Doduc
1-
Cứ đến chợ phiên ở Pờ Vần Chải là người ta lại gặp một chàng trai Mông. Chàng mang cây khèn cũ ngồi ngay bên hàng bán khèn…tiếng khèn của chàng lúc lúc lại cất lên, rộn ràng một góc chợ.
Tưởng đó là người quảng cáo cho việc bán khèn, nhưng hóa ra không phải. Ông già bán khèn và người trai trẻ chơi khèn kia chẳng hề quen nhau.
Bao nhiêu năm nay, người đến chợ Pờ Vần Chải này tìm mua khèn tất thảy đều biết mặt chàng trai. Tất cả đều từng được nghe tiếng khèn của chàng. Tiếng khèn khi ngân dàì như sợi tơ vàng khâu níu tình những người nghe lại với nhau. Nhiều năm nay, kể cả người hay ghen tị nhất ở Sủng Chà nơi làm ra nhiều cây khèn hay nhất vùng núi cao này cũng không tìm ra được lời để chê cây khèn này. Không phải sợ gì mà không dám chê. Chỉ bởi càng dỏng tai thì càng thấy tiếng khèn hay hơn, thế thôi!
2-
Nghe được tiếng khèn, lại thấm được cái hay của nó là khó vô cùng. Thường chỉ người Mông nghe mới biết tiếng khèn hay ở chỗ nào. Cây khèn 5 ống hơi cho năm cung bậc, tinh âm thoát ra từ các ống khèn cao thấp luôn quện vào nhau, luôn đi đôi đi ba mà không chen lấn, không che mặt nhau. Độ chênh từ ống to đến ống nhỏ cứ hợp nhau lên bổng xuống chìm như sóng lượn.Cũng có lúc nó nấc lên như đi ngược dốc, lúc lại thầm thì như đang đi xuôi. Lúc thì bay lượn những tiếng tâm tình, quyện vào nhau, xoắn xuýt vào nhau. …
Đã không dưới dăm chục người trả giá cho cây khèn cũ của chàng trai. Ai cũng muốn làm chủ mới của nó, nhưng không ai được toại nguyện , kẻ cả người có nhiều đồng bạc trắng hoa xòe nhất vùng này.
3-
Ai cũng biết đó là cây khèn gia truyền của dòng họ Vàng Sềnh. Cha được giữ cây khèn từ khi ông nội không còn sức chơi nữa ..và bây giờ đến lượt chàng. Chàng trai chỉ biết có vậy, còn trước đó và những người bề trên, ai làm ra cây khèn thì chàng cũng không biết!
Cây khèn gia truyền đương nhiên là giá trị bản mệnh của dòng họ Vàng mà gia đình chàng trai đứng đầu ngành phải cất giữ. Nó còn là giá trị kiêu hãnh của bản Tả Xeng Cheo. Người ta kháo nhau: chỉ ở Tà xẻng Cheo mới có cây khèn quí như thế. Cây khèn lại còn trở thành niềm tự hào của cả chợ huyện này nữa nữa. Bởi từ đời cha đời ông chàng trai cũng thường mang khèn ra chơi ở chỗ bán khèn như là một sự khẳng định không còn tiếng của khèn nào hay hơn.
Mấy chục năm trôi qua rồi. Người thanh niên ấy bây giờ mắt đã mờ, gối đã mòn , bước đã liêu xiêu, nhưng cái tai vẫn thính ,cái đầu vẫn tinh, đó là Vàng Sênh Chu hôm nay đó!
4-
Đã có ai một vài lần xem đấu khèn. Bây giờ vào ngày hội, đôi khi có các chàng trai Mông cũng lên sân khấu biểu diễn đấu khèn. Già bản Vàng Sênh Chu lắc đầu bảo:đó là đám trai hoi, chúng có biết gì về khèn. Chúng chỉ quen xoay vòng kiểu con gà trống le đuổi con mái, nhạt lắm. Lại còn bọn văn công biểu diễn nữa. Chúng múa may, mặc áo phanh ngực thêu xanh đỏ làm gì. Chỉ rối mắt để quên đi việc cần nghe sâu vào tiếng khèn. Người ta đang làm hỏng điệu khèn và làm mất giá trị cây khèn. Tại cái tai chúng nghe được mà vẫn điếc, cái đầu nó tối không nghĩ ra được gì khiến cái mắt hóa mù.
Chúng biết gì về đấu khèn đâu. Chơi khèn mà tiếng khèn vỡ vụn ra như bột mèn mén. Thời ta, tiếng khèn dẻo như hạt dền đỏ được đồ lên nghiền nát, dai như cối xôi giã để vắt bánh dày ngày tết. Tiếng khèn còn dài như tiếng gió chui qua hang núi, miên man như sợi dây mây dây song luồn suốt trong rừng cây, qua đồi này đồi khác. Tiếng khèn còn dội xa như tiếng thác nước trong đêm sâu, nỉ non trầm bổng như gió ngàn trong ngày rừng động.
5-
Thời của ta: đấu khèn đâu đơn giản chỉ biết đi xéo, ngoáy mông vặn người vài cái sang phải sang trái như chăn trâu đuổi bò bây giờ. Thời ta chơi khèn biết trồng cây chuối một vai dính đất mà không bị cắn vào lưỡi, không bị ống khèn chọc vào họng khi chân đưa lên trời , nhảy đập hai chân, đi lò cò mà tiếng khèn không bao giờ đứt, tiếng khèn cứ thế vi vu dài cả buổi sáng, dài như dây diều của người kinh đó.
Thời ta có Lồ Vản Pù chơi khèn trên thớt gốc cây cưa phẳng. Nó xoay ngược xoay xuôi đập chân đá hất múa lộn dưới nắng, kéo dài bốn giờ đồng hồ mà tiếng khèn không đứt lần nào. Khéo hơn cả bọn thanh niên ngày nay chơi cái trò mà người ta gọi là hip hop thấy trên ti vi.
6-
Tin cái tai ta đi, chỉ cơn gió phây phây lách qua chùm lá móc, ta còn nghe được tiếng xào xạc bèn bẹt. Ta là giám khảo sinh ra chỉ để nghe tiếng khèn trong các cuộc thi, ta là giám khảo Lồ Vản Pù. Tiếng đàn của Lồ vản Pù trong vắt như sợi chỉ tơ treo dưới nắng luôn luôn tròn trịa. Tiếng khèn của Pồ uốn lượn dập dờn như nhịp núi trong dãy Bát Đại Sơn quê ta. Tiếng khèn có lúc trong như sắc nắng xuân, vàng ươm vỏ cam chín khi hoàng hôn. Có lúc lại xanh ngắt như lá rừng, hoặc đỏ khé lên như hoa chuối mọc ken trong vách đá. Có lúc khèn lao xao đủ màu đủ sắc như hoa tam giác mạch. Tiếng khèn bền bỉ như ngựa đường trường, có lúc ì ạch như đang bò trên triền dốc, có lúc tươi như hoa trong ban mai vẫy gió, hoặc như bụi nước bám trên mạng nhện bắt nắng long lanh giống thủy tinh pha lê…Tiếng khèn cuối cùng dài như sợi lanh không dứt trong cuộc đời mỗi người Mông. Lồ Vản Pù đã chơi khèn như thế, tiếng khèn dài bốn giờ đồng hồ khi mệt quá nó chủ động ngừng thì lúc ấy tiếng khèn mới tắt…
Lồ Vản Pù chơi khèn mà khiến con Thào Mỉ người đẹp nhất trong cả trăm bản trong dãy Thập Vạn Đại Sơn phải tự đến theo nó, nói lời mật ong rừng với nó để được nó yêu. Thào Mỉ dính với nó như nhựa cây Hăm Pa. Nhựa cây ấy dính là không gỡ ra, dính dai hơn kẹo kéo, bết hơn nhựa sung nhựa mít, gắn chặt với nó hơn cả keo đầu chó của người Kinh dưới xuôi dùng hàn bát đĩa.
.6-
Ta cũng giỏi chơi khèn nhưng không bằng Vản Pù, nhưng ta biết nghe tiếng khèn lạ khèn hay. Tiếng khèn của Vản Pù lúc ngọt sắc như mật mía lúc lại mặn như muối biển, có lúc thơm mùi thảo quả, có lúc nóng lên như hạt dổi rang trên chảo và bỏng rát như ớt Mường Khương xay thành bột mịn. Tiếng khèn của nó có lúc làm mềm môi như rượu ngô Bắc Hà lại cũng có khi chát như quả sung. Đúng là tiếng đàn của Lồ Vản Pù chứa đủ cay đắng ngọt bùi, trong tiếng khèn của Pù có nước có lửa có gió có cả mây mưa sấm chớp, có mùi có vị.
Thời nay chúng mày không biết tại sao tiếng khèn lại hay đến thế. Chúng mày tưởng tiếng khèn hay là để tìm gái. Chúng mày nông quá, chẳng khác gì con suối trong mùa cạn nứơc.
Tiếng khèn này là lòng người Mông đối với cha mẹ đó , tiếng khèn hay vì nó là lời đưa tiễn cuối cùng của các con, lời vĩnh biệt người sinh ra mình. Lời của nỗi lòng sâu thẳm. Nó là cây khèn dành cho đám ma nên biết nói tình người.
7-
Ta lại phải kể cho nghe câu chuyện cổ tích về cây khèn này. Cây khèn có 6 ống hơi,một ống to và năm ống nhỏ khác dài ngắn khác nhau được bó lại và xuyên qua bầu khèn. Đấy là hình ảnh một gia đình người Mông ta đó.
Năm cha mất, 6 anh em trong nhà bàng hoàng như trời sập trên nóc nước dâng dưới chân. Trước nỗi đau kinh hoàng, cả sáu anh em thương cha than khóc nước mắt chảy thành suối thành sông. Khi cả sáu anh em khóc gần mất giọng, tiếng khóc chỉ còn bé như tơ nhện thì người anh lớn chợt tỉnh ra bảo với các em: chúng ta từng người một thay nhau khóc cha, Nếu cùng khóc thì cùng chết mất, còn ai chăm sóc cho vong hồn cha nữa.
8-
Cây khèn này do T’xơ-Nghia, một ông quan chuyên lo về lễ nhạc của Miêu Vương làm ra, do ông biết câu chuyện hiếu nghĩa của sáu người con gia đình nọ. Cây khèn được làm ra sau khi những người con kia đã lần lượt qua đời, nhưng cây khèn sáu ống đó vẫn còn giữ tên từng người con trong gia đình nọ. Từ trên xuống dưới, từ phải qua trái ống thứ nhất có tênlà Luar, ông thứ hai có tên là Luar K’răz, ống thứ ba là N’Tal, ống thứ tư là P’Lung, ống thứ năm có tên là Pux và ống cuối cùng, đứa em út là Tuk.
Sáu ống khèn bó lại thành một cây khèn để mãi mãi anh em họ được ở bên nhau. Sáu ống hơi được gọi là B’hêl K’rênh. Còn cây khèn thì có tên là K’rênh .
Cây khèn làm xong thổi lên, sáu ống khèn cho sáu giọng người con. Tiếng khèn nối nhau, hòa vào nhau thổ lộ sự đau buồn sâu sắc của con người
9-
Cây khèn ra đời từ đấy. Nó luôn có mặt để cất tiếng khóc trong các đámma đưa tiễn người thân. Đó là những tiếng khóc của những nỗi lòng…
Tiếng khóc báo hiếu tri ân công cha nghĩa mẹ.Tiếng khèn kéo mọi người trong làng trong bản đến để cùng nghe chia buồn, cùng nhớ về cuộc sống sum họp thời thơ bé, thưở bước vào đời cực nhọc, thưở lấy vợ xây tổ ấm, những cuộc sum họp , những buổi chia li, vui và buồn, giận và hờn và thương và xót. Tiếng khèn kể về lòng người, nói về dòng đời,
Khi tiếng khèn cất lên, người chơi khèn lò cò miết chân quanh quẩn vòng tròn, thậm chí ở nguyên một chỗ với hàng trăm động tác tay và chân khéo léo là hình ảnh họ đang đi quanh nơi quàn xác người thân.
10-
Cây khèn cất tiếng lên như một bản trường ca về cuộc sống đường đời. Nên khi trổ tài đấu khèn dù động tác có khó mấy người chơi khèn cũng phải giữ bằng được thăng bằng và bình tĩnh để tiếng khèn không mẻ không gẫy, bền bỉ như một dòng chảy thông suốt dù có qua bao khúc quành…
Đó là tiếng khèn tình yêu huyết thống, tiếng khèn tri ân, tiếng khèn luôn song hành với dân tộc họ trăm năm ngàn năm,như dòng đời vĩnh cửu.
11-
Tiếng khèn còn cầm chịch cho nhịp trống đám ma, mô tả cuộc chiến đấu của người Mông đánh giặc. Mỗi người chơi khèn là một đạo quân.
Ba ngày ba đêm trong đám ma, chiếc khèn không thể được nghỉ ngơi. Tiếng khèn vang lên lời oán trách căm giận chúa ngọc hoàng. Người Mông trách Nhux Vax sao lại đem cái chết chóc vô lí xuống trần gian? Tiếng khèn nguyền rủa bọn ngoại tộc độc ác sao không chết đi để người hiền lành vô tội phải bỏ thân.
1-
Cứ đến chợ phiên ở Pờ Vần Chải là người ta lại gặp một chàng trai Mông. Chàng mang cây khèn cũ ngồi ngay bên hàng bán khèn…tiếng khèn của chàng lúc lúc lại cất lên, rộn ràng một góc chợ.
Tưởng đó là người quảng cáo cho việc bán khèn, nhưng hóa ra không phải. Ông già bán khèn và người trai trẻ chơi khèn kia chẳng hề quen nhau.
Bao nhiêu năm nay, người đến chợ Pờ Vần Chải này tìm mua khèn tất thảy đều biết mặt chàng trai. Tất cả đều từng được nghe tiếng khèn của chàng. Tiếng khèn khi ngân dàì như sợi tơ vàng khâu níu tình những người nghe lại với nhau. Nhiều năm nay, kể cả người hay ghen tị nhất ở Sủng Chà nơi làm ra nhiều cây khèn hay nhất vùng núi cao này cũng không tìm ra được lời để chê cây khèn này. Không phải sợ gì mà không dám chê. Chỉ bởi càng dỏng tai thì càng thấy tiếng khèn hay hơn, thế thôi!
2-
Nghe được tiếng khèn, lại thấm được cái hay của nó là khó vô cùng. Thường chỉ người Mông nghe mới biết tiếng khèn hay ở chỗ nào. Cây khèn 5 ống hơi cho năm cung bậc, tinh âm thoát ra từ các ống khèn cao thấp luôn quện vào nhau, luôn đi đôi đi ba mà không chen lấn, không che mặt nhau. Độ chênh từ ống to đến ống nhỏ cứ hợp nhau lên bổng xuống chìm như sóng lượn.Cũng có lúc nó nấc lên như đi ngược dốc, lúc lại thầm thì như đang đi xuôi. Lúc thì bay lượn những tiếng tâm tình, quyện vào nhau, xoắn xuýt vào nhau. …
Đã không dưới dăm chục người trả giá cho cây khèn cũ của chàng trai. Ai cũng muốn làm chủ mới của nó, nhưng không ai được toại nguyện , kẻ cả người có nhiều đồng bạc trắng hoa xòe nhất vùng này.
3-
Ai cũng biết đó là cây khèn gia truyền của dòng họ Vàng Sềnh. Cha được giữ cây khèn từ khi ông nội không còn sức chơi nữa ..và bây giờ đến lượt chàng. Chàng trai chỉ biết có vậy, còn trước đó và những người bề trên, ai làm ra cây khèn thì chàng cũng không biết!
Cây khèn gia truyền đương nhiên là giá trị bản mệnh của dòng họ Vàng mà gia đình chàng trai đứng đầu ngành phải cất giữ. Nó còn là giá trị kiêu hãnh của bản Tả Xeng Cheo. Người ta kháo nhau: chỉ ở Tà xẻng Cheo mới có cây khèn quí như thế. Cây khèn lại còn trở thành niềm tự hào của cả chợ huyện này nữa nữa. Bởi từ đời cha đời ông chàng trai cũng thường mang khèn ra chơi ở chỗ bán khèn như là một sự khẳng định không còn tiếng của khèn nào hay hơn.
Mấy chục năm trôi qua rồi. Người thanh niên ấy bây giờ mắt đã mờ, gối đã mòn , bước đã liêu xiêu, nhưng cái tai vẫn thính ,cái đầu vẫn tinh, đó là Vàng Sênh Chu hôm nay đó!
4-
Đã có ai một vài lần xem đấu khèn. Bây giờ vào ngày hội, đôi khi có các chàng trai Mông cũng lên sân khấu biểu diễn đấu khèn. Già bản Vàng Sênh Chu lắc đầu bảo:đó là đám trai hoi, chúng có biết gì về khèn. Chúng chỉ quen xoay vòng kiểu con gà trống le đuổi con mái, nhạt lắm. Lại còn bọn văn công biểu diễn nữa. Chúng múa may, mặc áo phanh ngực thêu xanh đỏ làm gì. Chỉ rối mắt để quên đi việc cần nghe sâu vào tiếng khèn. Người ta đang làm hỏng điệu khèn và làm mất giá trị cây khèn. Tại cái tai chúng nghe được mà vẫn điếc, cái đầu nó tối không nghĩ ra được gì khiến cái mắt hóa mù.
Chúng biết gì về đấu khèn đâu. Chơi khèn mà tiếng khèn vỡ vụn ra như bột mèn mén. Thời ta, tiếng khèn dẻo như hạt dền đỏ được đồ lên nghiền nát, dai như cối xôi giã để vắt bánh dày ngày tết. Tiếng khèn còn dài như tiếng gió chui qua hang núi, miên man như sợi dây mây dây song luồn suốt trong rừng cây, qua đồi này đồi khác. Tiếng khèn còn dội xa như tiếng thác nước trong đêm sâu, nỉ non trầm bổng như gió ngàn trong ngày rừng động.
5-
Thời của ta: đấu khèn đâu đơn giản chỉ biết đi xéo, ngoáy mông vặn người vài cái sang phải sang trái như chăn trâu đuổi bò bây giờ. Thời ta chơi khèn biết trồng cây chuối một vai dính đất mà không bị cắn vào lưỡi, không bị ống khèn chọc vào họng khi chân đưa lên trời , nhảy đập hai chân, đi lò cò mà tiếng khèn không bao giờ đứt, tiếng khèn cứ thế vi vu dài cả buổi sáng, dài như dây diều của người kinh đó.
Thời ta có Lồ Vản Pù chơi khèn trên thớt gốc cây cưa phẳng. Nó xoay ngược xoay xuôi đập chân đá hất múa lộn dưới nắng, kéo dài bốn giờ đồng hồ mà tiếng khèn không đứt lần nào. Khéo hơn cả bọn thanh niên ngày nay chơi cái trò mà người ta gọi là hip hop thấy trên ti vi.
6-
Tin cái tai ta đi, chỉ cơn gió phây phây lách qua chùm lá móc, ta còn nghe được tiếng xào xạc bèn bẹt. Ta là giám khảo sinh ra chỉ để nghe tiếng khèn trong các cuộc thi, ta là giám khảo Lồ Vản Pù. Tiếng đàn của Lồ vản Pù trong vắt như sợi chỉ tơ treo dưới nắng luôn luôn tròn trịa. Tiếng khèn của Pồ uốn lượn dập dờn như nhịp núi trong dãy Bát Đại Sơn quê ta. Tiếng khèn có lúc trong như sắc nắng xuân, vàng ươm vỏ cam chín khi hoàng hôn. Có lúc lại xanh ngắt như lá rừng, hoặc đỏ khé lên như hoa chuối mọc ken trong vách đá. Có lúc khèn lao xao đủ màu đủ sắc như hoa tam giác mạch. Tiếng khèn bền bỉ như ngựa đường trường, có lúc ì ạch như đang bò trên triền dốc, có lúc tươi như hoa trong ban mai vẫy gió, hoặc như bụi nước bám trên mạng nhện bắt nắng long lanh giống thủy tinh pha lê…Tiếng khèn cuối cùng dài như sợi lanh không dứt trong cuộc đời mỗi người Mông. Lồ Vản Pù đã chơi khèn như thế, tiếng khèn dài bốn giờ đồng hồ khi mệt quá nó chủ động ngừng thì lúc ấy tiếng khèn mới tắt…
Lồ Vản Pù chơi khèn mà khiến con Thào Mỉ người đẹp nhất trong cả trăm bản trong dãy Thập Vạn Đại Sơn phải tự đến theo nó, nói lời mật ong rừng với nó để được nó yêu. Thào Mỉ dính với nó như nhựa cây Hăm Pa. Nhựa cây ấy dính là không gỡ ra, dính dai hơn kẹo kéo, bết hơn nhựa sung nhựa mít, gắn chặt với nó hơn cả keo đầu chó của người Kinh dưới xuôi dùng hàn bát đĩa.
.6-
Ta cũng giỏi chơi khèn nhưng không bằng Vản Pù, nhưng ta biết nghe tiếng khèn lạ khèn hay. Tiếng khèn của Vản Pù lúc ngọt sắc như mật mía lúc lại mặn như muối biển, có lúc thơm mùi thảo quả, có lúc nóng lên như hạt dổi rang trên chảo và bỏng rát như ớt Mường Khương xay thành bột mịn. Tiếng khèn của nó có lúc làm mềm môi như rượu ngô Bắc Hà lại cũng có khi chát như quả sung. Đúng là tiếng đàn của Lồ Vản Pù chứa đủ cay đắng ngọt bùi, trong tiếng khèn của Pù có nước có lửa có gió có cả mây mưa sấm chớp, có mùi có vị.
Thời nay chúng mày không biết tại sao tiếng khèn lại hay đến thế. Chúng mày tưởng tiếng khèn hay là để tìm gái. Chúng mày nông quá, chẳng khác gì con suối trong mùa cạn nứơc.
Tiếng khèn này là lòng người Mông đối với cha mẹ đó , tiếng khèn hay vì nó là lời đưa tiễn cuối cùng của các con, lời vĩnh biệt người sinh ra mình. Lời của nỗi lòng sâu thẳm. Nó là cây khèn dành cho đám ma nên biết nói tình người.
7-
Ta lại phải kể cho nghe câu chuyện cổ tích về cây khèn này. Cây khèn có 6 ống hơi,một ống to và năm ống nhỏ khác dài ngắn khác nhau được bó lại và xuyên qua bầu khèn. Đấy là hình ảnh một gia đình người Mông ta đó.
Năm cha mất, 6 anh em trong nhà bàng hoàng như trời sập trên nóc nước dâng dưới chân. Trước nỗi đau kinh hoàng, cả sáu anh em thương cha than khóc nước mắt chảy thành suối thành sông. Khi cả sáu anh em khóc gần mất giọng, tiếng khóc chỉ còn bé như tơ nhện thì người anh lớn chợt tỉnh ra bảo với các em: chúng ta từng người một thay nhau khóc cha, Nếu cùng khóc thì cùng chết mất, còn ai chăm sóc cho vong hồn cha nữa.
8-
Cây khèn này do T’xơ-Nghia, một ông quan chuyên lo về lễ nhạc của Miêu Vương làm ra, do ông biết câu chuyện hiếu nghĩa của sáu người con gia đình nọ. Cây khèn được làm ra sau khi những người con kia đã lần lượt qua đời, nhưng cây khèn sáu ống đó vẫn còn giữ tên từng người con trong gia đình nọ. Từ trên xuống dưới, từ phải qua trái ống thứ nhất có tênlà Luar, ông thứ hai có tên là Luar K’răz, ống thứ ba là N’Tal, ống thứ tư là P’Lung, ống thứ năm có tên là Pux và ống cuối cùng, đứa em út là Tuk.
Sáu ống khèn bó lại thành một cây khèn để mãi mãi anh em họ được ở bên nhau. Sáu ống hơi được gọi là B’hêl K’rênh. Còn cây khèn thì có tên là K’rênh .
Cây khèn làm xong thổi lên, sáu ống khèn cho sáu giọng người con. Tiếng khèn nối nhau, hòa vào nhau thổ lộ sự đau buồn sâu sắc của con người
9-
Cây khèn ra đời từ đấy. Nó luôn có mặt để cất tiếng khóc trong các đámma đưa tiễn người thân. Đó là những tiếng khóc của những nỗi lòng…
Tiếng khóc báo hiếu tri ân công cha nghĩa mẹ.Tiếng khèn kéo mọi người trong làng trong bản đến để cùng nghe chia buồn, cùng nhớ về cuộc sống sum họp thời thơ bé, thưở bước vào đời cực nhọc, thưở lấy vợ xây tổ ấm, những cuộc sum họp , những buổi chia li, vui và buồn, giận và hờn và thương và xót. Tiếng khèn kể về lòng người, nói về dòng đời,
Khi tiếng khèn cất lên, người chơi khèn lò cò miết chân quanh quẩn vòng tròn, thậm chí ở nguyên một chỗ với hàng trăm động tác tay và chân khéo léo là hình ảnh họ đang đi quanh nơi quàn xác người thân.
10-
Cây khèn cất tiếng lên như một bản trường ca về cuộc sống đường đời. Nên khi trổ tài đấu khèn dù động tác có khó mấy người chơi khèn cũng phải giữ bằng được thăng bằng và bình tĩnh để tiếng khèn không mẻ không gẫy, bền bỉ như một dòng chảy thông suốt dù có qua bao khúc quành…
Đó là tiếng khèn tình yêu huyết thống, tiếng khèn tri ân, tiếng khèn luôn song hành với dân tộc họ trăm năm ngàn năm,như dòng đời vĩnh cửu.
11-
Tiếng khèn còn cầm chịch cho nhịp trống đám ma, mô tả cuộc chiến đấu của người Mông đánh giặc. Mỗi người chơi khèn là một đạo quân.
Ba ngày ba đêm trong đám ma, chiếc khèn không thể được nghỉ ngơi. Tiếng khèn vang lên lời oán trách căm giận chúa ngọc hoàng. Người Mông trách Nhux Vax sao lại đem cái chết chóc vô lí xuống trần gian? Tiếng khèn nguyền rủa bọn ngoại tộc độc ác sao không chết đi để người hiền lành vô tội phải bỏ thân.
Bài khèn đứng số một trong đám ma là bài khèn chỉ đường cho người chết về với tổ tiên. Bài khèn này có vần có điệu nội dung kể về sự hình thành trời và đất, nguồn gốc ra đời của người Mông, cuộc đấu tranh dai dẳng chống lại chúa Ngọc hoàng NhuxVax để người Mông còn đến hôm nay.
12
Thổi xong bài chỉ đường cho người chết, khi tiếng khèn ngưng, người thổi khèn dặn người chết rằng:Tao hát xong rồi, mày tự đi lấy nhé, khi về đến nơi tổ tiên có hỏi ai đưa đường thì nhớ bảo rằng; không biết tên họ người đó,không biết nó là ai, chỉ biết mắt nó to bằng chén uống nước, tai to bằng quạt,mũi to bằng chày, mặt như thớt lớn. Nó đưa xuống đây bằng đường bộ, lúc về nó đi đường thủy, nó đi nhanh lắm, ngựa phi không đuổi kịp, không thuyền nào đuổi nổi, vĩnh biệt mày nhá.
Trả lời như vậy để ma nó ngán , không nghĩ đến chuyện về bản bắt người , phá hoại cuộc sống dân bản.
13-
Đó là lí do người ta thường thấy có hai thứ gần như gắn chặt với người con trai Mông là Cây súng kíp bảo vệ mình và cây khèn là cái gốc muôn đời..
Thế mà đã bao nhiêu sự nhầm lẫn về cây khèn người Mông đã xảy ra từ trước đến nay.
người ta đã coi thường giá trị cây khèn , coi nó chỉ một thứ khèn vui chơi, để cho trai gái yêu nhau, để tỏ tình với nhau.
Người ta không nhớ hay người ta không biết người con gái Mông nói lời yêu bằng đàn môi. L’hnja đá ( dạng máng- có gờ nhỏ) và T’ Laiv play ( dạng vuông). Khi bên nhau rồi thì đôi trai gái cùng dùng đàn môi tâm sự, dùng đàn môi tỏ tình…Còn người trai Mông thì dùng kèn lá, ống tiêu cây sáo để gọi. Có bao giờ dung khèn gọi đâu
Ta phải nói cho mọi người biết và nhớ cây khèn của người Mông chúng ta chính là bảo vật của dân tộc mình. Giống như vải lanh, cây khèn cũng là một tín hiệu văn hóa để người Mông nhận biết nhau, đẻ trò chuyện với tổ tiên. Cây khèn này chỉ có ở người Mông , không dân tộc nào có. Đó là chưa kể còn hẳn một câu chuyện cổ tích dành riêng cho cây khèn!
2013
12
Thổi xong bài chỉ đường cho người chết, khi tiếng khèn ngưng, người thổi khèn dặn người chết rằng:Tao hát xong rồi, mày tự đi lấy nhé, khi về đến nơi tổ tiên có hỏi ai đưa đường thì nhớ bảo rằng; không biết tên họ người đó,không biết nó là ai, chỉ biết mắt nó to bằng chén uống nước, tai to bằng quạt,mũi to bằng chày, mặt như thớt lớn. Nó đưa xuống đây bằng đường bộ, lúc về nó đi đường thủy, nó đi nhanh lắm, ngựa phi không đuổi kịp, không thuyền nào đuổi nổi, vĩnh biệt mày nhá.
Trả lời như vậy để ma nó ngán , không nghĩ đến chuyện về bản bắt người , phá hoại cuộc sống dân bản.
13-
Đó là lí do người ta thường thấy có hai thứ gần như gắn chặt với người con trai Mông là Cây súng kíp bảo vệ mình và cây khèn là cái gốc muôn đời..
Thế mà đã bao nhiêu sự nhầm lẫn về cây khèn người Mông đã xảy ra từ trước đến nay.
người ta đã coi thường giá trị cây khèn , coi nó chỉ một thứ khèn vui chơi, để cho trai gái yêu nhau, để tỏ tình với nhau.
Người ta không nhớ hay người ta không biết người con gái Mông nói lời yêu bằng đàn môi. L’hnja đá ( dạng máng- có gờ nhỏ) và T’ Laiv play ( dạng vuông). Khi bên nhau rồi thì đôi trai gái cùng dùng đàn môi tâm sự, dùng đàn môi tỏ tình…Còn người trai Mông thì dùng kèn lá, ống tiêu cây sáo để gọi. Có bao giờ dung khèn gọi đâu
Ta phải nói cho mọi người biết và nhớ cây khèn của người Mông chúng ta chính là bảo vật của dân tộc mình. Giống như vải lanh, cây khèn cũng là một tín hiệu văn hóa để người Mông nhận biết nhau, đẻ trò chuyện với tổ tiên. Cây khèn này chỉ có ở người Mông , không dân tộc nào có. Đó là chưa kể còn hẳn một câu chuyện cổ tích dành riêng cho cây khèn!
2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét