Thực ra, trong việc chuyển về xuôi của bố mẹ tôi còn một lý do khác, mà lúc bấy giờ hai người không nói. Nhưng bá tôi biết. Bà bảo:
- Trước sau gì bố mẹ chúng mày cũng phải về. “Cò ăn từng thung”,
con người cũng vậy. Không phải ai cứ muốn ở đâu thì ở. Quan trọng là cái kế sinh
nhai. Bơi đò và bán quán chẳng qua là vạn bất đắc dĩ với bố mẹ các cháu phải
làm. Nghề làm thuốc phải có đất mới sống được. Ở quê người ta biết tiếng lâu
rồi, mới sống nổi. Bố chúng mày ở đây ai người ta biết? Bơi đò cũng chỉ trợ
thời. Mấy đứa ở đây với bác bá, ổn ổn bố mẹ các cháu sẽ lên đón.
Lý do đơn giản ấy, vậy mà chúng tôi đâu có biết? Chỉ thấy bấy giờ
bố mẹ chúng tôi hay phàn này về làm ăn, cuộc sống khó khăn. Không đả động gì
đến nghề thuốc gia truyền chữa bệnh lòi dom, chữa sâu quảng, hắc lào, thuốc cam
có từ thời các cụ tổ ngày xưa.
Chị cả tôi năm ấy đã mười bảy tuổi. Chị thường gánh gồng giúp bá
tôi mang hàng ra chợ Tam Kỳ, họp ở trong thành cổ.
Hàng họ cũng chẳng gì nhiều. Toàn kim chỉ, bấc đèn, mấy thứ tạp
hóa vằn vặt.
Có một anh vệ quốc mê chị lắm. Thỉnh thoảng ngang qua ghé thăm
nói vài câu, mặt đỏ dừ, vội vàng đi ngay. Chị thức mấy đêm thêu tặng anh chiếc
khăn tay có hình bông hồng và đôi chim hòa bình.
Đấy là biểu tượng tình yêu thời đấy, không biết ai mách cho chị
tôi.
Anh này về sau chuyển sang công an xung phong đóng ngay ở thị xã.
Tình duyên của họ cũng nhiều trắc trở. Không ai ngờ anh cu Tý nhà ông cả Tõm
lại cùng đơn vị với anh người yêu của chị tôi.
Thời bấy giờ là thời người ta tôn trọng tổ chức hơn mọi tình
nghĩa trên đời. Cu Tý báo cáo với tổ chức gia đình tôi “có nguồn gốc bóc lột,
từng làm tay sai cho đế quốc phong kiến”. Vậy là mối nhân duyên chưa thành.
Chị tôi khóc thầm hàng tháng trời, người rạc đi như vừa trải qua
cơn bạo bệnh. Bá tôi an ủi thế nào cũng không được.
Thật may, kỳ ấy có cuộc họp ở dưới Tân Ca, ông Tú Ất ở dưới xuôi
lên. Ông đã thành nhân vật quan trọng, có uy tín. Ông đứng ra bảo lãnh, người
ta mới chấp nhận.
Đám cưới chị tôi cha mẹ tôi không có mặt, chỉ có bà bá đứng ra
làm đại diện. Tổ chức theo đời sống mới, chỉ có liên hoan bánh kẹo, chủ yếu vui
bằng vỗ tay..
Nhưng đấy là chuyện một năm nữa mới xảy ra. Còn sáng nay gánh
hàng xong ra chợ chị tôi về rủ cả tôi và người anh trai tôi sang bên kia sông
lấy củi.
Chúng tôi đi nhờ mảng qua chỗ bến đò hơn ba mươi năm sau xây cây
cầu bê tông qua sông Lư bây giờ.
Đang mùa nước lũ, nước chảy rất xiết. ba chị em phải đi ngược lên
trên bến đò một đoạn, mảng dạt xuống mé dưới là vừa. Đánh vật với dòng nước mấy
tiếng đồng hồ, gần trưa chúng tôi mới sang tới bờ bên kia. Ba chị em men theo
bờ sông, tới cổng đền Thượng bây giờ ngồi nghỉ. Ở đây có cây đa cổ thụ bóng xòa
râm mát che một khoảng phiến đá nhẵn, phẳng, rất rộng.
Ba chị em lấy cơm nắm ra ăn với cá nướng, anh tôi câu được để
dành từ chiều hôm trước. Vừa ăn vừa khoái chí nhìn ra mặt sông nước đang cuồn
cuộn chảy. Chúng tôi biết dòng sông từ đây sẽ xuôi về ngang qua nhà chúng tôi ở
dưới xuôi. Chị gái tôi lấy lá gấp làm thuyền, viết chữ vào bảo “gửi thư về cho
bố mẹ”. Chả hiểu sao lúc đấy chúng tôi lại tin là thể nào bố mẹ tôi cũng nhận
được?
Đằng nào thì mặt trời đã lên cao, phải nghỉ trưa ở đây. Đang đầu
mùa hạ, nắng gắt, không thể leo núi vào lúc này. Chúng tôi đi quanh khu đền bỏ
hoang, dây dợ chằng chịt. Những lối đi lâu ngày đã xanh rêu. Có đoạn cỏ rác, cỏ
lông vực đan dày. Nếu không mang theo dao, rất khó lòng để đi qua.
“Đây là ngôi đền có từ lâu lắm rồi. Ngày trước thường có hội rước
từ bên này sông sang bên kia sông. Xuôi bên hữu ngạn một quãng chừng hơn cây số
còn có đề Hạ. Hai ngôi đền theo truyền thuyết kể rằng rất linh thiêng. Đời vua
Hùng Vương thứ mười tám có hai nàng công chúa con gái vua Hùng ngược lên, vãng
cảnh thượng du. Lên mãi cọc đá thề trên Nà Hang quốc, đến quãng sông này thì
hóa. Dân chúng bởi vậy mới lập đền thờ. Hàng năm dịp đầu xuân hội mở rất to,
dân chúng náo nức về trảy hội. Người ta rước kiệu hai nàng công chúa qua sông.
Chiêng trống vang lừng, thuyền kết hoa rộn rã một khúc sông.
Chỉ có mấy năm chiến tranh loạn loạn, giờ thành ra thế này”.
Không biết nghe ai kể, chị tôi bảo thế. Tôi thì tôi cứ phân vân.
Tôi nghĩ có thể bấy giờ hai người công chúa không may gặp phải trận lũ bất
chợt. Những cơn mưa đường rừng, lũ rất
khủng khiếp. Hoặc là gặp thú dữ hồi ấy còn khá nhiều..
Nghĩ thì nghĩ vậy, có một nỗi sợ mơ hồ nào đó trong lòng, khiến
tôi không dám nói ra.
Tôi chưa học sử nên tôi còn rất mơ hồ.
Cũng không ngờ rằng kể cả sau này, học lên đến đại học rồi, cũng
chẳng hiểu được gì hơn. Sử sách nước mình còn bao nhiêu điều vẫn là huyền thoại,
chẳng rõ ràng.
Làm sao dòng giống Lạc Hồng lại là dòng giống tiên rồng đẻ ra từ
một bọc trăm trứng? Cho dù triều đại các vua Hùng là có thật. Triều đại vinh
quang, hiển hách đó chắc chắn là phải
sinh ra và tồn tại như thế nào đấy, chứ không thể hoàn toàn như những câu
chuyện kể, tôi từng được nghe.
Liệu có phải một tai nạn nào đó rất nặng nề của dân tộc mình đã
làm thất lạc sử sách ghi chép truyền cho đời sau? Hay có một thế lực bạo tàn,
đen tối nào đó đã cướp bóc, hủy hoại nó, chỉ còn lại mờ mịt, mung lung đến tận
bây giờ?
Câu hỏi đó mãi sau này, lúc nào cũng bứt dứt trong tôi mỗi khi
nhân việc nào đó gợi nhớ lại.
Sau này tôi càng cố công tìm hiểu lại càng thấy thật quá sức
mình!
( Còn nữa..)
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét