi khí không phải, cậu sang sông là đi qua đây hay có việc gì?
- Con sang ông lý Chẩn cất thuốc của ông ấy. Sống tạm bằng nghề này cụ ạ. Đi chữa dạo, ai cần thì giúp. Thuốc hết lại về đây cất thêm.
- À ra thế. Hẳn nào tôi nom cậu cứ ngờ ngợ, quen quen. Già lẩm cẩm thế đấy.Chuyện đời nào đời nào thì nhớ, ngay giờ lại hay quên. À mà nãy già lỡ lời, cậu có sang bên ấy gặp ai cũng đừng kể lại chuyện “Xóm Liều” vừa rồi. Kẻ ác khẩu gọi thế, chứ có ai liều với ai? Có liều thân liều mình là với giặc dã, cướp trộm thôi. Cũng là bất đắc mới phải làm như vậy. Thời buổi hư loạn này, lành hiền quá dân tình cũng không sống nổi, phải không cậu? Biết thì biết thế, nhưng nói chuyện này trước mặt người ta là không nên, cậu nhỉ?
- Vâng!
Khách đáp ngắn như vậy, nhưng trong lòng anh xốn xang, áy náy bao điều. Cái nơi anh đến còn có câu loan truyền cả nước: “Chơi với Xốm, không ốm cũng què” nói về cái “xóm Liều” bà cụ vừa kể. Nghe còn e ngại hơn nhiều. Nhưng mà miệng lưỡi thế gian, yêu ghét nhiều khi  vì nhiều lẽ, nhiều khi chưa công bằng, chưa minh xác. Dù sao có chút thận trọng vẫn hơn, anh nghĩ vậy. Cũng là lúc chiếc thuyền nan từ bờ bên hữu đang từ từ tiến vào bờ. Hai thày trò từ biệt bà lão xuống đò. Trên dải cát bờ sông từng đàn bồ nông vừa hạ cánh xuống  gần mép nước. Nước sông màu hồng đục, có lẽ vừa có mưa lớn ở thượng nguồn. Núi Nghĩa Lĩnh trong chiều đứng uy nghi. Từ nơi đó đang từng đàn cò trắng bay về. Sắc trắng bộ lông của chúng chốc chốc lại hòa lẫn trong mây.

( Còn nữa..)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: