Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 15 tháng 6, 2013

Trích TT:



  ( Vị nào muốn sở hữu xin liên hệ )

....Giờ thì ba đứa chúng tôi đang ngồi bên bờ sông Lư. Con sông vừa chứng kiến những trận đánh kinh hoàng giữa ta và địch. Giữa những người lính mặc quần sooc, áo trấn thủ vá vai với lính thủy, lính dù mũ sắt, giày đinh.
Có những quãng sông từng loang đỏ máu pha lẫn phù sa. Những xóm làng bình yên bỗng chốc một chiều khói đen mù mịt, cuộn thành cột tủa nấm ngang trời. Những gềnh đá còn vắt ngang tàu giặc, vạt lau cháy xém bởi bom đạn.
Chúng tôi nhìn sang bên kia núi Dùm. Nơi có thác nước ào ạt chảy giữa lòng khe, hai bên chằng chịt dây leo quấn quanh bờ đá. Vào sâu nữa phía bên trong còn có cả một hang đá chứa vừa vặn một lớp học. Thầy Sản từng dẫn chúng tôi đến đó chạy giặc trước khi tản vào rừng sâu..
Bây giờ thì thanh bình trở lại.
Dòng sông mùa này nước trong. Thấp thoáng hai bên bờ nếp nhà bè bé nhỏ của dân chài. Thỉnh thoảng xuất hiện chiếc thuyền nan qua lại đôi bờ. Ánh nắng chiều lấp loáng trải mãi tới vô cùng, nơi có những đỉnh núi nhấp nhô, tim tím màu lam phủ.
Thằng Khánh người Hà Nội học cùng lớp chúng tôi. Nó trắng nhễ trắng nhại, tay mềm và hồng như tay con gái. Được gái nó học toán rất giỏi. Hầu như bài tập nào khó đến đâu nó cũng giải được. Chỉ phải tội ít nói, có đứa bảo nó kiêu ngầm.
Thằng Hạnh người Thổ thì ngược lại. Thằng này chân tay to, “lò xo ngắn” bọn con gái hay trêu nó thế, vì tính cả thẹn.
Hạnh học gạo, sử địa nó thuộc vanh vách nhưng lại kém toán, văn vào loại xoàng nhất lớp.
Nhà nó ở mãi trên Xiêm Hóa, từ đây lên đấy gần bằng nửa từ đây về Hà Nội. Trên đấy chỉ có cấp một, nên nó phải về đây học cấp hai. Nó ngại mỗi khi về nhà hơn là từ nhà nó xuống trường. Phải đi bộ mất một ngày cật lực mới lên tới nơi. Còn khi xuống coi như không thành vấn đề. Chỉ cần cái mảng nứa nhỏ là có thể “yên trí lớn”, không cần lo nghĩ. Mỗi bận nó về, bố mẹ nó xếp cho đủ thứ. Nào gạo nào gà, thịt lợn kho trám ăn cả tháng mới hết.
Trong ba đứa chơi với nhau, nó là đứa có sức khỏe nhất. Tôi thì làng nhàng, không ốm đau vặt nhưng không bền sức. Thằng Khánh èo uột như con gái, đi chân đất một quãng là kêu oai oái. Quanh năm nó xỏ chân vào đôi giày mang từ Hà Nội lên tróc hết xi, có lỗ thủng ở chỗ mắt cá chân. Nó là thằng duy nhất mang giày và biết đi xe đạp của lớp. Nó hay được thầy giáo sai ra chợ mua thứ gì đấy cho thầy. Bố mẹ nó ở cả dưới huyện “Con Dê”, nơi đầu não kháng chiến. Thỉnh thoảng ông bà ấy cho người mang cho nó gạo, tiền.
Chỉ có tôi là “kinh tế” kém nhất. Nhưng chẳng đứa nào suy bì hơn thiệt. Chúng tôi ở chung một phòng và thổi cơm chung. Ban đầu nhà trường cũng có bếp ăn tập thể, sau đợt chạy tản cư mới phải tự túc nấu nướng. Nhà ăn, đồ đạc của trường bị phá hủy, một cái bát ăn cơm cũng không còn nguyên vẹn.
Ban giám hiệu nói phải thời gian nữa mới củng cố nhà ăn tập thể.
 Không hề gì. Chúng tôi nấu lấy ăn lại có có vẻ khoái hơn vì được ăn no, được cải thiện thêm nếu biết kiếm thêm được rau cỏ.
Về mặt này thằng “Hạnh Thổ” là bậc kỳ tài. Nó biết nhiều loại rau mà chúng tôi nghĩ không thể ăn được mọc trong rừng, ven bờ sông. Tài tôm cá của nó lại càng không cần nói. Nó là “bậc thiên tài” bẩm sinh về mặt này.
Nó nói: “Tao ở vùng cao, nhưng nhà gần sông, đầu nguồn con sông này nên giỏi bơi lội từ bé. Sông chỗ tao nước chảy xiết lắm, chứ sông ở quãng này ăn thua gì?”.
Tôi chưa lên nhà nó lần nào, nhưng tin là nó nói thật. Người Thổ ít khi nói sai bao giờ.
Thằng Khánh đi theo chúng tôi chẳng qua cốt để vui bạn. Nó rất ngại lội xuống nước vì không biết bơi. Có tắm sông cũng ngồi trên bờ lấy cái chậu múc đổ lên người, kì cọ rất cẩn thận.
Có lần chúng tôi nghịch ác xô nó xuống nước, ngụ ý để nó quen dần rồi tập bơi. Nó giãy giụa, kêu gào thảm thiết như bị người ta làm thịt, làm bọn tôi áy náy ân hận mãi. Nó giận đến cả tháng mới lại chơi cùng. Chả bao giờ tôi và Hạnh dám nghĩ đến chuyện tập bơi của nó nữa.
Hôm nay nó kiếm đâu được quyển sách mang theo. Nó dựng xe gần chỗ chúng tôi cất quần áo, mải miết đọc. Chắc là cuốn sách hay lắm, tôi đoán thế, nhưng lúc này tôi chú tâm chuyện khác.
Quãng sông này nước lặng. Bờ sông chỗ mép nước rặt đất gan gà dẻo quẹo. Cỏ mọc xòa cả ra mặt nước. Những chỗ như thế thường có hang tôm, hang cá làm tổ. Có cả rắn nữa. Nhưng rắn nước chúng tôi không sợ. Cả tôi và thằng Hạnh đều bị rắn cắn vài lần. Chỉ bị đau, ngứa mất mấy hôm vì rắn nước không độc. Tôi từng bắt bỏ vào ống nứa để trêu bọn con trai nhát gan trong lớp.
Thằng Hạnh không mò tôm hú họa như tôi. Chiều hôm trước nó đã thả xuống những chỗ kín đáo chỉ mình nó biết, bây giờ là việc ra nhắc lên. Toàn những chú tôm càng đen rức, lưng xanh xám màu rêu, to bằng ngón tay.
Tôi đến phát ghen với nó nhưng lại không biết đan lờ. Vài lần định học mót nghề của nó, không thành. Cái lờ tôi đan dúm dó, méo xẹo, có chỗ hở nghiêng bàn tay lọt qua. Thế thì đơm tôm làm sao được?
Ông trời hình như rất có ý. Chỉ cho mỗi người hay một số nghề, chứ không cho tất cả. Tỷ như nghề cắm cần của anh trai tôi, tôi học mãi có được đâu?
 Bố tôi hay triết lý. Ông bảo “Đấy là đức hiếu sinh của trời đất dành cho mỗi con người”. Để ai cũng có thể sống trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Tôi lần đến mấy cái hang mà chưa bắt được chú tôm nào. Bất chợt thàng Hạnh kêu rú lên:
- Tính ơi ( Tính là tên tôi), lại đây mau!
Tôi tưởng nó bị rắn hay con gì cắn, hóa ra không phải. Thằng Hạnh mò từ dưới nước lên tay cầm vật gì đó giơ lên cao:
- Có cái gì đây này!
Thì ra đấy là cái bình gốm nhỏ, màu lam, thuôn thuôn giống cái chai, hai bên có hai cái quai liền với bình, nom rất ngộ. Tôi chưa thấy cái chai hay cái bình như thế bao giờ. Bình được gắn xi rất kỹ. Chúng tôi vội lên bờ gọi thằng Khánh. Nó cầm xoay ngang xoay dọc một lúc, xem xét chưa khám phá ra chuyện gì, bảo thằng Hạnh đưa con dao nhọn mang theo. Khánh khéo léo cạy cái nút cũng bằng gốm được gắn xi ra. Bên trong chẳng có gì, ngoài chút nước lõng bõng, một tờ giấy nan nát, có chữ đã nhòe hết không đọc được. Rồi làm như am hiểu nó bảo:
- Tao có nghe bố tao kể chuyện hồi quân Pháp bị quân Cờ đen vây hãm trong thành. Bọn chúng không làm sao liên lạc được với bên ngoài để xin quân ứng cứu. Có một sĩ quan nảy ra sáng kiến. Ông ta viết những lá thư bỏ vào trong chai, thả xuống cống ngầm từ thành nhà Mạc chảy ra sông. Quân Pháp ở Hạc Trì nhờ thế mới biết tin đêm quân lên giải vây.. Chẳng nhẽ cái bình này là một trong số đó?
Hạnh hỏi:
- Nếu vậy nó phải nổi chứ sao lại chìm..
Khánh cười nhếch mép ra vẻ:
- Có thể trong lúc vội vã, tên sĩ quan đó không nghĩ rằng cái bình này nặng không thể nổi được? Tao nghĩ có lẽ là thế!
Tôi thì tôi không tin. Quãng này là phía trên thành nhà Mạc, chả nhẽ cái bình trôi ngược lên đây hay sao? Mảnh giấy trong bình có thể là văn bản hay giấy tờ đặc biệt người ta cất giấu, hoặc bị trôi dạt từ đâu về thì đúng hơn.
Những trận lũ đường rừng còn cuốn trôi cả bia đá, chuông đồng từ những chùa chiền mạn nược về đây. Có lẽ cái bình cũng trong trường hợp ấy.
Chúng tôi cãi nhau một thôi một hồi, không đi đến ngã ngũ.
Thằng Hạnh không tham gia. Nó lẳng lặng tiếp tục công việc vớt lờ.
Chiều hôm ấy tôi mang cái bình về nhà bá tôi. Ông bác dượng rất thích. Ông lấy cát đánh cho nó bóng lên rồi cất kỹ trong tủ.
Từ hôm ấy nhà bá tôi hay có chuyện lục đục. Những chuyện cãi nhau với người xung quanh mà nguyên nhân không đâu vào đâu. Tôi nghĩ có thể tại cái bình có ám khí, hay sự rắc rối nào đấy, nhưng không dám kể với ai.
Không biết có phải lỗi từ việc mang cái bình bí ẩn về hay không? Sau này tôi gặp nhiều ái oăm chắc trở?
Tôi định mang ý nghĩ này hỏi thầy Sản. Thầy lúc đấy hình như có chuyện không vui.
Tôi đứng lưỡng lự trước cửa phòng thầy một lúc rồi quay ra..
Câu chuyện về cái bình cứ làm tôi day dứt mãi một thời gian dài. Có lúc tôi muốn tìm cách trả nó về với khúc sông, nhưng không được. Tủ khóa, bác dượng tôi lúc nào cũng kè kè chùm chìa khóa bên mình..


( Còn nữa..)

Chia sẻ thêm:

Hôm nay mới biết kỹ về "Ngày của Cha". Dù xuất xứ thế nào, thì hôm nay cũng là ngày tôi nghĩ nhiều về cha tôi.
Cha tôi cho tôi nhiều lắm, nhưng có một điều mà cha tôi đã nói trong lúc buồn: "Nếu cái nhà này là con thuyền thì ta đã đẩy nó đi nơi khác lâu rồi". Đó là tư tưởng của cha để lại cho anh em chúng tôi. 
Cha tôi mất năm 53 tuổi, năm 1980. Mãi 10 năm sau tôi mới viết được:

VỚI CHA
Kính dâng hương hồn cha

Từ Điện Biên cha mang về vết thương còn rỉ máu
Và những lời ca hành khúc hào hùng
“Hò dô ta… nào!” Mẹ cùng cha kéo đất
dựng một ngôi nhà bé tí giữa mênh mông!

Con tha thẩn một mình bên gốc gạo
Nhặt những cánh hoa rải kín sân nhà
Mà cứ tưởng rằng cái màu đỏ ấy
Nuôi sống người qua cái đói tháng ba!

Rồi cứ thế con lớn lên bằng khoai sắn
Và chỉ sắn khoai thôi, con cũng thành người
Rồi cứ thế cha già đi thầm lặng
Cau trong vườn mỗi tháng một tàu rơi!

Con mải miết đi săn tìm hạng phúc
Đến một hôm lần tóc bạc trên đầu
Vội vã chạy về tuổi thơ ngày trước
Thẫn thờ ngồi trước một nấm đất nâu.

Cha đã khuất. Hoa gạo không còn đỏ
Người ta chặt đi cây cổ thụ cuối cùng
Đường đi học giờ chỉ toàn là cỏ
Nước mắt dù chảy mấy cũng bằng không!

Thái Nguyên 1980-1990
HOÀNG ĐÌNH QUANG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: