Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Đọc sách của tôi:

Xin lỗi các bạn chưa được tặng sách. Từ hôm nay, mình sẽ lần lượt đăng tiểu thuyết đã xuất bản năm 2009. Lần này có sửa chữa một số đoạn để khi tái bản sách được chu đáo hơn. Mong các bạn quan tâm và góp ý cho mình nha. Xin cảm ơn!

THĂM THẲM ĐƯỜNG VỀ
1.
Chiếc xe khách cũ kỹ mang dáng vẻ của thời chiến tranh chưa kịp thay vỏ lay hoay một hồi, rồi đỗ ở góc bến. Nơi có cây xà cừ quanh năm xanh thẫm, lá xanh loà xoà bên bức tường đổ. Gã cùng mấy chục con người bước xuống, suýt nữa trượt vào vũng nước còn đọng lại.
Đêm qua trận bão cuối cùng của mùa lũ lụt vừa làm nghiêng ngả bầu trời. Dấu vết trận cuồng phong còn để lại vương đầy trên những mái nhà góc phố. Những viên ngói rêu xẫm, ẩm, vỡ vụn rải rác khắp nơi. Gã dừng lại, ngước lên nền trời xám ngắt.
Mới cuối thu mà sương mù đã giăng kín chân trời, chỉ còn nhìn thấy hình núi non mờ mờ ảo ảo, ẩn hiện phía xa. Mặc, gã hít một hơi thật sâu đầy lồng ngực. Thoang thoảng mùi nồng nồng cay cay trong làn gió từ phía bờ sông đưa lại. Đã lâu lắm rồi mới có được một không gian thoáng đãng, trong lành đến vậy.
Những kẻ cùng về chuyến xe với gã vào cửa hàng ăn thấp lè tè lợp bằng phên nứa, xung quanh vách đan phên, duy nhất có cái cánh cửa bằng gỗ sơn xanh. Ở đó người ta vẫn phải xếp hàng để mua những vé ăn mầu rơm xỉn. Thức ăn cũng chẳng có nhiều. Một đĩa cơm có đến già nửa là mì sợi luộc, dăm miếng đậu phụ rán dầu, ma gi và một chút rau muống luộc phủ lên trên.
            Thoạt đầu gã có vẻ ngạc nhiên: Chiến tranh chấm dứt bảy tám năm rồi mà cảnh vật hầu như chẳng có gì thay đổi. Hồi chưa mất tự do, mười năm trước, gã đã một lần qua đây. Vẫn những dãy nhà thưa thớt, liêu xiêu tre nứa. Họa hoằn lắm mới thấy một căn nhà xây cát vôi thấp bé. Tường nhà có những chỗ tróc vữa lộ từng mảng gạch non lở lói. In đậm trên tường nhà dấu vết ngấn nước của những trận lũ đã qua. Năm này chồng lên năm khác, vạch ngấn nước ngập đậm, nhạt khác nhau.
            Rồi gã cũng hiểu ra rằng: Thời gian ấy so với đời người quả là dài - Nhưng với bước đi của tháng năm nó lại chẳng là gì cả.
Lịch sử thường có lúc trầm ngâm, nghĩ ngợi sau những biến cố kinh hoàng...
Gã không cảm thấy đói. Suất ăn sáng nay gã để lại cho người bạn tù còn ở lại. Người này hơn gã một tuổi. Đã bốn năm nay, hắn không một lần được gặp người nhà thăm nuôi, gầy đến mức không thể gầy hơn được nữa. Tay bưng mấy mẩu sắn đựng trong cái bát men mẻ nham nhở, hắn cảm động ứa nước mắt, không nói được câu nào chỉ gật gật cái đầu rụng gần hết tóc.
            Hôm qua, trước lúc ra tới đây, gã định sẽ đi một vòng quanh thị xã, sau đó sẽ ở lại chơi một ngày nhà thằng bạn tù cùng về đợt này. Nhưng khi xuống xe, tự dưng gã thay đổi ý định. Có thể vì thằng đó khi xe chưa kịp dừng bánh đã vội nhảy xuống lôi gã vào một quán nước. Gã lấy làm lạ là sắp về tới nhà mà hắn không lấy gì làm vội.  Đáng lý lúc này cơn mừng tự do, như chim sổ lồng phảI quên cả ăn mới đúng chứ? Đằng này hắn gấp gáp như con nghiện vật thuốc, nếu không ăn ngay sợ sẽ chết mất! Hắn sơi một lúc cả chục trứng vịt và ăn gần hết một nải chuối, quả nào quả nấy to bằng cổ tay. Làm như chẳng còn khi nào được ăn thoải mái như thế này nữa? Hoặc sợ lát nữa có người lôi mình đi bắn bỏ ngay không bằng!
Gã hình dung ra khung cảnh cả nhà hắn ta sẽ tròn mắt nhìn hai con ma đói ngồi ăn trước mâm cơm sau nhiều ngày xa cách. Ăn như không có người ngồi xung quanh, không có ai trên đời!
Tất nhiên sẽ chẳng ai dè bỉu gì, dù xấu xa tới đâu thì bạn gã cũng là ruột thịt, máu mủ của họ. Nhưng gã thấy nhoi nhói trong ngực. Gã không muốn có những cái nhìn như vậy. Không phải lòng xót thương nào cũng được chấp nhận. Có những thứ thương hại làm cho con người ta tồi tệ, thảm hại hơn.. Nhất là vào lúc này. Sau những đói khát, tù túng khổ hạnh đã lùi về phía sau.
Dù rằng không vào đấy, gã cũng không thể đi ngay. Đằng nào cũng phải chờ cho tới sáng mai mới có chuyến tàu lên Yên Châu. Từ đó đi bộ một quãng mới về tới nơi gã phải về. Nơi mà bất đắc dĩ đã trở thành quê hương, gã chưa hề nghĩ tới có một nơi như thế lại dành cho mình bao giờ.
            Bởi vì giờ đây, gã đâu còn quê hương? Nói đúng ra quê hương chẳng mất đi đâu cả, nhưng nơi đó gã không còn cửa nhà, vườn ruộng. Mẹ gã đã bán cho người ta sau một tai họa gì đó cho tới giờ gã vẫn chưa rõ. Những việc đó xảy ra ít năm, sau ngày gã gặp nạn.
            Ôi, cái làng quê khốn khó nơi châu thổ sông Hồng! Nơi mà trong số các bạn cũ của gã mô tả trong thi ca của họ một cách chán chường. “Nơi đồng non bãi nổi, bạc tình, con người khổ như chó”. Gã thì chưa bao giờ cay nghiệt viết về quê hương bản quán của mình như họ. Nhưng cũng thấy những lời ta thán ấy có lý phần nào..
Nơi những con đường cát mịn loà xoà bóng tre, cánh đồng bãi mùa nào thức ấy. Lương thực chủ yếu là ngô, khoai. Cứ nhìn hình thể bề ngoài là nhận được người của quê mình, con trai mặt vuông hình chữ điền, con gái khuôn mặt tựa trăng rằm. Có lẽ thức ăn là ngô hạt nên bộ hàm phát triển, chỉ được nước da, mái tóc và đôi mắt là khác người. Tóc đen, mắt đen còn da thì bánh mật, nơi thiếu thốn quanh năm mà sức dẻo dai đến kinh ngạc.
            Nơi gã có mối tình đầu nhói đau và cuộc hôn nhân tan nát. Nếu không có cuộc hôn nhân đó, có lẽ cuộc đời gã sẽ khác và giờ đây gã không có mặt nơi này. Mong mỏi gặp lại người thân đến cháy ruột gan mà  ngập ngừng chưa muốn về nhà...
            Những ý nghĩ miên man ấy đưa gã tới bờ sông mà không nhớ gì đến việc uống ăn hoặc hút một điếu thuốc.
Ngoài sông dòng nước đục lững lờ chảy, nếu muốn con sông phải một tháng sau nữa mới kịp trong xanh. Sương khói mơ hồ, thấp thoáng vài chiếc thuyền nan..
Xa nữa, đoàn xà lan đang cố sức ngược dòng.
Gã bâng khuâng nhìn dòng nước chảy thầm tính độ đường. Từ đây nếu ngồi thuyền phải mất hai ngày hai đêm mới về tới làng xưa xóm cũ, về đến con ngõ nhỏ có cây bàng khẳng khiu như một mụ già còm cõi, con ngõ hai bên là những ao chuôm khi cạn, khi đầy. Đêm đêm đom đóm lập loè bay, inh ỏi tiếng ếch nhái kêu vang mùa nước. Cùng phảng phất sương mù trên cánh đồng cỏ, những đụn cây ngô đánh đống chất ngất, nom như những chiếc nồi gốm khổng lồ úp xuống vào những ngày đông.
           
        Không! Bây giờ không phải lúc nghĩ lại những chuyện buồn đã qua. Gã thấy thèm chỗ đông người. Nơi có tiếng cười tiếng nói xung quanh. Dù rằng chỉ là tiếng nói tiếng cười của những người xa lạ, biết đâu gã chả gặp một người quen? Thậm chí là người nhà vì một việc nào đó, họ có mặt nơi đây?
Đang còn là thời kỳ miền núi sống dễ chịu hơn mọi nơi, bởi đất rộng người thưa. Mọi sự quản lý hành chính có phần lỏng lẻo, do đi lại khó khăn, nhà nước muốn quản kỹ cũng khó. Ít nhất người ta còn có thể trồng thêm vạt sắn, đám ngô ngoài kế hoạch. Con lợn con gà còn dư ra ngoài phần đóng góp nghĩa vụ hàng năm.
Nghe nói, vùng xuôi bây giờ đời sống khó khăn. Cứ xong ba ngày Tết là những ai còn khoẻ mạnh đều lên rừng kiếm ăn cả. Đàn ông thì đi đốn gỗ thuê cho lâm trường. Ngoài tiền công hàng tháng, lâm trường còn cho họ một suất tiêu chuẩn củi, nứa mang về cải thiện. Cái phần thêm này đôi khi quan trọng hơn cả tiền công. Nhà nào có người đi làm việc này cũng đều khá.
Ngày gã còn ở nhà cũng từng có việc đó rồi, lâu lâu ngoài bến sông Hồng lại có một đám bè đỗ lại. Người ta kéo lên bờ ngổn ngang tre nứa. Gọi là củi, thực ra là những khúc gỗ có thể xẻ ra đóng bàn, đóng tủ. Làm thợ sơn tràng vài tháng có khi bằng mấy năm ở nhà theo công điểm hợp tác. Chỉ những người không thể đi được thì mới chịu ở nhà. Chấp nhận công một ngày một hai cân khoai hoặc hai lạng thóc. Những người có nghề như thợ xẻ, thợ mộc thì quanh năm sống ở trên rừng. Xa vợ xa con nhưng ngày hai bữa cơm bưng nước rót. Tội gì ở nhà thiếu từ điếu thuốc lào trở đi, xái hàm nhai ngô vỏ? Đàn bà khoẻ mạnh không vướng bận chồng con cũng lên rừng làm mướn cho vùng dân tộc. Cũng cấy lúa, làm cỏ gặt hái ruộng nước như ở đằng xuôi.
            Họ làm cuộc hành trình ngược lại. Nếu hàng ngàn, hàng trăm năm trước tổ tiên theo các triền sông về định cư vùng châu thổ sông Hồng mầu mỡ thì ngày nay, cháu con lại khăn gói lên rừng. Với cái ý nghĩ ngàn đời là " tiền rừng bạc biển ". Có những người lấy vợ lấy chồng ở lại mãi mãi với rừng xanh. Biết đâu gia đình gã cũng nổi trôi trong dòng lưu tán?
Có lúc gã nghĩ dân tộc gã là dân tộc du cư, tự buổi khai thiên lập địa. Thời nay còn có nhiều người “đi xa hơn nữa”? Họ đi ra ngoài phần lãnh thổ mù mịt tăm hơi. Những tin tức ngoài xã hội có nhiều cách lọt vào nơi chật chội, tối tăm gã vừa trải qua. Gã sẽ không lấy làm lạ nếu như lúc này gặp một người quen ở nơi xa lạ này.
       Người làng gã bây giờ trong Nam ngoài Bắc không tỉnh nào không có? Người ta đi với nhiều lý do khác nhau. Nhưng nguyên nhân chính vẫn là quê nhà đất chật người đông. Lại thêm cơ chế ngặt nghèo. Những quy định “khẩn cấp” thời chiến tranh chưa kịp thay đổi.
            Sau ngày Miền Nam giải phóng. Người ta đổi tên nước và tên các tỉnh. Thủ đô Hà Nội được mở rộng ra đến hết xứ Đoài, tận chân núi Ba Vì. Quê gã nghiễm nhiên trở thành vùng ngoại ô. Kẻ có óc hài hước bảo: “ Bây giờ không còn Hà Tây nữa, Hà Nội cũng chưa phải. Chỉ nên gọi là Hà Nhì!”.
         Đêm đêm nhìn về phương nam, thấy một quầng trời sáng do ánh đèn thành phố hắt lên trời. Cho dù ở đó người ta vẫn tằn tiện đèn dầu, chỉ thắp đèn hoa kỳ khi không nom rõ mặt người. Nó vẫn cách biệt với kinh kỳ với quãng đường hơn hai chục cây số. Vẫn có người cả đời chưa đặt chân tới Bờ Hồ, chưa bao giờ biết hương vị cốc kem Thuỷ Tạ, hay bát mì vằn thắn phố Hàng Buồm.
            Đời gã  tuy khổ từ lúc lọt lòng, nhưng ít ra gã cũng đã được đi nhiều nơi, nếm trải hương vị của nhiều vùng. Hà Nội với gã cũng không phải là nơi xa lạ. Có những tháng năm gã ăn học ở chốn này. Cho dù đó là những năm tháng chiến tranh, Giờ nghĩ lại gã chưa hết bùi ngùi.
            Trận bão đêm trước đã quật đổ hai cây phượng vĩ gần cửa hàng ăn số 1. Chố ấy là gò đất cao, dấu vết còn sót lại của góc thành cổ. Thường thì những gò đất cao lại là nơi hứng gió bão dọc triền sông. Hai cây phượng hơn một vòng tay ôm trốc cả gốc, cành lá chắn ngang hết cả lối vào cửa hàng. Hơn chục con người đang xúm lại dọn dẹp, người ta cưa cành cây ngắn từng đoạn rồi kéo đánh đống lại một chỗ, lấy lối đi lại.
Cửa hàng mới xây nên hầu như chẳng có suy chuyển gì. Ngoại trừ vỡ vài chục viên ngói đang được thay lại. đây là một trong những công trình hiếm hoi của thị xã được xây kiên cố. Một thời gian dài nó tựa như một nơi trung tâm hẹn hò hoặc ghi địa chỉ cho người quanh vùng. Người ta thường nói " cách cửa hàng số một… mét ". Khi gã vào cửa hàng đang tầm đông. Khách chủ yếu là khách vùng này, bộ đội, công nhân hay thợ bè. Vì có hai cửa bán vé nên gã cũng không phải đợi lâu. Gã mua hai bánh bao và một cốc sữa đậu nành, theo ở đây qui đinh như vậy. Có muốn mua hơn cũng chẳng được. Nếu muốn mua thêm phải mua lần khác. Không ít người mua đi, mua lại đến vài ba lần. Sữa thì họ đổ vào bi đông, bánh bao để vào giỏ xách. Lúc đầu gã lấy làm lạ, chẳng lẽ họ là những người ăn khoẻ như tên bạn gã? Hắn thì no dồn, đói cóp, lại đói tâm lý nhiều ngày ăn thứ ôi thiu đã đành, chả lẽ người ở bên ngoài cũng bị cái đói ám ảnh hay sao?
          Đến lúc một cô nhân viên cửa hàng ra giật lấy cái túi định thu lại số bánh của một người đang xếp hàng, gã mới rõ sự việc. Cô ta bảo: " Cửa hàng không bán cho tư thương tuồn bánh ra ngoài bán kiếm lời ". Ô hay, kể cũng nực cười! Đời thủa nào người bán hàng lại sợ bán được nhiều hàng? Thời buổi  nhiều nghịch lý. Mà nghịch lý thì ở đâu cũng vậy, luôn sinh ra nghịch cảnh. Không phải lúc này gã mới biết.
         Đời gã thiếu gì nghịch lý? Mà rồi vẫn luôn phải chấp nhận đấy thôi. Nghịch lý nho nhỏ này có gì đáng để tâm?
        Có tiếng chó gầm gừ dưới gầm bàn làm gã giật mình. Thì ra có hai chú một đen một vàng đang giành nhau một mẩu xương dưới gầm bàn bên cạnh, lạ nỗi là chúng đi lại, thản nhiên trong cửa hàng như chỗ không người. Thời buổi khó khăn không hiểu sao chúng vẫn béo ú, cao lớn như những con bê con, khách ra vào hình như quá quen cảnh ấy nên không ai để ý. Hồi lâu lắm rồi gã cũng thấy cảnh tương tự. Khi ấy gã đang còn là sinh viên, trường gã sơ tán lên một huyện biên giới mãi trên xứ Lạng. Cũng có một cửa hàng ăn quốc doanh nuôi rất nhiều chó. Có hôm chúng tranh giành nhau xô đổ cả bàn ghế, về sau mới biết rằng đó cũng là cách cải thiện của nhân viên cửa hàng. Tiền bán chó không bị tính vào doanh thu, thành ra số nhân viên nhiều ít có thể biết được khi nhìn vào đàn chó. Bởi vì ít nhất mỗi người cũng có một con, cơm cháy canh thừa là thứ không bán được, chăn nuôi chó lại không vất vả gì. Chỉ trừ khi dại... nhưng bệnh chó dại ở rừng núi ít khi xảy ra. Thời buổi những con chó no đủ béo tốt, tự do hơn cả con người. Chúng đi lại nghênh ngang mà không sợ bị quát mắng, chả cần xếp hàng vẫn có thứ để ăn!
            Không biết bao nhiêu lâu rồi, gã không còn nhớ. Giờ gã mới được ăn chiếc bánh bao nóng, tuy không có nhân nhị gì, thuần chất bột trắng dẻo, bốc lên vị hương khó tả. Một mùi thơm thơm, dịu ngọt. Khứu giác con người ta rất lạ. Khi đã no sôi chán chè thì mọi thức ăn ngon chẳng có hương vị gì. Ngược lại khi thiếu dinh dưỡng và thèm ăn lâu ngày thì kể cả các thức ăn thông thường cũng có hương vị rất thú vị. Năm đói ở quê gã có người còn khen khoai lang nguội ăn ngọt như bánh khảo. Cảm quan của con người thật nhiều thang bậc, y như chuyện mầm đá của Trạng Quỳnh trong truyện dân gian.
            Gã chầm chậm nhai, mắt nhìn lơ đãng ra ngoài bến sông. Từ đây băng qua con đường nhựa ướt át, qua một bãi cỏ gà là tới bến tàu đỗ. Gần đấy chất đống, từng đám củi cao ngất, thấp thoáng vài quán nước được che lợp bằng những tấm ni lông và vải đủ mầu. Người qua kẻ lại, quần sắn tới gối, áo mặc chủ yếu sẫm mầu của các loại vải nâu, chàm nhưng hết thảy đều rung rúc. Họa hoằn lắm mới thấy tấm áo bộ đội còn mới, bằng vải Tô Châu.
            Lúc này tàu chưa xuôi về, hành khách vẫn kiên nhẫn ngồi chờ.
            Họ ngồi chen chúc nhau quanh một quán nước sơ sài, vài thứ bánh trái. Hoặc không thì ngồi trên một bó nứa còn xanh vỏ, một khúc củi mục ẩm ướt nào đó. Có cảm tưởng họ có thể ngồi như vậy hết ngày này qua ngày khác như đã hóa thành đất, thành đá cả rồi. Như thuộc tính đợi chờ của nhiều thế kỷ của đất nước này. Chợt có tiếng hỏi sau lưng làm gã quay lại.
            - Chỗ này đã có ai ngồi chưa anh?
            Gã ngửng lên. Đó là hai bố con một người đứng tuổi, có lẽ ông ta trên dưới năm mươi. Gã đoán như thế vì thấy cô gái còn khá trẻ, có thể chưa tới hai mươi. Người đàn ông thân hình rắn rỏi, da nâu xạm mầu. Cô gái ngược lại, trắng trẻo. Cô mặc cái áo sơ mi ngắn cũn cỡn, chắc là may từ mấy năm trước. Đến tuổi dậy thì còn cố mặc thêm, nên hai bên nách chỉ có chỗ tuột, để lộ một khoảng da thịt trắng nõn nà. Khuôn mặt cô không xinh lắm, nhưng cũng dễ coi, chỉ duy mái tóc vẫn ngắn ngủi lù xù, ít khi dùng đến chiếc lược. Đôi bàn tay dày, các đầu ngón vuông, thô, chứng tỏ cô là con nhà làm ăn lam lũ.
            Cô gái có vẻ ngượng trước cái nhìn của gã, cô cứ đứng nép vào sau bố, mặt quay về phía sau. Cử chỉ ấy như nhắc gã không nên nhìn soi vào người ta như thế. Tự nhiên gã thấy lúng túng:
            - Dạ chưa có ai, bác và cô cứ tự nhiên.
            Ông khách xếp chiếc ba lô và cái túi xách vào sát tường lấy ra một bọc lá chuối khô để lên bàn. Mấy cái bánh bao vừa mua ông bảo con gái để vào túi xách.
            Hai bố con giở bọc cơm ra ăn. Cái bi đông đeo bên người được ông rót ra hai cái bát nhỏ. Mùi rượu thơm ngào ngạt làm gã để ý. Thời kỳ này các hàng ăn chưa bán rượu vì đang có chính sách tiết kiệm lương thực. Rượu gần như một thứ xa xỉ ở nơi người ta chỉ cần ăn no. “Ông khách đây chắc phải là người đang có công việc kiếm được tiền” gã nghĩ như thế khi thấy ông giở gói thứ hai gói bằng lá dong ra nửa con gà luộc. Lớp da vàng ươm như tơ tằm, phía trong thịt trắng muốt, nom rất quyến rũ, nhưng khi được mời, gã lại từ chối. Cũng là cách xã giao thường tình. Dù có ngon lành đến mấy cũng không thể tự nhiện được. Miếng ăn thời nào cũng quý, nhưng nó cũng là miếng nhục nếu tuỳ tiện để người đời coi thường. Một chút sĩ diện nhen trong lòng, khiến da mặt gã nóng bừng bừng.
            Cuối cùng ông khách cũng mời gã được bát rượu, ông yêu cầu gã: “Trăm phần trăm”. Nghĩa là cạn một hơi hết cả bát.
            Mới hôm qua, hôm kia thứ nước này mà tọng vào, gã có thể bị phạt giam riêng. Nhưng hôm nay đã là một ngày khác, một ngày tự do với đầy đủ ý nghĩa, ý nghĩa ấy khiến gã thấy khoan khoái trong lòng. Gã gần như nín thở uống hết bát rượu đầy. Quý khách định mời bát nữa, gã vội đưa tay từ chối. Động tác như thể người ta giơ tay hàng. Động tác ấy làm cho cô gái trẻ khúc khích cười. Hai tai gã đỏ dừ, phần vì ngượng, phần do máu giần giật dồn lên mặt.
            Ông khách bảo:
            - Trông cậu quen quen. Không biết tôi gặp cậu ở đâu rồi, cậu cũng chờ tàu sáng mai phải không?
            - Vâng, cháu ngược Vân Sơn.
            - Nghe cậu nói tiếng như người Trung Cốc mà chịu không nhớ cậu là con ông bà nào. Thế lên Vân Sơn có việc gì?
            - Cháu về nhà.
            Ông lão trố mắt:
            - Có phải cậu là con bà Thức.
            Gã cũng ngạc nhiên không kém:
            - Sao bác biết?
            - Bà ấy ở sát nhà tôi, lên Xuân Quang hơn năm năm rồi mà tôi có gặp cậu đâu? Chỉ nhìn cậu nhang nhác giống bà ấy, tôi đoán vậy thôi. Hoá ra lại đúng.
            Gã toan nói ra hoàn cảnh của mình, một điều gì đó như là mặc cảm khiến gã ngừng lại.
            Gã cũng nhớ người ngồi trước mặt gã bây giờ là ai. Một dĩ vãng lâu lắm rồi. Từ hồi gã còn nhỏ. Quá khứ như một lớp sương mờ từ từ hiện ra, nhắc gã nhớ lại.
            Hồi đó gã hơn mười tuổi, cái tuổi mà ký ức thường ghi lại rất lâu. Tưởng như mọi việc mới xảy ra hôm qua, hôm kia. Kỳ thực có thể qua đi hàng chục năm rồi. Một buổi tối mưa phùn gió bấc. Gió thổi ù ù đầu hồi nhà. Ông ta lúc bấy giờ trông còn trẻ hơn bây giờ, tay áo sắn cao để lộ bắp thịt cuồn cuộn. Không có đèn đóm, ông chỉ có chiếc áo tơi lá bước vào nhà. Dưới ánh đèn bão treo trước cửa nhà gã, nom ông như một con nhím khổng lồ. Chiếc bao tải ông ta mang theo là một quả mít chín. Gã nhận ra ngay là nhờ một lỗ chuột khoét ở đáy bao để lộ đám gai nhọn sắc. Cái bao gai ấy được để góc hiên nhà như một sự vô tình, ông ta cởi áo khoác bước vào, đằng hắng khe khẽ. Hỏi mẹ gã có nhà không? Gã - thằng bé mười hai tuổi lúc bấy giờ lí nhí đáp:
            - Mẹ cháu đi vắng.
            - Thế bao giờ về?
            - Cháu cũng không biết. Chỉ thấy nói đi họp ban quản trị. Chú muốn tìm thì ra trụ sở.
Ông khách không hỏi thêm, lẳng lặng khoác chiếc áo tơi lá lên người, cúi xuống vận lại hai ống quần, nét mặt đăm chiêu chào gã ra về. Cái bao gai đựng quả mít chín mang theo như bị bỏ quên. Gã chưa kịp nhắc ông đã chìm vào bóng tối. Khuya hôm ấy mẹ gã về. Quả mít chín đã làm gã không ngủ được sớm như mọi khi. Gã kể cho mẹ việc ông ta đến lúc buổi tối. Mẹ bảo đã gặp, ông ấy ra trụ sở tìm mẹ, ông ấy muốn xin cắt khẩu chuyển lên rừng. Gã hỏi sao ông lại bỏ làng đi? Mẹ gã nói trên ấy làm ăn dễ hơn ở đây. Hình như buổi họp ban quản trị hôm ấy có việc gì khiến mẹ lo lắng không vui. Thấy vậy, gã không hỏi thêm, mặc dù bộ óc non nớt của gã cứ thắc mắc vì sao mà ông ấy lại ra đi?
Rừng ở đâu? Khó dễ như thế nào mà mẹ gã bảo là dễ sống?
Sau này lớn lên gã biết ông tên là Chỉ. Vì nước da đen người trong thôn gọi là Chỉ Đen. Hồi chống Pháp có một thời gian ông Chỉ đi lính nhảy dù. Người ta gọi là lính Com Măng Đô. Đợt học “ba xây ba chống” củng cố hợp tác xã Nông nghiệp. Ông Chỉ đen phải đi học tập một thời gian ở ngoài đình. Gã cũng không nhớ ông Chỉ Đen bỏ làng đi tự ngày nào. Tuổi mới lớn của gã còn bao điều đáng để ý. Với một người làng không sơ, không thân, sự không để tâm không có gì lạ.
Quả là trái đất tròn, nước non ngàn dặm cũng chỉ là nhỏ bé. Gã lại gặp ông ở đây.
Hẳn là ông không biết và cũng chẳng để ý đến đoạn sau này của đời gã. Hơn một chút ngạc nhiên. Thế thôi, với người từng trải gian truân thế là quá đủ. Họ thừa biết rằng: Tò mò tọc mạch cũng không để làm gì. Có khi lại sinh ra phiền phức, gã định hỏi thăm đôi chút về mẹ, nhưng nhớ lại chuyện cũ, lại thôi. Biết đâu ông Chỉ Đen vẫn còn hận chuyện cũ.
Thời thế nó vậy, mẹ gã đâu có muốn, Bà chỉ làm theo lệnh trên với cái tâm thành thực. Ngày mai, sớm muộn gì gã cũng về tới nhà. Có biết sớm hơn chuyện nhà cũng chẳng làm gì.
Ông Chỉ vẫn cứ uống thản nhiên như ở nhà, gói cơm nếp và miếng thịt gà cũng từ nhà mang đi, chỉ có cô con gái là nhỏn nhẻn, cô chưa quen ở chỗ đông người.  Đáng lý cô thỉnh thoảng phải để mắt đến đám hành lý lại cứ cúi gằm mặt xuống. Mặt đỏ như quả bồ quân trước người lạ là gã. Ông bố đã đến bát rượu thứ ba, đang mải câu chuyện bè mảng với một người ngồi sát ngay bàn bên, ông không để ý đến hai gã thanh niên mặc áo quần bộ đội xách hai cái ba lô cu cũ như của ông xếp vào bên cạnh. Làm như không mua được món ăn thích hợp, cả hai xách ba lô đi ra cửa. Hai bố con ông Chỉ Đen không để ý. Người ra vào nơi đây với họ là sự thường. Nhưng gã thấy ngay là hai gã kia xách nhầm một cái ba lô, còn nhìn thấy cái chuôi dao thò lên trên miệng túi cóc phía sau. Không biết hai gã vô tình hay cố ý? Đợi cả hai đi khuất ra cửa gã khẽ nhắc ông Chỉ Đen. Ông vội vàng chạy ra cửa. Gã cũng đứng lên theo, không quên nhặt một khúc cành phượng tươi người ta vừa mới cắt. Khi ông Chỉ đuổi kịp hai gã có vẻ lúng túng. Họ thấy gã tay cầm khúc cây không nói không rằng đi theo thì chúng dừng lại. Một trong hai gã ấy cũng xin lỗi vì đã cầm nhầm. Chúng trả lại cho ông cái ba lô rồi đi xuống đường, mặt không quay lại.
Ông Chỉ giở cái ba lô chúng để lại, bên trong toàn giẻ rách. Chắc chúng nghĩ trong ba lô của ông có tiền. Chúng đã theo ông từ bến Củi lên đây.
Sự việc đó khiến ông Chỉ Đen tỏ ra thân thiện hơn với gã, ông bảo ông có người anh em kết nghĩa ở thị xã này. Tối nay hai bố con ông sẽ tới đó nghỉ. Nhà ông này rộng rãi nên ông mời gã cùng đến nghỉ để mai ngược tàu. Gã tỏ ý cám ơn mà không nhận lời. Đã lâu lắm rồi gã thèm một khoảng trời đêm. Một khoảng không gian rộng rãi để nhìn ngắm.
Tự do có sự hấp dẫn riêng của nó. Chỉ khi nào người ta đánh mất nó đi rồi mới rõ giá trị. Giống như khí trời hằng ngày không nhìn thấy, nhưng khi bị bức bối trong căm hầm ngột ngạt người ta mới nghĩ đến nó có ý nghĩa sống còn. Nhiều khi còn cấp thiết hơn nước uống, cơm ăn.
Nếu tự do là lẽ sống thì cũng chính vì nó mà phát sinh tai họa. Nó luôn là kẻ thù của độc ác, tối tăm và bạo quyền. Nhưng lúc này gã đang vui. Gã không nghĩ rằng chỉ sau vài tiếng nữa, nếu không nhanh chân gã bỏ mạng trên bờ sông này. Vào đúng ngày tự do đầu tiên trở về nhà. Gã cũng không ngờ rằng người làng đầu tiên mình gặp ở đây, lại là người vì một lẽ không ra gì, sau một năm nữa, lại là nguyên nhân, tai vạ khiến gã lại phải ra đi..
Nếu bây giờ còn sớm sủa và trời tạnh ráo có lẽ gã đã đi bộ về nhà. Con đường hai chục cây số không lấy gì làm xa. Vừa đi vừa hỏi thăm, mãi cũng tới nơi. Đường đi ở miệng. Nhưng trời đã xế chiều, âm u như sắp tối sập xuống, những đám mây mầu chì nặng trĩu trên đầu. Nơi rừng xa mờ mịt sương khói không hứa hẹn điều gì ngoài màn đêm đen tối. Còn con đường nghe người ta nói thấy ngại. Vì phải băng qua những đèo dốc um tùm, những khe suối sâu không bè mảng, có quãng mấy cây số không một bóng nhà, thưa cả tiếng chó sủa, mèo kêu. Rất dễ bị lạc đường. Gã không lạ những con đường rẽ ngang rẽ dọc trong rừng. ở đó không có phương hướng cũng không một dấu hiệu nào để nhận ra lối đi.
Thoáng một chút buồn, gã đã lạc khỏi con đường quang sáng, những khao khát và hy vọng một thời... Để bây giờ trước mặt gã là con đường này đây. Và rồi cuối cùng sẽ kết thúc ra sao? Tự nhiên như là tủi thân, gã thấy thương mình. Văng vẳng từ xa có tiếng ca vọng cổ nỉ non, một đám xúm đông xem hát sẩm, người hát đôi mắt không mù nhưng đờ đẫn, dài dạc như người tâm thần. Anh ta mặc bộ quần áo bộ đội cũ, áo đại cán toạc một miếng lưng bê bết đất cát, xung quanh người treo đầy ống bơ với những sợi tua xanh đỏ không biết nhặt ở đâu?
 Người hát tự xưng là “ca sĩ Thanh Bình”. Hết vọng cổ lại đến hát chèo, lại Tân nhạc, điệu nào cũng buồn, cũng ai oán thê thiết.
Gã thấy cứ nghe thêm một lúc nữa, gã sẽ khóc mất! Mặc dù từ lâu gã không còn khóc được. Sự mềm yếu ở đâu và lúc nào cũng không mang lại điều gì tốt lành. Gã rảo bước đi về phía chợ. Mặc dù lúc này khu chợ người ta đang dọn dẹp nghỉ tối, những chiếc xe bò, xe ba gác đang vội vã kéo ra đường. Chỉ còn những người gồng gánh, hoặc đẩy chiếc xe đạp thồ nhem nhuốc. Gã đi ngược chiều với họ, chốc chốc lại phải nghe tiếng quát nạt của người kéo xe. Phải lúc khác, gã đã bực mình, Người ta có quyền gì mà quát tháo với gã? Nhưng lúc này gã không quan tâm. Thậm chí có người cho va cả càng xe vào gã cũng không phàn nàn. Lúc này gã cảm thấy mình đang như mẩu củi bị xô rúm lại cùng đám rác rều của dòng chảy cuộc đời. ý nghĩ ảm đạm làm gã mất tỉnh táo.
Gã không biết rằng gã đang bị theo dõi. Hai tên định tráo chiếc ba lô của ông Chỉ Đen đang theo gã từng bước. Chúng đang nấp sau một gốc cây. Trong tay mỗi đứa cầm một đoạn gậy. Gã vừa bước sát tới, chúng nhảy ra, gậy vụt túi bụi. May mà cái mũ cối vật kỷ niệm của một người bạn tù tặng gã lúc trở về, gã đội trên đầu đã làm cho nhát gậy trượt sang một bên. Chiếc mũ nứt toác một miếng rơi xuống đường, lăn lông lốc. Một nhát gậy nữa vụt trúng bả vai làm gã đau nhói. Thoáng chút kinh hoàng, gã hiểu ngay đang xảy ra chuyện gì. Gã đã phạm phải luật rừng của bọn trộm cướp ở bến sông này.
Chúng không biết gã là ai. Gã cản trở công việc làm ăn của chúng là chúng đánh. Nói gì với chúng lúc này cũng không kịp. Thói quen phản ứng những trường hợp như thế này nhắc gã phải chống trả. Gã vớ ngay chiếc đòn gánh của một bà vừa hốt hoảng quẳng xuống đường. Liều chết chống chọi với hai tên khủng bố.
Những ngày thất cơ lỡ vận của gã còn có một cái may. Ông lão người Nùng sa cơ ngày nào dạy gã vài đường quyền khi gã tá túc ở nhà ông mấy năm trước. Hai thằng bụi đời không ngờ tình thế đột nhiên thay đổi. Chúng đã mất thế chủ động. Đối thủ trước mặt chúng không dễ ăn như chúng tưởng. Thêm vào là sự hô hoán ở xung quanh.
Đám đông khi nào cũng vậy. Họ sẵn sàng tát nước theo mưa. Giả như gã núng thế, chưa chắc đã có ai muốn nhúng tay vào. Nghe tiếng: " cướp ... cướp ... giết người "  hai tên phóng qua bức tường chạy vào chợ. Một đám đông hăng tiết vẫn hô hoán đuổi theo. Nhưng vẫn cách một đoạn.
Họ chỉ kêu thế thôi, ai dại gì dồn chúng vào chỗ cùng đường?
Bây giờ gã mới cảm thấy đau. Cánh tay trái nhói buốt vào tim. Gã ngoái nhìn thấy áo toạc một miếng dài tới khỉu tay. Cánh tay  ao rách dài một miếng độ hai phân. Xung quanh chỗ đứt tím bầm. Gã thử nhấc tay cử động, thật khó khăn. Lúc hăng máu gã không cảm thấy gì. Bâygiờ thì cơn đau đã ê ẩm. Đầu gã ong ong như máu tụ cả lại. Gã đưa tay lên trán thấy u một cục to tướng, cái mũ đỡ được đầu gậy để đầu gã không bị toác ra, nhưng vẫn sưng lên một đám. Gã như người vừa trải qua trận ốm, da còn xanh ngái thêm trận đòn bất ngờ. Suýt nữa thì gã gục xuống. Một tia sáng của sự sống từ đâu len tới, gã gượng dậy.
Dù thế nào cũng không thể gục xuống đây được. Gã lấy hết sức lết tới, dựa vào một gốc cây ven đường. Có người nào đó nâng cánh tay gã lên lấy một miếng dù trắng quấn quanh vết thương cho gã. Gã định thần nhìn kỹ: Là một cô gái, chẳng những trẻ lại còn xinh đẹp nữa!
 Gã tưởng như mình nằm mơ. Không, sự thật một trăm phần trăm! Một kẻ như gã được một người như cô băng cho vết thương thì thật là lạ?
 Hoá ra ở đời vẫn còn nhiều người tốt, người tử tế. Không hẳn như mặc cảm gã nghĩ những ngày ảm đạm đã qua.
Gã có gì đáng kể để được người khác quan tâm? Một thằng tù vừa được ra khỏi trại. Ăn mặc chẳng giống ai, áo quần cũn cỡn vì không phải của mình, thứ hàng chợ may theo kiểu ăn bớt vải. Trong túi chỉ có dăm đồng bạc. Có thể mua được một bữa no chứ không thể bữa ngon. Không mua được thứ gì đáng kể. Một tấm thân vừa trải qua cuộc đầy ải kéo dài, mái tóc nhăn nhở, chân tay cáu bẩn, mồm miệng râu ria lởm chởm..
 Gã thừa biết vẻ ngoài của gã chẳng dễ coi chút nào. Vậy thì vì cái gì mà người ta săn sóc gã? Lòng thương hại ư? Hay lòng trắc ẩn của một người xa lạ khiến gã ngại ngùng xấu hổ? gã không nhận ra rằng cuộc giao tranh vừa rồi, sự cam đảm của gã khiến cô để ý. Một cái gì tựa như lòng cao thượng, xả thân vì người khác khiến cô nể trọng? Và, Nếu chỉ thế thôi, thì cũng chẳng có gì đáng nói. Cô cũng quan tâm chút đỉnh, nếu thêm nữa là buộc lại vết thương cho gã rồi đi. Đằng này, cô lại nhờ người dìu gã về căn nhà gần đó, ngay kề bến sông, chỗ có bụi chuối um tùm.
Bà mẹ cô gái, người nhỏ nhắn, nhưng nét mặt phúc hậu. Bà lấy chậu nước pha chút muối, lau rửa lại vết thương cho gã. Cô gái mang chai thuốc bóp xoa lên chỗ u ở đỉnh đầu. Mấy người đi theo cứ ngỡ gã là người nhà của bà. Họ đứng lại một lát rồi quay ra.
Trời gần tối. Không ai rỗi rãi quan tâm đến việc của người khác, vả lại những chuỵên như thế thường xảy ra cơm bữa ở bến sông này. Nơi mà cuộc sống còn chồng chất khó khăn. Con người với con người như gà nhốt chung trong chiếc lồng chật hẹp. Miếng cơm manh áo còn là nỗi lo to lớn, che khuất phần tình cảm tốt đẹp trong mỗi con người. Cái nghèo nếu không là nguyên nhân thì cũng là kết quả của những chuyện đau lòng.
Gã cảm thấy ái ngại trước cử chỉ săn sóc của mẹ con cô gái. Nhà họ cũng nghèo. Cái nghèo dễ nhận thấy ở gia cảnh đập ngay vào mắt: Một cái tủ tạp kê ở gian giữa vừa làm bàn thờ, vừa để đồ. Một bên là chiếc giường quầy có một thanh gỗ như tay vịn ở hai đầu, để mộc không đánh véc ni. Một bàn chữ nhật bào qua loa và mấy chiếc ghế. Cái chăn chiên cũ và cái màn nhuộm nâu để ở góc giường. Tài sản đáng giá nhất là chiếc xe đạp nữ cô vừa dắt về. Khung xe là thứ hàng gia công mang từ Sài Gòn ra. Vành bánh, nan hoa cái thì Việt Nam, cái thì Trung Quốc, chỉ duy nhất cái ghi đông còn sáng, chắc là vừa mới thay. Các thứ khác đã và đang hoen rỉ. Giọng của bà mẹ trầm trầm khiến gã nhớ tới giọng nói của mẹ gã. Giọng nói của người sống lâu ở vùng bồi bãi, sông nước.
Bà bảo:
- Tôi cũng có thằng con trai đang ở trong tù. Đáng lẽ đợt đặc xá này nó cũng được về. Chẳng biết thế nào gần ngày được tha lại bị kỷ luật. Người ta bảo nó đánh gãy tay một đứa ở cùng. Thế có khổ không!
Gã hỏi:
- Anh ấy bị bắt vì tội gì?
Bà nói:
- Tội đánh nhau. Nó bốc vác ngoài bến. Tranh nhau khách, không thằng nào chịu thằng nào. Thằng kia cậy to khoẻ bóp cổ nó. Hôm sau nó rình vụt cho một gậy gẫy chân. Nhà nó kiện, thằng bé bị toà xử hai năm. Thỉnh thoảng tôi với con Thịnh cũng xuống thăm. Nhưng vụ lũ vừa rồi hại quá. Một đống lúa mua về trôi mất cả, nên tháng vừa rồi không xuống được.
Bây giờ gã biết tên cô rồi, cô vừa mang chậu nước rửa vết thương cho gã ra sau nhà, quay ra bảo:
- Anh ở cùng đội với anh Nhân nhà em, anh không biết à?
Gã nhớ ra. Anh chàng Nhân điển trai, mắt sáng môi hồng như con gái. Mấy tay anh chị trong đội chiều chuộng gọi là " Chíp " kiểu như người ta gọi là “Bồ” ngoài xã hội. Gã biết nhưng không thân, lúc này nhớ lại, tại sao đàn ông con trai với nhau mà lại thành bồ bịch? Kể thật nhảm nhí.
Cái tay Nhân này cũng tỉa lông mày, đi đánh mông, uốn éo như con gái, mặc dù không phải “bê đê”. Chẳng qua trong môi trường thiếu thốn tình cảm, bức bối sinh lý mà sinh ra những việc quái gở. Những chuỵên đó, lúc này không thể nói với mẹ và em gái của anh ta ở đây được. Họ sẽ buồn biết bao nhiêu khi biết  một đứa con trai biết cách "đào tơ liễu yếu" mất cả giới tính như thế. Gã chợt thở dài.
Thịnh không hay tâm trạng  của gã  lúc này sợ mình vô tình chạm vào nỗi đau dĩ vàng của gã, cô vội nói.
- Tù không phải ai cũng là xấu cả. Có người nhất thời sa ngã cũng có người vô tình mắc tội oan khiên . Anh buồn làm gì? Anh Nhân em vô tư lắm, quần áo phạm mà lúc nào cũng giặt xà phòng trắng bong. Lại còn sơn sửa móng tay nữa chứ, đến như em ở ngoài cũng chẳng có thời gian ngắm vuốt như thế. Mẹ em thì yếu, các chị lấy chồng xa, còn mỗi thằng út thì như cua bấy ăn còn chẳng xong thì lấy đâu ra thời gian mà diêm dúa ?
Chỉ một lúc sau cậu út về. Cậu cất cái cặp treo lên vách, nằm thườn ra giường  dáng điệu như cô chị nói. Cậu cao lêu đêu, chân tay gầy guộc. Kéo lại, cậu có đôi mắt sáng, e lệ như mắt con gái. Kiểu người này nhạy cảm và cũng hay làm nũng. Nếu không có khách lạ có thể cậu đã mè nheo mẹ cái gì đó chứ không chịu nằm yên như bây giờ. Thấy gã, cậu lí nhí chào, e dè lắm.
Xoa bóp thuốc chừng một tiếng sau, gã thấy các chỗ đau đỡ nhức nhối. Gã thấy đã đến lúc phải chào để ra đi, ở thêm nữa bất tiện quá. Trời bắt đầu tối. Ngoài đường đèn đã lên. Những bóng đèn điện không đủ vôn sáng vàng vàng, nhợt nhạt.
Gã vừa dứt lời, bà mẹ đã vội xua tay:
- Không, không được. Anh cũng như thằng Nhân nhà tôi. Về đến đây cũng như về nhà, không phải e ngại gì cả. Với lại bọn ấy chúng không vừa, bỏ cuộc ngay đâu, chúng phải tìm anh bằng được mới thôi đấy. Chúng làm thế để dằn mặt mọi người, ai thấy chúng làm gì cứ lờ đi như không biết. Tháng trước có anh bộ đội bị nó xiên cả cái lê vào bụng, may mà không chết. Không khéo bây giờ chúng vẫn lảng vảng bên ngoài cũng nên.. Công an có khi thấy chúng còn ngại. Chúng có kể ai ra gì đâu? Mà tôi cũng chưa kịp hỏi chuyện em nó ở trong ấy như thế nào. Tháng trước nom nó không được khoẻ, nó bảo mang xuống cho nó ít “bít kốt” mà nhà chưa mua được. Con Thịnh đưa anh về đây là có ý hỏi thăm anh nó đấy. Các anh trong ấy anh nào cũng hao hao giống nhau, tôi chịu,nhận không ra. Thế mà cô Thịnh này hay đáo để, nó nhận ngay ra anh lúc anh đang đi ngoài cổng chợ.. Nếu không xảy ra xô xát chưa chắc nó đã dám hỏi. Con gái thị xã mà dát dát là...
Gã cũng vô tâm thật. Đáng lẽ cũng phải nói đôi điều về Nhân với bà chứ. Khổ nỗi gã với Nhân lại không thân nhau. Chẳng lẽ lại bày đặt chuyện tình cảm của hai người sao? Nhân với gã không thành khiến gì. Không gần nhau vì một lẽ đơn giản. Những tay anh chị quý " Chíp " và rất hay ghen, Có khi còn ghen hơn trai gái ngoài đời. Chúng sẵn sàng nhường ăn nhường mặc cho Chíp. Nhưng hễ kẻ nào bén mảng tỏ ra ý thân mật với Chíp của chúng thì liệu thần hồn. Thực là thứ tình cảm bệnh hoạn đến đáng sợ.
Đành phải nói qua loa vài chuyện. “Nhân được quản giáo quan tâm, anh em quý”. Chuyện xảy ra vừa rồi chỉ là chuyện hy hữu. “Nhân là người khéo léo hiếm khi mới xảy ra như vậy. Người ta xử lý kỷ luật để giữ nghiêm nội quy của trại. ảnh hưởng, không lớn lắm đến việc xét được tha”... Đại loại như thế, chứ gã còn nói thêm với bà gì nữa?
Bà quay sang hỏi quê quán, gia đình gã. Rõ ràng bà có ý muốn gữi chân gã lại. Bà muốn tránh cho gã rắc rối sau việc vừa rồi. Chuyện đời gã là một câu chuyện dài. Nếu có kể chưa chắc người nghe đã tin là thực. Rất khó giải thích những nghịch lý ở đời bằng câu chuyện có lý.
Gã đã quen với ý nghĩ là những việc đã qua dù sao thì nó cũng đã qua. Đào sới vào dĩ vãng cũng không mang lại điều gì. Vậy nên khi được hỏi, gã chỉ vắn tắt đôi điều về chuyện gia đình. Bố gã đã mất. Mẹ gã đã già. Gã có một đứa con riêng sống với bà. Tuyệt nhiên gã không đả động gì đến người vợ hờ mà lâu nay gã muốn quên đi... Thị đã mắc một sai lầm không thể chấp nhận được. Bà đoán rằng gã có điều khó nói. Hỏi căn vặn thêm có thể gã đau lòng, nghe xong câu chuyện bà chép miệng:
- Thế ra anh cũng có nỗi khổ tâm. Hoàn cảnh các anh mỗi người đều có sự trắc trở khác nhau. Hoá ra nghe chuyện, tôi mới biết anh là người cùng quê. Bây giờ khác tỉnh, chứ ngày xưa là cùng một tổng. Thảo nào giọng nói cũng quen quen. Gã định một lần nữa cáo lui nhưng bà gữi lại. Thịnh đã bưng mâm lên, một bữa ăn đạm bạc, ngoài đĩa rau muống luộc còn có đĩa thịt kho tàu. Với gã thì như vậy đã là sang. Nhất là những năm tám mươi này, được như vậy quá tốt rồi.
Cơm xong cả nhà quay sang chẻ nan cót, gã cũng sốt sắng góp tay. Nhưng phần vì không quen, phần do tay vẫn còn đau ê ẩm, gã lại bị đứt tay, may mà vết đứt không sâu. Con dao nan rất mỏng, sắc có thể cạo râu được. Gã biết thêm đôi điều về Thịnh, ban ngày cô đi gánh cát ngoài bến sông. Tối về đan cót với mẹ, cót đan được cuộn từng bó mười cái một, người dưới xuôi mua về đổ mái bê tông. ở tỉnh Xuân Quang này kinh tế chưa kịp phát triển. Thị xã là trung tâm mà cũng chỉ có vài cơ sở công nghiệp nhỏ bán cơ giới. Xin được việc làm ở đây thật không đơn giản chút nào. Tiếng là dân thị xã, vẫn có nhiều người đi làm nương hái củi trên rừng, xa nhà hàng chục cây. Họ đi làm đến mùa thu hoạch lại làm mảng theo sông trở về. Mọi khác biệt giữa thành thị và nông thôn chưa rõ lắm. Ngay nhà cửa đất đai giá trị cũng không cách xa nhau là mấy. Thịnh nói năm trước cô cũng lên chỗ mẹ anh ở bây giờ làm một đám nương. Cô cũng biết mẹ anh, mẹ anh nói chuyện với cô là bà có người con trai xa nhà. Đi đâu thì bà không nói. Không ngờ người đó lại là gã. Câu chuyện giữa hai người cứ thế, có phần gần gũi hơn, dù họ mới gặp nhau lần đầu.
Chính gã cũng không ngờ cuộc gặp gỡ bất ngờ hôm nay lại là nguyên cớ cho câu chuyện phiền phức về sau, khởi đầu một chuyện tình dở dang.
Gã ngồi gợi ý cho cậu út học bài. Thỉnh thoảng cô gái hướng ánh mắt về phía gã. Không ai nói câu gì. Bà mẹ húng hắng ho, đứng dậy dặn cậu út lát nữa dọn giường ngủ cùng gã. Gã chưa hết ngần ngại. Ngày đầu tiên ra tù gã lại nghỉ lại ở nhà một người mới gặp lần đầu. Nếu gã không từ chối lời mời của ông Chỉ Đen chắc không xảy ra cuộc ẩu đả. Người gã đã không đau nhức như bây giờ, số máu mất không phải là ít, nó đẫm ướt cái áo đến nỗi không thể tiếp tục mặc, cái áo gã đang mặc đây là bà mẹ cô gái đưa cho, có thể là áo của Nhân, người con trai bà đang vắng nhà. Nhưng nếu như gã theo lão tới nhà người quen của lão thì đã không gặp Thịnh, cô gái đang sống đời lam lũ với những công việc nặng nhọc mà sao vẫn toát lên vẻ thanh thoát, dịu dàng. Gã không dám nghĩ tiếp. Hoàn cảnh của gã lúc này không cho phép gã nghĩ thêm điều gì. Cuộc đời gã giống như cuộn chỉ rối mới vừa tìm được đầu mối. Còn phải gỡ rất nhiều vòng. Mong mỏi một điều gì lúc này hãy còn quá sớm.
Gã quyết định bước ra đường. Một lần nữa gã không gặp may. Trận mưa cuối của đợt áp thấp lại vừa ập xuống. Gã không mũ nón, thêm những vết thương trên người, không còn cách nào khác, gã quay vào nằm bên cậu út.
Cả đêm gã trằn trọc không phải vì chăn không đủ ấm. Không phải vì tiếng mọt kêu mòn mỏi trên xà nhà, tiếng con tắc kè còn sót lại kêu trên ngọn một cây khô cuối phố. Một âm ba nào đấy gã không thể gọi tên, khiến gã không yên giấc. Gã nghe rõ tiếng thở đều đều êm dịu của Thịnh phía sau bức tường. Quá khứ, hiện tại trộn lẫn nhiều ấn tượng, nhiều ám ảnh khiến gã nôn nao.
Ngày mai, trên con tàu ngược dòng sông, sẽ đưa gã đến một cuộc sống mới. Một cuộc sống gã không bao giờ nghĩ tới hoặc hình dung tới bao giờ.
Vào khoảng canh ba, những làn gió lạnh lùa qua cửa sổ mong manh của căn nhà. Có những đường sức mơ hồ đưa gã vào giấc ngủ. Có lẽ đường sức vô hình ấy, nó khởi từ dòng sông.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: