BỐI CẢNH QUỐC TẾ CỦA BA BẢN
HIỆP ĐỊNH TRONG HAI CUỘC
KHÁNG CHIẾN CỨU NƯỚC
(1945 – 1975)
GS. Vũ Dương Ninh
Cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta đã lập nên nhiều chiến công trên các chiến trường trong cả nước. Trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thời kỳ lịch sử hào hùng ấy cũng ghi nhận nhiều thành tựu, nhiều khúc quanh co, được đánh dấu bằng ba bản hiệp định ký với đối phương: Hiệp định sơ bộ năm 1946, Hiệp định Giơnevơ năm 1954 và Hiệp định Pari năm 1973.Trước nay, đã có nhiều cuốn sách, nhiều bài nghiên cứu viết về hoàn cảnh lịch sử, nội dung và ý nghĩa của từng bản hiệp định. Chuyên đề này nhằm phân tích việc ký kết các văn kiện đó từ một khía cạnh khác, nhìn từ bối cảnh quốc tế để thấy rõ hơn những nhân tố bên ngoài tác động vào tiến trình đấu tranh của nhân dân ta cũng như đối sách của Đảng và Nhà nước ta trước những tình huống cực kỳ khó khăn. Hy vọng rằng chuyên đề này sẽ góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu lịch sử hiện đại Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế.
I. BỐI CẢNH QUỐC TẾ DẪN TỚI VIỆC KÝ HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ VIỆT- PHÁP NĂM 1946
Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 là văn kiện đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký kết với đại diện nước Cộng hòa Pháp.
Chỉ trong khoảng thời gian 10 tháng tính từ tháng 5.1945 khi phát xít Đức đầu hàng đến tháng 3.1946 khi Hiệp định sơ bộ được ký kết, tình hình thế giới đã chuyển xoay không ngừng, có thể nêu lên vài nét chính sau đây.
1. Quan hệ quốc tế – từ đồng minh trở thành đối thủ
Ngay trước khi cuộc Thế chiến 2 kết thúc, các cường quốc Đồng minh đã có nhiều cuộc gặp giữa ba vị nguyên thủ quốc gia Mỹ, Anh và Liên Xô ở Têhêran (Iran 1943), Ianta (Liên Xô 2.1945), Pôtxđam (Đức 7.1945). Nội dung thảo luận nhằm vào 2 vấn đề chủ yếu là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít và giải quyết các vấn đề thời hậu chiến. Về các vấn đề sau chiến tranh, ngoài việc đề ra biện pháp xử lý các nước bại trận và tổ chức Liên Hiệp Quốc thì thực chất của mối quan tâm là sự phân chia khu vực ảnh hưởng giữa các nước lớn, thực chất là giữa hai khối TBCN và XHCN. Việc chia xẻ bản đồ thế giới phụ thuộc vào sự dàn xếp giữa các thế lực quốc tế, tạo nên những vùng lãnh thổ được hoạch định theo một trật tự thế giới mới đang hình thành, thường được gọi là Trật tự Ianta.
Theo đó, châu Âu bị chia thành hai mảng: Tây Âu do Mỹ, Anh, Pháp chiếm đóng, Đông Âu do Liên Xô quản lý. Nước Đức cũng bị chia thành hai miền tương tự – Tây Đức và Đông Đức. Và ngay thành phố thủ đô Beclin cũng bị phân đôi – Tây Beclin và Đông Beclin. Chính vì thế mà nơi đây được coi như một điểm nóng rất gay cấn, rất dễ biến thành ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh mới.
Trong bối cảnh như vậy thì mối quan tâm của Nhà nước Xô viết sau chiến tranh là tập trung khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nề ở trong nước và viện trợ xây dựng các quốc gia phía Đông châu Âu vừa được Hồng quân giải phóng. Đông Âu là địa bàn chiến lược có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và chủ quyền của Liên Xô, đồng thời là khu vực làm cho CNXH bước đầu trở thành một hệ thống, điều mà trước đây chưa từng có.
Ở Châu Á – Thái Bình Dương, dưới danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, Mỹ được quyền chiếm đóng Nhật Bản; bán đảo Triều Tiên bị chia đôi theo vĩ tuyến 38: Liên Xô đóng ở phía Bắc, Mỹ đóng ở phía Nam; Việt Nam bị chia theo vĩ tuyến 16: quân Trung Hoa ở phía Bắc, quân Anh ở phía Nam.
Như vậy có thể thấy việc phân vùng ảnh hưởng đã được hoạch định, bóng dáng của Trật tự hai cực đã bắt đầu xuất hiện. Ngày 5.3.1946, thủ lĩnh đảng Bảo thủ, nguyên là Thủ tướng Anh Sơcsin đi cùng Tổng thống Mỹ Truman đến Phuntơn (bang Mitsuri – Hoa Kỳ) đọc bài diễn văn chống Liên Xô. Ông ta cho rằng đã có một “bức màn sắt” buông xuống, nằm vắt ngang đại lục châu Âu, từ bờ biển Bantich cho đến bờ biển Ađriatich mà phía sau đó là các quốc gia Trung Âu và Đông Âu “tất cả họ đều nằm trong phạm vi thế lực của Liên Xô, chịu sự khống chế nặng nề ngày càng tăng của Matxcơva”. Sơcsin kêu gọi: “Điều mà nước Nga muốn là giành lấy những thành quả của chiến tranh và bành trướng vô hạn độ về quyền lực và học thuyết của họ. Nhưng ở đây, ngay hôm nay, khi còn có thời gian, chúng ta phải xem xét các biện pháp để ngăn chặn cuộc chiến tranh luôn đe doạ, và thiết lập trong tất cả các nước một cách nhanh chóng, với tất cả khả năng của mình những mầm mống của tự do và dân chủ”[1]. Bài diễn văn này được coi như lời kêu gọi mở đầu cho “Chiến tranh lạnh” mà một năm sau, nó được chính thức xuất hiện trong Học thuyết Truman công bố ngày 12.3.1947 tại Quốc hội Hoa Kỳ. “Thế là một ván bài Go (một lối chơi cờ của Nhật) đã bắt đầu diễn ra trên quy mô hành tinh, mỗi siêu cường quốc đặt ra các quân cờ của mình tăng cường các vùng do nó chi phối, đe doạ những vùng mà phía bên kia tỏ ra yếu kém, với những thời kỳ đặc biệt căng thẳng khiến cho cả hai bên phải áp dụng những biện pháp để không đi được quá xa”[2].
Mối quan hệ đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã nhanh chóng tan rã để thay thế bằng quan hệ đối địch kéo dài và chi phối thế giới suốt 45 năm (1946-1991). Như vậy, ngay sau khi tiếng súng Thế chiến kết thúc, mọi sự việc trên chính trường thế giới đều diễn biến dưới tác dộng của tư duy Chiến tranh lạnh, nhìn từ cả hai phía TBCN và XHCN. Thực ra, đây chỉ là sự tiếp nối mối mâu thuẫn vốn có giữa hai hệ thống chính trị – xã hội, giữa CNTB và CNXH từ khi ra đời nhà nước Xô viết năm 1917. Đến những năm 30, quan hệ quốc tế chuyển động xoay quanh 3 đỉnh tam giác là Liên Xô – Khối Đức, Ý, Nhật – Khối Anh, Pháp, Mỹ. Giữa 2 khối Liên Xô và Anh, Pháp, Mỹ bên nào cũng muốn mượn tay lực lượng phát xít để đánh bại đối thủ rồi sau đó mới tiêu diệt phát xít. Nhưng chiến tranh thế giới do chủ nghĩa phát xít phát động đã lần lượt khai chiến với cả hai đỉnh tam giác còn lại: tháng 9.1939 Đức mở mặt trận chống các nước Tây Âu, tháng 6.1941 Đức tấn công Liên Xô, tháng 11.1941 Nhật tấn công Mỹ. Trong tình hình đó, hai đỉnh tam giác nói trên phải liên kết với nhau, Đồng minh chống phát xít ra đời nhằm tập hợp lực lượng chống lại khối Trục. Như vậy, khối Đồng minh được hình thành là do tác động từ nhân tố bên ngoài, từ mối đe doạ của thế lực phát xít nên khi nguy cơ này không còn nữa thì mâu thuẫn vốn có giữa hai chế độ xã hội, hai hệ tư tưởng lại bộc lộ ở mức độ lan rộng hơn và sâu sắc hơn. Cũng có học giả cho rằng Chiến tranh lạnh thực chất đã bắt đầu từ năm 1917 giữa nhà nước Xô viết với thế giới TBCN[3]. Đương nhiên đó là cách nói để chỉ rõ tính liên tục của mối mâu thuẫn cơ bản này, nó không hề biến mất khi loài người phải đương đầu với cuộc chiến tranh phát xit.
2. Sự xuất hiện các quốc gia độc lập và thái độ của các cường quốc
Trong thời gian Thế chiến 2, phong trào giải phóng dân tộc đã có một bước phát triển mạnh mẽ. Nhất là ở vùng Đông Á và Đông Nam Á, cuộc đấu tranh chống ách thống trị thực dân gắn kết với cuộc đấu tranh chống phát xít Nhật đã thu hút đông đảo quần chúng, tập hợp nhiều đảng phái chính trị tham gia nhằm giải thoát khỏi tình trạng thuộc địa và phụ thuộc. Với những tên gọi khác nhau, mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật đã ra đời ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam, Miến Điện, Mã Lai, Inđônêxia…đều nhằm mục đích chung là giành độc lập, tự do. Bước đột phá là ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng (15.8.1945), ba nước Inđônêxia, Việt Nam và Lào đều lần lượt tuyên bố độc lập vào các ngày 17.8, 2.9 và 12.10 năm đó. Có thể coi đây là những quốc gia độc lập đầu tiên trên thế giới thoát khỏi hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau Thế chiến 2. Còn ở các nơi khác, mặc dầu phong trào đấu tranh chống phát xít kết hợp với yêu sách độc lập khá sôi nổi nhưng các đế quốc lại trở về làm chủ thuộc địa cũ của mình: Mỹ trở về Philippin; Anh trở về Ấn Độ, Mã Lai, Mién Điện, Xingapo; Pháp trở về Campuchia …
Thực ra, ngay trong thời gian chiến tranh, việc giải quyết vấn đề thuộc địa đã được đặt ra với nhiều quan điểm khác nhau. Tướng Mỹ Mac Actơ từng bỏ chạy khi quân Nhật đổ bộ lên Philippin nay trở về lại được tôn vinh như “Người giải phóng” cho quần đảo. Nước Anh – “đế quốc mặt trời không bao giờ lặn” – coi việc khôi phục chế độ cai trị thực dân là điều đương nhiên. Trên thực tế, họ đã làm được việc đó với sự chiếm lĩnh các thuộc địa cũ, trấn áp các lực lượng yêu nước, đặc biệt là tìm cách tiêu diệt Đảng Cộng sản. Đồng thời lo ngại tác động của sự thành lập các quốc gia mới giành độc lập, chính phủ Luân Đôn đã giúp các nước đế quốc tiến hành kế hoạch tái chiếm sau khi phát xít Nhật quy hàng: quân Hà Lan trở về Inđônêxia, quân Pháp trở về Đông Dương. Riêng đối với Pháp, năm 1944 Anh đã cho chính phủ Đơ Gôn đặt một phái bộ quân sự trong Bộ chỉ huy mặt trận Đông Nam Á đóng ở Xâylan và hứa hẹn sẽ giúp đỡ Pháp khi quân Anh vào Đông Dương giải giáp Nhật.
Tình hình nước Pháp khá phức tạp. Tháng 6.1940, quân Đức tấn công Pháp, chính giới Pháp bị phân hoá thành 2 phái: một do Thống chế Pêtanh đứng đầu chấp nhận sự chiếm đóng của Đức, di chuyển chính phủ từ Pari về Visi (nên thường gọi là Chính phủ Visi); một do Tướng Đơ Gôn lãnh đạo đã lánh nạn sang Anh, kêu gọi tiến hành kháng chiến chống phát xít. Sau đó, ông thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp (ở Angiêri – 1943) có vai trò như một chính phủ lâm thời, liên hệ với lực lượng bí mật trong nước để đấu tranh chống Đức. Tình hình đó tác động tới Đông Dương: tướng Đơcu theo phái Pêtanh được cử sang làm Toàn quyền thay thế Catơru, ông này khi trở về đến Xingapo đã bay sang Luân Đôn gia nhập phe kháng chiến của Đơ Gôn. Vì chính phủ Pêtanh đã đứng về phe Trục nên khi tấn công Việt Nam (Lạng Sơn – 9.1940), Nhật không loại bỏ bộ máy cai trị của Pháp như đã xoá sổ các chính quyền thực dân Âu Mỹ ở các nước Đông Nam Á, mà vẫn duy trì chính phủ Toàn quyền Đơcu cho đến tháng 3.1945. Đối với ngời Pháp, tướng Đơ Gôn là hiện thân của tinh thần dân tộc đã tiến vào thủ đô Pari giải phóng tháng 6.1944. Nhưng về vấn đề thuộc địa, Đơ Gôn vẫn mang nặng tư tưởng thực dân, vẫn đặt các dân tộc thuộc địa dưới ách thống trị của đế quốc Pháp. Ngay từ tháng 12.1943, trong thông cáo của Uỷ ban giải phóng dân tộc Pháp về vấn đè Đông Dương có đoạn viết:“Nước Pháp thoả thuận ban hành, trong nội bộ khối cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị mới, theo đó, trong khuôn khổ của tổ chức Liên bang (Đông Dương), những quyền tự do của các nước trong Liên bang sẽ được nới rộng và khẳng định; tính chất tự do rộng rãi của các tổ chức sẽ được nổi bật mà không hề mất đi dấu hiệu của nền văn minh và truyền thống Đông Dương…“[4] . Đằng sau những lời lẽ hoa mỹ đó lộ ra ý đồ là sẽ nới rộng một số quyền tự do nhưng “nền văn minh và truyền thống“ của chế độ cai trị Pháp ở Đông Dương là không hề thay đổi, “không hề mất đi“. Âm mưu này được cụ thể hoá trong Tuyên bố Brazavin ngày 24.3.1945, vừa đúng nửa tháng sau khi Nhật đảo chính Pháp, với một kế hoạch khá chi tiết. Đó là sẽ thành lập chính phủ Liên bang Đông Dương bao gồm đại biểu các quốc gia Đông Dương và đại biểu của những người Pháp cư trú ở Đông Dương do một Toàn quyền Pháp đứng đầu, được hưởng một số quyền nội trị và kinh tế, còn công việc đối ngoại thuộc về quyền hạn của chính phủ Liên hiệp Pháp mà Liên bang Đông Dương là một thành viên. Như vậy âm mưu thực dân sẽ tái chiếm Đông Dương và tái lập ách thống trị thực dân là điều quá rõ ràng!
Thái độ của Mỹ phải được xem xét qua 2 giai đoạn tương ứng với 2 đời tổng thống, từ Rudơven đến Truman. Trong một thông điệp đầu năm 1944, Tổng thống Rudơven tuyên bố:“Hơn một năm qua tôi đã bày tỏ ý kiến rằng Đông Dương không thể trả lại cho Pháp mà cần được thác quản quốc tế. Về vấn đề này, tôi được Thống chế Tưởng Giới Thạch và Nguyên soái Xtalin hoàn toàn ủng hộ…Nước Pháp đã vắt sữa Đông Dương 100 năm rồi. Người Đông Dương có quyền được hưởng điều tốt đẹp hơn như thế“. Sau này, ông nhấn mạnh với Bộ Ngoại giao Mỹ: Tôi muốn không có một người Pháp nào được trở lại Đông Dương[5]. Chủ trương này có lợi cho sự hợp tác của những người Mỹ ở Côn Minh với lực lượng Việt Minh trong các Khu giải phóng Việt Bắc vào cuối 1944 – đầu 1945. Nhưng sau khi Rudơven qua đời (12.4.1945), Phó Tổng thống Truman lên thay thì lập trường của Mỹ thay đổi. Nước Mỹ giữ thái độ im lặng, thậm chí sau này đã giúp đỡ quân Pháp trở lại Đông Dương.
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch đương nhiên đồng tình với Rudơven, không phải vì quyền tự do của người Đông Dương mà vì giải pháp đó phù hợp với tham vọng của giới cầm quyền Trùng Khánh. Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đã từ lâu nằm trong tầm nhìn của các nhà nước Trung Hoa. Đây chính là thời cơ thuận lợi nhất để chính quyền Tưởng thực hiện ý đồ của mình.
Còn Liên Xô vẫn tuyên bố nguyên tắc chung là ủng hộ quyền tự quyết của các dân tộc nhưng vì không có lợi ích về vấn đề thuộc địa nên không có thái độ rõ ràng ngoài lời kể của Rudơven là Xtalin đồng ý không nên để người Pháp quay lại Đông Dương.
Nhưng nhìn chung trên bình diện quốc tế trong thời gian này, khả năng có được lực lượng thực sự ủng hộ nền độc lập Việt Nam vẫn còn là điều xa vời, chưa hiện thực.
3. Sự thoả hiệp giữa các cường quốc mở đường cho thực dân Pháp quay lại Việt Nam
Ngày 19.8.1945, Tổng khởi nghĩa bùng nổ ở Hà Nội đã nhanh chóng lan rộng trong cả nước. Ngày 2.9, cùng ngày với việc đại diện chính phủ quân phiệt Nhật Bản ký Hiệp ước đầu hàng không điều kiện trên chiến hạm Mỹ Mitsuri ở Vịnh Tokyo thì tại Hà Nội, lễ tuyên bố Độc lập được long trọng cử hành. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Từ đây, Việt Nam giữ vị thế là quốc gia có chủ quyền trong quan hệ với các nước ngoài và chính phủ Hồ Chí Minh là người đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt Nam.
Việc xuất hiện Nhà nước Việt Nam độc lập là một thực tế không thể phủ nhận, song các thế lực đế quốc không muốn thừa nhận, ngược lại tìm mọi cách để bóp chết nó. Do vậy, đã diễn ra nhiều sự thoả hiệp, nhân nhượng và câu kết giữa các nước lớn để thực dân Pháp trở lại Việt Nam.
Trước tiên phải kể đến nước Anh là nước có nhiều thuộc địa ở Đông Nam Á. Lo ngại ảnh hưởng cách mạng từ Việt Nam sẽ lan rộng sang các nước trong khu vực, chính phủ Luân Đôn đã chấp thuận cho một trung đội lính Pháp được trà trộn vào đơn vị số 136 của quân Anh tiến vào Nam bộ giải giáp quân Nhật. Trung đội này sẽ bắt liên lạc với lính và dân thường Pháp còn tản mát ở Việt Nam sau ngày Nhật đảo chính, cùng với đội quân lê dương được cử sang để gây hấn ở Sài Gòn đêm 23.9.1945, mở đầu cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Ngày 8.10 tại Luân Đôn, Anh và Pháp ký Tạm ước về việc giao cho Pháp quyền quản lý hành chính và tư pháp ở phía Nam vĩ tuyến 16. Hôm sau, thủ tướng Anh là Atli công khai tuyên bố chính sách về Đông Dương gồm 3 điểm chính là chính phủ Anh sẽ yểm trợ Pháp tái chiếm Việt Nam, công nhận chính quyền Pháp tại Sài Gòn và giao quyền cai trị ở Nam vĩ tuyến 16 cho Pháp quản lý. Như vậy, sự câu kết Pháp Anh đã khởi động trên thực tế cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Có thể nói người Mỹ là người nước ngoài đầu tiên đặt chân đến Hà Nội sau ngày Tổng khởi nghĩa theo đoàn quân cách mạng từ chiến khu về. Thậm chí, theo lời kể của thiếu tá A.Patti, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa đọc bản thảo Tuyên ngôn Độc lập trước khi văn bản này được công bố ngày 2.9. Đó là hệ quả của mối quan hệ thân hữu và hợp tác chống Nhật trong thời gian Thế chiến. Nhưng khi chiến tranh kết thúc, lập trường của chính phủ Mỹ đã thay đổi. Ngày 22.8 tướng Đơ Gôn bay sang Oasinhtơn hội đàm với Tổng thống Truman[6]. Đơ Gôn tuyên bố sẽ thiết lập một chế độ mới ở Đông Dương, chính phủ gồm người bản xứ và kiều dân Pháp do đại diện chính phủ Pháp đứng đầu và quân Pháp sẽ vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật. Kế hoạch này không được Oasinhton hưởng ứng. Cuộc gặp lộ rõ quan hệ hai nước khi đó chưa hẳn thuận lợi vì Đơ Gôn cảm thấy nước Pháp không được Mỹ đối xử như một cường quốc hạng nhất, còn Truman thì nghi ngờ Pháp đang tìm kiếm quan hệ với Liên Xô. Trong bức điện của Bộ ngoại giao Mỹ gửi Đại sứ quán Mỹ tại Trùng Khánh có thông báo:“Mỹ không phản đối mà cũng không ủng hộ việc thiết lập lại quyền cai trị của người Pháp ở Đông Dương“[7]. Do vậy, chính phủ Oasinhtơn chỉ thị là “đại diện Mỹ ở Việt Nam phải tuyệt đối trung lập“[8].Đây là một bước lùi so với kế hoạch quản thác Đông Dương của Rudơven. Trong buổi tiếp bà Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tưởng Giới Thạch ngày 30.8, khi được hỏi về vấn đề Đông Dương, Truman cũng thận trọng trả lời là nước Mỹ chưa có quyết định gì cả[9] . Tuy vậy trong bối cảnh tình hình quốc tế đang diễn ra quá trình phân hoá hai cực mà Liên Xô là đối thủ thì các nước đế quốc tuy còn có điểm bất đồng nhưng đã xích lại và câu kết với nhau để phòng ngừa Liên Xô. Thế là Hoa Kỳ “đã ký bản thoả thuận với nước Pháp về việc cung cấp xe cộ và trang thiết bị cho quân Pháp ở Đông Dương. Điều đó hầu như biểu lộ sự tán thành của nước Mỹ đối với việc tái chiếm của Pháp“[10]. Và cùng ngày 22.8, nghĩa là chỉ 4 ngày sau Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, máy bay Mỹ chở thiếu tá Patty từ Côn Minh về Gia Lâm đã cho nhân viên tình báo Pháp là Xanhtơny (sau trở thành đại diện của Pháp với chức danh Uỷ viên Cộng hoà) đi cùng, lén lút vào Hà Nội trong khi trước đó, một nhân vật khác là Metxme bí mật nhảy dù xuống vùng Hải Phòng bị rơi vào tay du kích. Thật nực cười khi Xanhtơny sau này thổ lộ :“Trong khi máy bay lướt thấp trên vùng trời, chúng tôi nhìn thấy những chùm hoa lạ màu đỏ nở rộ rất nhanh trong thành phố như để đón chào chúng tôi. Máy bay hạ xuống thấp hơn nữa, lúc đó chúng tôi mới phân biệt được đó là những lá cờ đỏ sao vàng. Chúng tôi nhìn nhau, kinh ngạc, hiểu rằng đây không phải là sự đón tiếp mà chúng tôi hy vọng từ đáy lòng”[11].
Thực ra, ngay trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, ngày 11.8 Bộ Ngoại giao Pháp đã gửi thư cho các cường quốc Mỹ, Anh, Trung Hoa và Liên Xô đề nghị được có đại diện trong Uỷ ban đình chiến của Đồng minh, có đại diện quân sự bên cạnh các tư lệnh Đồng minh và được quyền tước khí giới quân Nhật tại Đông Dương. Đề nghị này không được chấp thuận, Pháp lo ngại việc một số nhân vật cao cấp ở Mỹ muốn giúp Trung Hoa chiếm đoạt Đông Dương khỏi tay Pháp. Ngày 14.8 Đại sứ Pháp tại Trùng Khánh Pechkôp xin cử 5000 lính Pháp tham gia giải giáp quân Nhật, ba hôm sau được trả lời “sẵn sàng cho 5000 lính Pháp trở lại Đông Dương nhưng phải đặt dưới quyền chỉ huy của tướng lĩnh và sĩ quan Quốc dân đảng Trung Hoa“. Quả là liều thuốc khó nuốt nên ngày 28.8 Đại sứ Pháp tại Oasinhtơn đưa ra đề nghị để người Anh tước vũ khí quân Nhật trên toàn cõi Đông Dương; hoặc là tướng lãnh Nhật ở phía Bắc làm lễ đầu hàng tại một địa điểm trên lãnh thổ Trung Hoa, còn ở miền Nam thì Pháp tiếp nhận lễ đầu hàng dưới danh nghĩa của Anh (!). Ngày 30.8 Ngoại trưởng Mỹ trả lời là không thể đi ngược lại Tuyên bố Pôtxđam nhưng Pháp có thể dàn xếp với Anh. Cùng hôm đó, Đại sứ Mỹ tại Trùng Khánh nhận được thông báo từ Bộ ngoại giao Mỹ là Mỹ hoàn toàn đồng ý nếu Pháp và Trung Quốc có thể đi đến thoả hiệp. Những sự kiện trên cho thấy Mỹ có thái độ lập lờ, đẩy “quả bóng“ vào chân Anh và Trung Hoa, nhưng trên thực tế đã để ngỏ cửa cho Pháp trở lại Đông Dương. Ngày 28.10, Tổng thống Truman đọc diễn văn về chính sách ngoại giao của Mỹ. Trong đó nhắc đến vấn đề Đông Dương với những lời lẽ chung chung về quyền tự quyết dân tộc và quyền bình đẳng như đã ghi trong Hiến chương Đại Tây Dương và Hiến chương Cựu Kim Sơn.
Chính phủ Pháp rất lo ngại về ý đồ của Trung Hoa Quốc dân đảng đối với Đông Dương. Để làm yên lòng Pháp, Thủ tướng chính phủ Trùng Khánh Tống Tử Văn đã cam kết với Đơ Gôn trong buổi gặp tại Pari ngày 19.9 rằng Trung Hoa không có tham vọng lãnh thổ ở Đông Dương và nếu có thể thì sẵn sàng yểm trợ Pháp trở lại Đông Dương[12]. Ngày 10.10, trong buổi tiếp Cao uỷ Pháp tại Đông Dương Đacgiăngliơ ở Trùng Khánh, Tống Tử Văn cũng nhắc lại lời cam kết này. Nội dung trên còn được Tưởng Giới Thạch tuyên bố và được Tướng Lư Hán nhắc lại trong buổi lễ ra mắt tại Hà Nội. Bài toán của giới cầm quyền Trung Hoa ban đầu là sử dụng đám tay chân Việt Quốc và Việt Cách để nắm quyền lực mà không công khai chiếm đóng Việt Nam.
Nhưng tình hình ở Trung Quốc biến chuyển rất khẩn trương. Sau khi cuộc Thế chiến kết thúc, Mặt trận dân tộc thống nhất kháng Nhật nhanh chóng tan vỡ. Nguy cơ cuộc nội chiến giữa lực lượng của đảng Quốc dân và đảng Cộng sản ngày càng đến gần (chính thức bùng nổ ngày 16.6.1946). Chính phủ Tưởng ráo riết chuẩn bị để đối phó với đảng Cộng sản nên muốn dồn lực lượng vào cuộc đấu tranh này, sẵn sàng thoả hiệp với Pháp trong vấn đề Đông Dương. Mặt khác Trung Hoa muốn đòi lại những quyền lợi trước đây đã phải nhường cho Pháp theo những hiệp ước của nhà Thanh ký hồi 1900-1903. Sau một quá trình thương thuyết từ tháng 10.1945 tại Trùng Khánh, ngày 28.2.1946 hiệp ước Pháp Hoa được ký kết giữa Ngoại trưởng Vương Thế Kiệt và Đại sứ Pháp Giăccơ Mâyriê. Có thể tóm tắt trong 3 điểm chính sau đây: 1. Pháp trao trả Trung Hoa các tô giới và vùng ảnh hưởng ở Thượng Hải, Thiên Tân, Hán Khẩu, Quảng Đông (kể cả Quảng Châu Loan); cắt trả lại Trung Hoa phần đường sắt Hải Phòng – Vân Nam chạy qua lãnh thổ Trung Hoa (từ Hà Khẩu đến Côn Minh), hàng hoá Trung Hoa nhập hoặc xuất qua cảng Hải Phòng được miễn thuế; 2. Pháp đưa quân vào phía Bắc Việt Nam thay quân Trung Hoa sẽ rút khỏi Việt Nam từ ngày 15.3 đến 31.3 (trên thực tế đến tháng 10 mới rút hết). Pháp ứng trước số tiền trả cho việc chuyển quân Trung Hoa mỗi tháng 60 triệu đồng tiền Đông Dương (tổng cộng là 7 tháng tính từ 1.9.1945 đến 31.3.1946); 3. Trung Hoa sẽ vũ trang cho 5000 thường dân Pháp đang ở Hà Nội (văn kiện về việc này được ký bí mật, không công bố)[13]. Như vậy là quan hệ Pháp Hoa đã được giải quyết không tính gì đến lợi ích của nhân dân Đông Dương. Nhưng sự tồn tại của chính phủ Hồ Chí Minh được quần chúng ủng hộ là một thực tế buộc Pháp phải tiến hành thương lượng nếu muốn thực hiện Hiệp ước Trùng Khánh, đặt chân lên miền Bắc nước ta.
Còn lại một vấn đề bấy lâu bỏ ngỏ chưa có đủ tài liệu minh chứng. Đó là câu hỏi về thái độ của Liên Xô đối với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong khi có thể tìm thấy những bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Mỹ thì quá hiếm hoi những tài liệu nói lên quan hệ Việt Nam – Liên Xô hồi đó. Trong thư gửi Đại Nguyên soái Xtalin ngày 22.9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:“Chúng tôi thông báo cho quý Ngài biết rằng Chính phủ lâm thời của Cộng hoà Việt Nam đã được thành lập dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hoàng đế Bảo Đại đã thoái vị ngày 25.8 và chuyển giao chính quyền cho Chính phủ mới được toàn dân tộc ủng hộ“[14]. Sau đó, còn có bức công hàm chính thức gửi chính phủ Liên Xô ngày 21.10.1945 và điện văn gửi Xtalin và ngoại trưởng Grômicô ngày 14.1.1946. Cùng thời gian đó, Đại sử Liên xô tại Pari là A.E. Bôgômôlôp gửi về Matxcơva nhiều báo cáo về tình hình Đông Dương. Cũng lưu ý rằng trong phái bộ các nước Đồng minh đến Hà Nội có cả phái bộ Liên Xô do đại tá Xtêphan Xôlôiep đại diện[15] thì không thể không có báo cáo gửi về Matxcơva. Và từ cuối tháng 10.1946 đến đầu tháng 3.1947 (nghĩa là khi chiến tranh đã xảy ra ở Nam Bộ và bùng nổ trong cả nước) có một phái đoàn quân sự Xô viết đến Sài Gòn (sau còn đi Nha Trang, Đà Lạt và Phnom Penh) để hồi hương những người có quốc tịch Nga đã tham gia quân đội viễn chinh Pháp. Hơn thế nữa, trong thời gian ở thăm nước Pháp, ngày 21.7.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có cuộc gặp một số chuyên gia quân sự Xô viết và Chủ tịch Ủy ban bảo vệ hòa bình Liên xô – nhà văn I. Êrenbua. Do vậy, lý do biện minh là vì Việt Nam quá xa, Liên Xô không nắm được tình hình là điều rất không thoả đáng.
Xét bối cảnh quốc tế hồi đó, có thể giải mã bằng mấy lý do sau đây: 1) Mối quan tâm hàng đầu liên quan đến an ninh của Liên Xô là những biến động ở Tây Âu mà điểm nóng là nước Đức và thành phố Beclin. Nói đến Viễn Đông thì tầm nhìn của Matxcơva cũng chỉ tới vùng Mãn Châu (Đông Bắc Trung Quốc) và bán đảo Triều Tiên mà không quan tâm đến vùng Đông Nam Á. 2) Sự can thiệp của Liên Xô vào vấn đề thuộc địa của Anh và Pháp có thể gây ra xung đột với lợi ích của 2 nước đó mà không đáp ứng lợi ích tối cao của Liên Xô trong lúc này. Nhất là “Hiệp ước liên minh và tương trợ „ giữa Chính phủ Liên Xô và Chính phủ lâm thời Pháp ký tại Maxcơva ngày 10.12.1944 càng xác định thái độ của Liên Xô không can thiệp vào vấn đề thuộc địa của các nước đế quốc, cũng có nghĩa là thờ ơ đối với phong trào giải phóng dân tộc. 3) Tin tức về chính phủ Hồ Chí Minh có thể gợi lên trong giới lãnh đạo Kremli mối nghi ngại từ những năm 1930 về lập trường cộng sản hay lập trường quốc gia của Đảng Cộng sản Đông Dương nên họ có ý chờ xem. Việc tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 11.1945) càng làm tăng điều băn khoăn này.
Theo tài liệu lưu trữ mới công bố sau khi nhà nước Liên Xô tan rã thì Bộ ngoại giao Liên Xô hồi đó đã tiếp nhận những văn kiện của chính phủ Hồ Chí Minh năm 1945-1946 “một cách dè dặt„ chủ trương “không trả lời„ và “đưa vào lưu trữ „.
Dù cho vì lý do gì chăng nữa thì sự im lặng của Matxcơva cũng có lợi cho việc Pháp rộng tay trở lại xâm lược Việt Nam.
4. Hiệp định sơ bộ – giải pháp sách lược “Hoà để tiến”
Có thể đánh giá chung rằng bối cảnh quốc tế đầu năm 1946 rất bất lợi đối với cách mạng Việt Nam. Và tình hình trong nước cũng hết sức khó khăn do những di sản của thời kỳ thuộc địa (giặc đói, giặc dốt), là hệ quả khó tránh của một chính quyền dân chủ mới xây dựng và đặc biệt hiểm nguy là sự phá hoại của các tổ chức phản động tay sai nước ngoài. Song sức mạnh của cách mạng bắt nguồn từ tinh thần yêu nước và quật khởi của quần chúng nhân dân, từ niềm tin tuyệt đối vào Chính phủ Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng niềm tin vốn là yếu tố tinh thần, khi được khơi dậy, được động viên vì mục tiêu cao cả Độc lập – Tự do thì niềm tin ấy biến thành sức mạnh vật chất của hàng triệu đồng bào đứng lên bảo vệ non sông. Chính dựa vào sức mạnh tinh thần và vật chất của nhân dân mà Đảng đã chèo lái con thuyền Tổ quốc vượt qua sóng ghềnh đầy thử thách.
Tình hình cuối 1945 – đầu 1946 thực ra đối với Đảng ta không phải hoàn toàn bất ngờ mà đã được dự tính trước. Tại Hội nghị Đảng toàn quốc ở Tân Trào (13-15.8.1945), chính sách đối ngoại đă đề ra đối sách thích hợp, có thể tóm tắt như sau: 1). Lợi dung mâu thuẫn trong nội bộ Đồng minh (Mỹ Tưởng với Anh Pháp) nhưng đề phòng tình huống vì mâu thuẫn với Liên Xô mà các nước trên đứng về một phía, nhân nhượng cho Pháp trở lại Đông Dương; 2). Hết sức tránh trường hợp ta phải đối phó cùng một lúc với nhiều lực lượng Đồng minh tràn vào nước ta và dựng chính phủ tay sai của họ, tranh thủ sự đồng tình của Mỹ và Liên Xô; 3). Khẳng định rằng chỉ có thực lực của ta mới quyết định thắng lợi cho ta; 4). Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước nhược tiểu, nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc[16].
Thực tế lịch sử đã diễn ra đúng nh dự đoán. Các nước đề quốc đã thoả hiệp để ngỏ cửa cho Pháp trở lại Đông Dương. Trớ trêu là ở chỗ Liên Xô, vì lợi ích quốc gia, đã giữ thái độ im lặng trước một dân tộc đang chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Song có 2 điều cơ bản trong sự chỉ đạo làm cho đất nước thoát khỏi hiểm nguy. Đó là tránh tình huống cùng một lúc phải đối phó với nhiều đối thủ và khẳng định sức mạnh của ta mới quyết định thắng lợi cho ta. Chính dựa trên cơ sở đó, ngày 6.3 Hiệp định sơ bộ được ký kết nhằm chọn một đối thủ duy nhất là thực dân Pháp và tạo thời cơ để toàn dân tích cực chuẩn bị cuộc kháng chiến lâu dài. Những nhân nhượng sách lược trong Hiệp định chính là bước tạm hoà để tiến lên đánh thắng kẻ thù: “Chúng ta hoà với nước Pháp để dành thời gian, bảo toàn thực lực, giữ vững lập trường càng mau tiến tới độc lập hoàn toàn”[17].
II. BỐI CẢNH QUỐC TẾ NỬA ĐẦU NHỮNG NĂM 50 DẪN TỚI HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VỀ ĐÔNG DƯƠNG
1. Cuộc kháng chiến trong thế trận hình thành Trật tự hai cực
Trong 5 năm đầu của nền Cộng hòa Dân chủ, nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập mới giành được trong tình thế hầu như bị tách biệt với bên ngoài. Chưa có một quốc gia nào công nhận nước Việt Nam độc lập, không có một nguồn viện trợ quốc tế nào giúp đỡ. Nhưng vì lời nguyện thiêng liêng “quyết hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu làm nô lệ”, quân dân ta đã tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện một cách kiên cường và tự lực.
Từ cuối thập niên 40 của thế kỷ XX, bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi. Khi đó, hình thái hai phe của cuộc chiến tranh lạnh đã hiện lên rõ nét. Ở châu Âu, sự phân chia Đông Âu XHCN và Tây Âu TBCN đã xuất hiện một “điểm nhấn” quan trọng với sự thành lập 2 nhà nước Đức (CHDC Đức và CHLB Đức) vào năm 1949. Và ở châu Á, sự hình thành 2 nhà nước trên bán đảo Triều Tiên (CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc) càng khơi sâu vết hằn của một thế giới đối đầu. Đặc biệt, sự thành lập CHND Trung Hoa năm 1949 do Đảng Cộng sản lãnh đạo đã xoay chuyển tình hình thế giới, làm cho uư thế của CNXH trở nên nổi trội, một cục diện mới xuất hiện ở miền Đông Á.
Khi đó, ở khu vực này đang diễn ra 3 cuộc chiến tranh: 1. Cuộc chiến tranh Đông Dương chống thực dân Pháp âm mưu quay lại tái lập chế độ thuộc địa; 2. Đoạn kết của cuộc nội chiến ở Trung Quốc do Giải phóng quân tiến hành nhằm quét sạch tàn quân Quốc dân đảng; 3. Cuộc chiến tranh mới bùng nổ trên bán đảo Triều Tiên giữa hai miền đất nước.
Cuộc chiến trên Đại lục Trung Hoa tạm kết thúc khi Nhà nước Cộng hòa Nhân dân tính toán khôn ngoan đã dừng chân bên bờ biển phía Đông, để lại Hồng Kông trong tay Anh, Ma Cao trong tay Bồ và Đài Loan cho chính quyền bại trận Quốc Dân đảng.
Đỉnh điểm của tình hình căng thẳng ở phương Đông bộc lộ khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bị “quốc tế hóa”. Mỹ nhảy vào chiến trường dưới danh nghĩa đội quân Liên Hiệp Quốc cùng 13 nước đồng minh cứu nguy cho Hàn Quốc. Các đơn vị Chí nguyện quân Trung Quốc trực tiếp tham chiến, viện trợ cho Triều Tiên. Do vậy, cuộc chiến tranh đã vượt khỏi giới hạn nội bộ hai miền vì mục tiêu thống nhất đất nước mà bán đảo này bị biến thành bãi chiến trường đọ sức trực tiếp giữa 2 lực lượng Trung Quốc và Mỹ, đằng sau đó là sự ủng hộ của các nước thuộc hai phe: Liên Xô cùng các nước XHCN một bên và Anh, Pháp cùng các nước TBCN một bên. Nơi đây trở thành điểm nóng của cuộc chiến tranh lạnh giữa hai nửa của “Trật tự Yalta” mà mỗi bên đều muốn giành phần thắng.
Đến lúc này, cuộc chiến tranh Việt Nam đã vượt qua được chặng đường 5 năm đầy gian khổ nhưng không lùi bước: “5 năm chiến đấu đầu tiên giữ một vị trí đặc biệt trong chiến tranh giải phóng và giữ nước hiện đại của Việt Nam”, “là tiền đề và cơ sở đầu tiên của thắng lơị vĩ đại ấy”[18]. Thế “chiến đấu trong vòng vây” của quân dân Việt Nam dần dần được tháo gỡ với việc thiết lập quan hệ ngoai giao cùng các nước XHCN vào tháng 1.1950. Những tín hiệu sa lầy của đội quân Pháp xâm lược ngày càng nổi rõ: “Tình hình cuộc chiến tranh Việt Nam càng ngày càng tồi tệ đã nói lên rất rõ những thất bại về chính trị của chúng ta (Pháp) trong suốt bốn năm đó”[19]. Chiến dịch thu – đông năm 1950 đã nhổ những đồn bốt của quân Pháp trên vùng biên giới Lạng Sơn – Cao Bằng, giáng một đòn quyết định vào cục diện chiến tranh. Đối với địch, “đến tháng mười một thì cuộc chiến tranh Đông Dương đã chuyển thành một cuộc tháo lui nhục nhã. Đó là sự bối rối không thể nào chịu được đối với người Pháp kiêu hãnh và làm dấy lên những hoài nghi nghiêm trọng ở Pháp cũng như ở Mỹ về việc quân đội Pháp có thể giành được thắng lợi quân sự như mong muốn”[20]. Thế là đã đến lúc người Mỹ phải vào cuộc: “Đứng trước khả năng Pháp có thể thất bại, đồng thời lúc đó cộng sản đã thắng lợi ở Trung Quốc, nên vào đầu năm 1950 Mỹ quyết định hỗ trợ cho Pháp ở Đông Dương, bước đầu trực tiếp dính líu vào Việt Nam”[21]. Việc Mỹ cứu giúp Pháp nằm trong một tính toán rộng lớn của chiến lược toàn cầu. Đó là sự ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và Trung Quốc đang lan rộng ở vùng Viễn Đông cũng như lo ngại ảnh hưởng của Việt Nam sẽ lôi cuốn các nước Đông Nam Á vào trào lưu cách mạng, tuyến phòng thủ từ xa của Mỹ nối từ Nhật Bản đến Ôxtrâylia sẽ bị suy yếu. Nguồn nguyên liệu phong phú và có tính chiến lược của khu vực này cũng là điều quan tâm của giới cầm quyền Oasingtơn. Hơn nữa, nếu Pháp đổ tiền của vào cuộc chiến tranh xa xôi này thì Pháp sẽ chậm hồi phục nền kinh tế, do vậy sẽ gặp rắc rối trong sự ổn định chính trị trong nước và giảm sự đóng góp vào việc tăng cường lực lợng của khối Bắc Đại Tây Dương (NATO) mà đó mới là điều quan tâm hàng đầu của Mỹ. Vì những lý do trên, các quan chức Mỹ nhất trí nhận định rằng “Đông Dương và đặc biệt Việt Nam là then chốt trong việc bảo vệ Đông Nam Á”[22].
Tuy vậy, khác với bán đảo Triều Tiên, trên chiến trường Việt Nam chỉ có quân dân Việt Nam kháng chiến chống thực dân Pháp mà đứng về phía Việt Nam không có mặt lực lượng quân đội của nước nào khác ngoài một số cố vấn Trung Quốc. Bản chất của cuộc kháng chiến trước sau vẫn là cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập của Tổ Quốc, bảo vệ chính quyền Dân chủ Cộng hòa. Song trong bối cảnh quốc tế phân hóa hai phe thì chiến trường Việt Nam cũng không tránh khỏi trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa hai hệ thống xã hội. Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam; Mỹ, Anh viện trợ cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp. Cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân ta chẳng những gắn kết với phong trào đấu tranh của các dân tộc thuộc địa mà còn mang sắc thái của cuộc đấu tranh vì thắng lợi của CNXH. Nói cách khác, nó đi vào quỹ đạo của cuộc đấu tranh giữa 2 hệ tư tưởng, 2 chế độ chính trị ngày càng lan tỏa khắp hành tinh. Frăngxoa Gioayô nhận xét: “Bộ chỉ huy Pháp không chỉ đối phó với một cuộc nổi dậy có tính dân tộc mà là chống đối một sự nghiệp, không phải không có lý do để có thể xem như một trong những biểu hiện của cuộc chạm trán Đông – Tây trong khung cảnh chiến tranh lạnh”[23]. Cho nên, những biến động trên chiến trường Việt Nam không thể không chịu tác động của tình hình thế giới và ngược lại, chiến cuộc ở Việt Nam cũng có ảnh hưởng đến tình hình chung của khu vực và thế giới.
2. Chiến cuộc Điện Biên Phủ trong toan tính của các nước đế quốc và phản ứng của nhân dân Pháp
Tháng 1 năm 1950, chuyến công tác ra nước ngoài của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở cánh cửa ngoại giao với thế giới, đạt được sự công nhận chính thức của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, của Liên bang Xô viết và các nước XHCN đối với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi ngoại giao đã chấm dứt 5 năm chiến đấu đơn độc, hầu như bị cách ly với bên ngoài và từ đó tiếp nhận sự đồng tình về chính trị và sự viện trợ về vật chất của các nước XHCN[24] .
Vội vã ứng phó với sự kiện trên, tháng 2 năm 1950, Mỹ, Anh và một số nước khác lên tiếng công nhận chính phủ bù nhìn Bảo Đại, được mang danh là “Quốc gia liên kết” của Pháp. Kèm theo đó là sự thành lập phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ MAAG ((8.1950) và khoản viện trợ tiền tài, vũ khí đầu tiên của Mỹ với hy vọng giúp Pháp đủ sức kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh Đông Dương. Nước Mỹ đã từ lập trường không can thiệp trước đây chuyển sang can thiệp thông qua viện trợ về quân sự và kinh tế ở Đông Dương. Như thế là đến năm 1950, “Hoa Kỳ đã dính líu vào chính sách kiềm chế tích cực ở châu Á cũng như ở châu Âu, ở Thái Bình Dương cũng như Đại Tây Dương”[25]. Nhưng sau 3 – 4 năm theo đuổi cuộc chiến với những viên tướng nổi danh như Đơlat đơ Tatxinhi, Hăngri Nava và khoản viện trợ của Mỹ từ 40% năm 1952 tăng lên đến 72% năm 1954 tổn phí chiến tranh ở Đông Dương, khoảng hơn 2,2 tỷ USD[26], thực dân Pháp vẫn không xoay chuyển được tình thế. Ván bài cuối cùng nhằm tạo nên thế mạnh đặt vào chiến cuộc Điện Biên Phủ hòng “nghiền nát Việt Minh” trong cái lòng chảo dày đặc cứ điểm.
Cũng từ đầu những năm 50, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ hai (2/1951) nhiệm vụ chính của cuộc kháng chiến khi đó là: “Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới”[27]. Như vậy, “bọn can thiệp Mỹ” đã trở thành một đối thủ trên chiến trường Việt Nam.
Vậy chiến trận Điện Biên Phủ được tính toán trên bàn cờ quốc tế như thế nào? Về phía đối phương, đây là một bài toán nhằm 2 mục đích. Cả Pháp và Mỹ đều muốn đánh một đòn quyết liệt để giành phần thắng cuối cùng. Nếu đạt được mục đích này thì chẳng những đánh bại lực lượng kháng chiến Việt Nam mà còn ngăn chặn sự lan tràn của ‘làn sóng cộng sản” ở vùng Đông Nam Á và nhờ đó nâng cao uy thế của các cường quốc tư bản. Nhưng tình hình thực tế chiến trường không diễn biến theo chiều hướng đó. Kế hoạch 15 tháng của tướng Đơ Lat bị đổ vỡ thảm hại; tiếp theo, kế hoạch 18 tháng của tướng Nava hứa hẹn niềm hy vọng mới “sẽ đánh tan tổ chức cộng sản vào cuối năm 1955” (lời F. Đalet, sau này trở thành ngoại trưởng Mỹ) cuối cùng cũng phá sản. Mỹ ráo riết tăng cường viện trợ cho Pháp về các phương tiện chiến tranh, tài chính và cố vấn quân sự. Nhưng thực ra, chính giới Mỹ cũng còn nhiều tính toán. Mỹ không dám đưa quân tham chiến trực tiếp ở Đông Dương, không muốn lặp lại “một Triều Tiên thứ hai” mà sau 3 năm đổ quân, đổ của vào bán đảo này, Mỹ không giành được phần thắng, phải kết thúc bằng sự thỏa thuận trở lại vĩ tuyến 38 nh buổi ban đầu. Mỹ cũng lo ngại việc đụng đầu trực tiếp với Trung Quốc nếu quân đội nước này tham gia cuộc chiến Đông Dương. Nhiều lần, giới cầm quyền Nhà trắng và Lầu Năm góc nhấn mạnh “dù tình hình có diễn biến đến mức nào thì Mỹ cũng không thể đưa lực lượng quân sự vào Đông Dương”, “không thể đa lực lượng mặt đất vào Đông Dương”[28]. Nhưng với vai trò “ông chủ” chi tiền, Mỹ muốn nhúng sâu vào kế hoạch tác chiến và trực tiếp nắm lực lượng bù nhìn nên ép Pháp phải nới rộng cái gọi là “quyền độc lập” mà Pháp đã ký cho “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại[29]. Điều này là một trong những nguyên cớ làm cho Pháp khó chịu bởi vì Pháp muốn nhận viện trợ của Mỹ nhưng không để Mỹ can dự sâu vào công việc ở Đông Dương, nhất là việc nắm lực lượng “bản xứ”. Tuy thế, do chiến cuộc ngày càng diễn biến xấu, Pháp phải từng bớc nhượng bộ Mỹ, thay dần các chính khách bù nhìn để rồi sau thất bại ở Điện Biên Phủ phải chấp nhận Ngô Đình Diệm, con bài nuôi dưỡng của Mỹ, làm thủ tướng (6.1954) thay các phần tử thân Pháp.
Một câu hỏi lớn đặt ra đối với phe Mỹ là liệu Trung Quốc có đưa quân sang trực tiếp chiến đấu trên chiến trường Việt Nam không, nếu có thì sẽ phải đối phó như thế nào?
Ngay từ tháng 1.1951, trong cuộc họp giữa đại diện ba nước Mỹ, Anh, Pháp ở Oasinhtơn, Pháp đã đề nghị “cần làm một cái gì đó để Trung Quốc hiểu rằng một cuộc xâm lược vào Đông Dương sẽ gây nên một cuộc trả đũa tập thể”. Còn Mỹ thì đề nghị đưa ra một “lời cảnh cáo tập thể đối với Bắc Kinh” để tỏ rõ sự đoàn kết giữa ba nước, song Anh lại lo ngại Trung Quốc sẽ coi đó như một sự khiêu khích.
Đến năm 1952, Pháp đưa ra ý kiến về một tuyên bố của ba nước khẳng định sự giúp đỡ đối với các quốc gia trong vùng Đông Nam Á chống lại “sự đe dọa bên ngoài và bên trong”, và hứa giúp các nước này xây dựng lại nền kinh tế. Về lâu dài sẽ tiến đến một hiệp ước tương trợ giữa các cường quốc với các nước Đông Nam Á, song trước mắt nên ra một văn bản gọi là “Hiến chương Thái Bình Dương”, lôi cuốn thêm 2 nước tham gia là Ôxtraylia và Niu Dilân. Mỹ và Anh tuy tán thành song có những đắn đo, tính toán riêng nên ý kiến đó chưa biến thành hiện thực. Trong khi đó, đối với Pháp thì tình hình chiến trường ngày càng trở nên ruỗng nát và dư luận trong nước đã quá mệt mỏi với cuộc chiến tranh này. Pháp phải yêu cầu Oasinhtơn tăng cường viện trợ quân sự, nhất là máy bay và phi công.
Ngày 13.3.1954, cuộc tiến công của quân đội nhân dân Việt Nam vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu. “Điện Biên Phủ từ những ngày đầu chiến sự đã làm các giới hữu trách trong chính phủ Pari ngạc nhiên. Trong mấy tuần, các giới chính trị và quân sự, ở Pháp cũng như ở Mỹ và Anh, đều trải qua một cơn sốt đặc biệt”[30]. Ngay sau đó, tổng tham mưu trưởng lục quân Pháp Pôn Êly phải sang Oasinhtơn gặp tổng thống Aixenhao, gặp ngoại trưởng Đalet và các tướng lĩnh, các quan chức cao cấp Mỹ để cầu cứu khẩn cấp, nhất là để đối phó với quân đội Trung Quốc nếu như họ xuất hiện. Bộ ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa ra dự kiến về một hiệp ước an ninh tập thể ở Đông Nam Á. Trong lúc Aixenhao còn suy tính thì Nichxơn – phó tổng thống Mỹ hồi đó – khi nói về “Chiến lược cách nhìn mới và trả đũa ồ ạt” (Strategy of New Look and Massive Retaliaction) đã chủ trương “gửi lính Mỹ đến Việt Nam kẻo quá chậm”, đổ bộ một lực lượng vào khu vực Hà Nội – Hải phòng “dù có nguy cơ xảy ra chiến tranh với Trung Hoa Đỏ”, đồng thời có ý đe dọa về một “sức mạnh cơ động ghê gớm sẽ được sử dụng kín đáo để trả đũa …”. Trong khi lên tiếng tố cáo Trung Quốc can thiệp vào Đông Dương, ngoại trưởng Mỹ đã ám chỉ “nguy cơ nghiêm trọng”, khiến cho “người ta đương nhiên nghĩ đến việc sử dụng vũ khí nguyên tử”. Còn chính giới Pháp thì bàn nhiều về khả năng Mỹ sử dụng lực lượng hải quân và không quân, có lẽ cả sức mạnh nguyên tử nữa”[31]. Họ hy vọng rằng sự đe dọa đó sẽ là con chủ bài lớn của Pháp buộc Trung Quốc phải nhượng bộ.
Tuy nhiên, trong giới chính trị và quân sự ở Mỹ cũng có thái độ dè dặt. Họ lo ngại một sự can thiệp sâu như vậy sẽ lôi cuốn Mỹ vào một cuộc chiến tranh kiểu Triều Tiên. Ngày 3.4.1954, những người đứng đầu Quốc hội Mỹ đã bác bỏ kế hoạch của Đalet, đưa ra ba điều kiện để Mỹ tham chiến là các nước đồng minh, nhất là Anh phải đồng tình và tham gia; Pháp phải trao trả độc lập thực sự cho các “Quốc gia liên kết” (tức là các chính quyền bù nhìn); và chính phủ Pháp phải cam kết duy trì quân đội viễn chinh ở Đông Dương. Có nghĩa là Mỹ muốn đẩy mạnh việc quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương, không muốn đơn thương độc mã nhảy vào cuộc chiến mà phải giữ lại lực lượng quân Pháp và kéo theo quân Anh với sự yểm trợ quân sự của Mỹ. Đồng thời, Mỹ vẫn theo đuổi dự án thiết lập liên minh chống cộng gồm các nước Mỹ, Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân, Thái Lan, Philippin… (sau này trở thành Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á – SEATO). Nhng đến cuối tháng 4, nguy cơ thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ ngày càng đến gần. Trong thời gian họp của khối NATO ngày 21-22.4, ngoại trưởng ba cường quốc là Đalet (Mỹ), Biđôn (Pháp) và Iđơn (Anh) đã gặp nhau để bàn về tình hình Đông Dương và dự án “phòng thủ tập thể” ở Đông Nam Á. Biđôn kể lại trong cuốn “Từ cuộc kháng chiến này đến cuộc kháng chiến khác” (D’une résistance à l’autre”) một chi tiết quan trọng tại cuộc gặp đó là Đalet hỏi riêng ông ta: “Ông tính sao nếu chúng tôi cho các ông hai quả bom nguyên tử?”[32].
Thái độ của Anh tỏ ra dè dặt hơn. Chính phủ Luân đôn chủ trương đi tìm biện pháp hòa giải, né tránh cuộc đối đầu với Bắc Kinh và Matxcơva, đồng thời không nên quá phụ thuộc vào Mỹ. Nước Anh cũng đang đối phó với cuộc chiến tranh du kích ở Mã Lai, phải chú ý đến thái độ của các nước trong Khối Liên hiệp Anh (Commonwealth) nhất là Ấn Độ đối với vấn đề Đông Dương để tránh những phản ứng bất lợi.
Cũng trong tình hình này, nội tình nước Pháp không kém phần rối ren. Tình trạng kéo dài không chút hy vọng của cuộc viễn chinh đã làm chính giới Pháp mệt mỏi và chia rẽ. Tướng Nava đã chua chát tổng kết tình hình chính trị của nước Pháp như sau: “Chưa bao giờ các nhà cầm quyền của chúng ta (Pháp) có được thời gian làm việc liên tục. Đối địch với Hồ Chí Minh – lãnh tụ chính trị duy nhất, và tướng Giáp – tổng tư lệnh duy nhất từ đầu chiến tranh đến nay, 19 chính phủ kế tiếp của chúng ta đã đưa ra 5 cao ủy (ông Đơ Giăng là người thứ 6) và 6 tổng chỉ huy (mà tôi là ngời thứ 7). Chúng ta cha bao giờ có một đường lối chính trị nhất quán để theo đuổi”. Để bào chữa cho trách nhiệm về thất bại ở Đông Dương, ông ta than phiền: “ở Pháp, không khí tinh thần thật khủng khiếp: thờ ơ, lạnh nhạt nếu không nói là thù ghét, sự phản bội công khai phơi bày, vụ buôn lậu tiền bạc, vụ bê bối của các tướng lĩnh, v.v.”. Trong giới chính trị, người ta thường lấy vấn đề Đông Dương để tuyên truyền tranh cử hòng giành được nhiều phiếu bầu. Trong giới quân sự, cuộc viễn chinh được coi là một trở ngại cho việc tái lập lực lượng Pháp ở châu Âu, là một gánh nặng mà họ mong muốn rũ bỏ. Do vậy, “đối với các nhà chính trị và quân sự, cuộc chiến Đông Dương bây giờ chỉ còn là một việc phải thanh toán đi cho rồi”[33].
Trong khi chính phủ Pari lúng túng trước những tin tức thất trận từ Đông Dương truyền về thì phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp đòi chấm dứt “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” ngày càng sôi sục. Ngay từ năm 1949, trên đường phố Pari đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình quần chúng với những khẩu hiệu “Hòa bình ở Việt Nam”, “Điều đình với chính phủ Hồ Chí Minh”. Thương binh từ chiến trường trở về diễu hành qua các đường phố lớn với biểu ngữ “Chúng tôi là nạn nhân chiến tranh ở Việt Nam”. Nhiều bà mẹ có con tử nạn tại Đông Dương mặc tang phục đến Bộ Quốc phòng đòi “Hãy trả con cho chúng tôi”. Đặc biệt công nhân đường sắt, công nhân bến cảng Macxây, Đoongkec, Brext … không chịu bốc dỡ vũ khí và các vật liệu chiến tranh xuống tàu sang Đông Dương. Tiêu biểu là chị Raymông Điêng đã nằm ngang trên đường xe lửa để chặn những chuyến tàu chuyên chở vũ khí ra cảng; anh Hăngri Mactanh phát truyền đơn kêu gọi các bạn trong quân ngũ phản chiến. Nhiều nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp như Giăccơ Đuyclô, Lêo Phighe … dẫn đầu các cuộc biểu tình quần chúng cho dù sau đó, các ông phải vào tù. Báo Nhân đạo – cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp – ngày 27/1/1954 nhận định: “Ý muốn chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương đã trở thành một yêu sách của toàn dân”. Những tin tức về Điện Biên Phủ càng làm cho tình hình chính trị nước Pháp sôi sục. Nhiều “Ủy ban đoàn kết và hành động” đòi giải quyết cuộc chiến tranh Việt Nam bằng phương pháp hòa bình đã thu hút đông đảo trí thức, nhân sĩ và nghị sĩ các đảng phái (Cộng sản, Xã hội, Xã hội cấp tiến…) tham gia hoạt động dưới nhiều hình thức. Làn sóng chống chiến tranh ở Đông Dương đã lan từ đường phố vào tới các phiên họp của Quốc hội Pháp, tình trạng khủng hoảng của nền chính trị Pháp càng thêm sâu sắc[34].
Cho đến cuối tháng 4.1954, khi nguy cơ thất bại của viên tướng Đơ Caxtri ở Điện Biên Phủ không còn nghi ngờ gì nữa, những người lãnh đạo Pháp lại thúc giục Mỹ tiến hành yểm trợ bằng không quân, đánh phá các căn cứ hậu cần và các con đường tiếp tế của kháng chiến. Đalet cùng Rappho (tổng tham mưu trưởng liên quân) đã đi đến kết luận là không còn hy vọng cứu vãn Điện Biên Phủ nữa nhưng vẫn đề nghị không quân Hoàng gia Anh phối hợp can thiệp vào Điện Biên Phủ “nhằm làm cho người Pháp thấy rằng họ vẫn còn các đồng minh hùng mạnh”. Nhưng nước Anh đã kiên quyết từ chối với lời tuyên bố của Thủ tướng Sơcsin trong phiên họp khẩn cấp của nội các: “Cái mà họ yêu cầu chúng ta tiến hành là giúp họ vào việc lừa dối để Quốc hội (Mỹ) tán thành một hoạt động quân sự, bản thân nó không có tác dụng mà lại có thể đẩy lùi thế giới vào miệng hố chiến tranh to lớn”[35]. Và “điều quan trọng nhất là chính phủ Luân Đôn không muốn để nước Anh dính vào một cuộc chiến tranh mà họ cảm thấy không thể chiến thắng”[36].
Cuối cùng, sau 55 ngày đêm chiến đấu, chiều ngày 7.5, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc. Toàn bộ ban chỉ huy của tướng Đơ Caxtri đầu hàng.
Tại Pari, nước Pháp đón nhận tin này trong đau buồn và tang tóc. Các dòng tít lớn chạy trên các trang báo:”Điện Biên Phủ thất thủ”, “Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã tan rã”…Lệnh treo cờ rủ ban ra trên toàn cõi nước Pháp và các nước trong “Liên hiệp Pháp”. Trên diễn đàn Quốc hội, “Thủ tướng Lanien xúc động công bố sự thất thủ của tập đoàn cứ điểm. Tất cả các nghị sĩ – trừ những người cộng sản – đứng dậy kính chào “những người bảo vệ bất hạnh của tập đoàn cứ điểm”. Ngày 8.5, vào cuối buổi chiều, Bộ trưởng Quốc phòng Plêven đến nghiêng mình trước mồ chiến sĩ vô danh. Nhiều sĩ quan phần lớn mặc thường phục đã chuẩn bị một cuộc biểu tình phản đối. Khi ông Plêven chuẩn bị lên xe thì bị xô đẩy, bị chửi bới mạnh mẽ, kính của ông rơi xuống đất…. Ngày 9.5, tướng Đơ Gôn đến Khải hoàn môn vào lúc 16 giờ. Viên tướng lặng lẽ đến một mình.
Tại Geneve: “Hội nghị quốc tế về Đông Dương khai mạc. Đoàn Pháp do Ngoại trưởng Biđôn dẫn đầu mặc toàn lễ phục mầu đen”[37].
Thế là ván bài Điện Biên Phủ kết thúc, bàn cờ quốc tế xoay quanh Hội nghị Geneve bắt đầu.
3. Vấn đề Đông Dương trên bước đường tiến tới Hội nghị Giơnevơ
Ngày 8.5.1954, Hội nghị quốc tế về Đông Dương khai mạc. Nhưng ngay từ những năm đầu thập kỷ 50. trong khi diễn biến trên chiến trường ngày càng quyết liệt thì phương án đi tìm lối thoát bằng con đường đàm phán đã xuất hiện trong suy tính của các cường quốc tư bản. Bản thân kế hoạch Nava cũng hàm chứa ý tưởng tìm một giải pháp danh dự cho cuộc chiến đầy tổn thất. Nhất là khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt với bản Hiệp định ký kết ở Bàn Môn Điếm (tháng 7.1953) thi niềm hy vọng về việc thương lượng nổi lên rõ hơn. Tại Hội nghị ngoại trưởng bốn nước ở Beclin (1.1954) gồm Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp, ngoại trưởng Liên Xô Môlôtôp đưa ra đề nghị triệu tập Hội nghị Giơnevơ có cả CHND Trung Hoa tham dự để bàn về vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Có thể nói đây là thời điểm chín muồi cho việc công khai đề xuất vấn đề đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh Đông Dương. Về phía các nước đế quốc, tình hình đã rõ khi quân viễn chinh Pháp ngày càng sa lầy, không thể giành một chiến thắng quyết định; chính sách của Mỹ là can thiệp bằng viện trợ mà không muốn đổ quân để tránh lặp lại một Triều Tiên thứ hai; thái độ của Anh là dè chừng, lo ngại ảnh hưởng cuộc chiến sẽ làm rung chuyển các thuộc địa của họ.
Về phía các nước XHCN, cũng có những vấn đề đặt ra đối với Liên Xô và Trung Quốc. Tính đến đầu năm 1954, sau 9 năm khôi phục đất nước, Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, xã hội, khoa học, kỹ thuật. Việc Liên Xô thử thành công bom nguyên tử (1949) và bom khinh khí (1953) đã xóa đi thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ và nâng cao vị thế của nhà nước XHCN trên trường quốc tế. Nhưng việc vị nguyên thủ của Liên Xô – J. Xtalin qua đời ngày 5.3.1953 đã để lại nhiều hậu quả: một là xuất hiện tình hình không ổn định trong bộ máy lãnh đạo tối cao với sự thay đổi liên tục những người cầm quyền, kể cả vụ sát hại không xét xử một nhân vật có thế lực là Bêria ; hai là sự thay đổi về đường lối đối ngoại theo xu hớng hòa dịu với Mỹ. Do vậy, Liên Xô rất cần sự yên ổn trên bình diện quốc tế để rảnh tay giải quyết những vấn đề nội bộ và dồn sức vào hướng trọng tâm của họ là châu Âu, đặc biệt là vấn đề Beclin và nước Đức. Còn Trung Quốc, chỉ một năm sau khi thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân, quân Giải phóng đã phải tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên với nhiều tổn thất và hy sinh. Các nước tư bản lo ngại rằng sau Hiệp định Bàn Môn Điếm, Trung Quốc có thể dồn sức vào chiến trường Đông Dương. Nhưng tình hình bên trong và bên ngoài khi đó đặt ra nhiều thách thức đối với chính quyền Bắc Kinh mới thành lập. Hậu quả của hàng chục năm kháng chiến chống Nhật và nội chiến làm đất nước suy kiệt, việc nuôi dưỡng chừng 500 triệu dân không phải là điều dễ dàng. Tình trạng tàn quân Quốc dân đảng còn đang lẩn quất khắp nơi ở đại lục và việc Mỹ giúp đỡ chính quyền họ Tưởng mới chạy ra Đài Loan luôn là mối đe dọa thường trực đối với chủ quyền và an ninh đất nước. Cho nên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải quan tâm đến việc tạo nên một môi trường quốc tế thuận lợi, hết sức tránh sự can thiệp của Mỹ vào các quốc gia láng giềng để có thể tập trung sức lực cho công cuộc kiến thiết quốc gia. Và lại, đối với Trung Quốc, việc tạm dừng cuộc chiến ở Đông Dương chính là giảm bớt nguy cơ lan rộng chiến tranh giáp vùng biên giới phía nam, đồng thời tạo nên một khu đệm an toàn cho chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ: “Mục tiêu chính của họ là khuyến khích hòa bình trong khu vực để cho họ có thể tập trung chú ý vào sự phát triển kinh tế trong nước và trên hết để tránh một sự can thiệp có thể có của Mỹ vào chiến tranh Đông Dương”[38]. Cho nên, trong khi viện trợ tích cực cho cuộc kháng chiến của Việt Nam, nhất là trong chiến dịch Điện Biên Phủ, các nước lớn XHCN cũng muốn tìm kiếm biện pháp hòa giải.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, Đảng và Chính phủ Việt Nam đơng nhiên phải tìm ra đối sách thích hợp. Trong bài trả lời phỏng vấn của báo Expressen (Thụy Điển) ngày 26.11.1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “ nếu chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó”. Và “cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nướcViệt Nam.”[39]. Đây vốn là lập trường trước sau như một của Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần tuyên bố ngay từ những năm đầu của chính quyền nhân dân. Nhưng với tham vọng tái chiếm Đông Dương, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc gây hấn ở Nam Bộ từ 23.9.1945 rồi mở rộng chiến tranh ra cả nước từ 19.12.1946. Phải nếm trải những đòn thất bại cay đắng trong chiến tranh, những người cầm quyền Pari mới nhận ra con đường mà đáng lý họ phải chọn từ 8-9 năm trước. Cho nên lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở ra một cơ hội để đi đến chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Đương nhiên, cả hai phía đều muốn đến hội nghị với một “hành trang nặng ký” vì ai cũng hiểu ràng người ta không thể đạt được trên bàn hội nghị những cái mà không giành được trên chiến trường. Và chiến cuộc Điện Biên Phủ kết thúc đã đem lại đáp số cho bài toán hiểm hóc này.
4. Hiệp định Giơneve – đáp số của bài toán thoả hiệp quốc tế
Cuộc đàm phán Giơnevơ năm 1954 không chỉ diễn ra giữa 2 đối thủ trực tiếp là Việt Nam và Pháp như hồi năm 1946 mà có sự tham gia của các nước lớn. Trên bình diện ngoại giao, vấn đề Đông Dương đã được quốc tế hóa.
Với yếu tố quốc tế hóa như vậy, dấu ấn của các cường quốc trong tiến trình và kết quả hội nghị là điều không tránh khỏi. Lần này, VNDCCH – một bên chủ yếu trong cuộc chiến tranh được mời đến dự Hội nghị Giơnevơ để bàn về chính công việc của mình chứ không phải là tham gia một cách chủ động trong cuộc đàm phán song phương với đối thủ như hồi năm 1946. Tham gia Hội nghị có 9 đoàn đại biểu gồm 5 nước lớn (Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc), VNDCCH và đại diện 3 chính phủ “Quốc gia liên kết” của Pháp ở Đông Dương. Đoàn VNDCCH đưa ra đề nghị phải có sự tham dự của các lực lượng kháng chiến ở Lào và Campuchia nhưng không được xét đến trong khi 3 chính phủ bù nhìn do Pháp dựng lên lại có mặt. Với phép tính đơn giản về thành phần hội nghị, sẽ thấy có sự chênh lệch theo tỷ lệ 3 trên 6 trong tương quan giữa hai phía. Đó là điều bất lợi đối với ta song cũng không thể làm thay đổi hoàn toàn tương quan lực lượng đã được thử thách trên chiến trường.
Đoàn đại biểu VNDCCH do Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn đến hội nghị với tư thế của người chiến thắng. Có thể nói đây là lần thứ tư diễn ra cuộc gặp chính thức giữa Pháp và Việt Nam trên bàn đàm phán kể từ khi nước Việt Nam độc lập ra đời.
Nhìn lại quá trình ấy thì lần gặp đầu tiên được tiến hành tại Hà Nội vào đầu năm 1946 để đàm phán tiến tới Hiệp định sơ bộ ngày 6.3.1946.
Cũng trong năm 1946, sau cuộc gặp Hồ Chí Minh – Đacgiăngliơ tại vịnh Hà Long, đã có 2 cuộc đàm phán tiếp theo của đoàn đại biểu VNDCCH với đoàn đại biểu Pháp tại Đà Lạt và tại Phôngtennơblô. Trong cả 2 cuộc gặp này, lập trường của Việt Nam là rõ ràng và nhất quán, đòi sự công nhận độc lập, chủ quyền và thống nhất. Thái độ ngoan cố của chính phủ Pháp đã dẫn tới sự tan vỡ của cả 2 hội nghị và cuối cùng, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ trong cả nước.
Phải đến năm 1965, trong thư gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng thống Pháp Đơ Gôn mới tỏ ý lấy làm tiếc vì hai dân tộc chưa hiểu biết lẫn nhau và năm 1993, trong chuyến thăm Việt Nam, Tổng thống Mittơrăng thừa nhận: “Tôi nhớ chuyến thăm nước Pháp của Hồ Chí Minh để tìm người đối thoại trước Hội nghị Phôngtenơblô với mong muốn thương lượng về hướng độc lập nhưng không tìm được”[40].
Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương diễn ra trong một bối cảnh khác trước. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã giành được nhiều chiến thắng vang dội mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp được Mỹ viện trợ tới 73% chi phí chiến tranh vẫn không thoát khỏi sự bế tắc dẫn tới thất bại. Trong thời gian này, chính phủ Pari đã thay đổi tới 20 nội các, cử 13 chính khách và danh tướng sang Đông Dương làm cao ủy và tổng chỉ huy chiến trường[41] (41) nhưng cũng không cứu vãn nổi tình hình. Rõ ràng, tương quan lực lượng giữa hai bên đã thay đổi so với 9 năm về trước.
Trong bối cảnh đó, những thành tựu mà ta đã giành được trong các văn kiện của Hiệp định Giơnevơ đã vượt xa nội dung của Hiệp định sơ bộ mùng 6 tháng 3. Nếu như năm 1946, đại biểu Pháp cố tránh né từ “độc lập” mà chỉ công nhận Việt Nam là một “quốc gia tự do” với nội hàm khá mơ hồ thì sau 9 năm chiến tranh, trong bản Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ đã viết: “Hội nghị tuyên bố đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị, thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” và “Hội nghị chứng nhận tuyên bố của chính phủ Pháp sẽ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam”[42]. Cũng năm 1946, ta chấp nhận cho 15 ngàn quân Pháp vào miền bắc vĩ tuyến 16 thì Hiệp định Giơnevơ quy định quân Pháp phải tập kết ở phía nam vĩ tuyến 17 để sau đó rút khỏi Việt Nam: “Hội nghị chứng nhận tuyên bố của Chính phủ Pháp nói rằng sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi Cao Miên, Lào và Việt Nam …”[43].
Như vậy, chính phủ Pháp đã chính thức tuyên bố với sự chứng nhận quốc tế về 2 điều cơ bản là công nhận độc lập của Việt Nam và sẽ rút quân khỏi Việt Nam, điều mà trong Hiệp định sơ bộ 8 năm về trước ta phải nhân nhượng. Với những kết quả đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”[44]. Trong Lời kêu gọi của Ban Châp hành Trung ơng Đảng có viết: “Đạt được Hiệp định nói trên là một thắng lợi vĩ đại của nhân dân và quân đội ta đoàn kết, nhất trí, anh dũng chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và của Đảng[45].
Đối với Việt Nam, thắng lợi của Hội nghị Giơnevơ là điều đã được khẳng định và cần phải khẳng định. Tuy vậy, cũng còn có những điều chưa thực sự đáp ứng yều cầu của ta, chủ yếu tập trung vào 2 vấn đề: vấn đề giới tuyến quân sự tạm thời là vĩ tuyến 13 hay 16 nhưng cuối cùng là 17; vấn đề thời hạn tiến hành tổng tuyển cử là sau 6 tháng hay 12 tháng nhưng cuối cùng là 2 năm. Đó là sự thực lịch sử mà ai cũng thấy, song nhìn nhận điều này như thế nào thì lại có những ý kiến khác nhau. Nhất là sau khi chúng ta thành công trong tiến trình Hội nghị Pari và đạt được kết quả trong những điều khoản của Hiệp định Pari 1973 thì những băn khoăn về Hiệp định Giơnevơ lại được nhắc đến.
Trả lời câu hỏi này, trước hết nên nhắc lại “luật chơi” trên bàn đàm phán quốc tế. Trừ trường hợp đầu hàng không điều kiện mà bên thua phải chấp nhận mọi đòi hỏi của bên thắng còn trong các cuộc thương lượng, mỗi bên đều cố giành phần lớn nhất mà mình có thể, đồng thời phải nhân nhượng những điều mình chưa thể. Cho nên ngay sau khi hiệp ước được ký kết thì mỗi bên đều có điều thỏa mãn và cũng có những điều chưa thỏa mãn, đó là lẽ thường tình. Cuộc đấu tranh lại tiếp tục với hy vọng của mỗi bên sẽ tiến lên một bước cao hơn. Hơn thế nữa, khi cuộc đàm phán được quốc tế hóa với nhiều bên tham gia thì trong khi tìm giải pháp cho cái chung, mỗi bên đều tính đến phần thành quả cho riêng mình. Nhà nghiên cứu lịch sử ngoại giao Khắc Huỳnh viết rất đúng rằng: ‘Cho nên thực chất Hiệp định Giơnevơ là một thỏa hiệp quốc tế được các nước lớn sắp đặt, trong đó mỗi bên tham gia đều được một phần của chiếc bánh”[46]. Phần bánh đó to hay nhỏ tùy thuộc vào thực lực của mỗi bên và sự khôn khéo của mỗi đoàn đại biểu.
Trở lại bối cảnh lịch sử nửa đầu thập kỷ 50. Cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện ngày càng phát triển mạnh mẽ, được sự đoàn kết nhất trí của toàn thể nhân dân và sự đồng tình ủng hộ của các nước XHCN, của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, kể cả nhân dân Pháp. Quân dân ta đã thắng lớn trong nhiều chiến dịch, đặc biệt vĩ đại là chiến dịch Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Nhìn lại, có ý kiến cho rằng trên đà thắng lợi như vậy, nếu ta cứ đánh tiếp đến cùng, không ký Hiệp định thì sẽ không phải đi một chặng đường dài gian khổ tiếp sau để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đó là một nguyện vọng chính đáng nhưng mang tính chủ quan, không tính đến tình hình khách quan của ta, của phe ta và của đối phương.
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 diễn ra trước khi ký Hiệp định Giơnevơ một tuần lễ dã nhận định tình hình như sau: “Những thắng lợi ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chất chiến lược”[47]. Nên lưu ý đầy đủ đến đoạn “chưa phải biến chuyển căn bản có tính chiến lược”. Đó là một nhận định sáng suốt và thực tế, đánh giá đúng mức tương quan lực lượng để có thể tìm điểm dừng cần thiết. Điều này không chỉ thu hẹp trong phạm vi quân sự mà ngay trong lĩnh vực ngoại giao, ta cũng chưa thể đàm phán trực tiếp tay đôi với Pháp khi mà cuộc chiến tranh Đông Dương đã mang tính chất quốc tế hóa.
Nhất là những biến chuyển trong tình hình quốc tế khi các nước lớn có xu hướng tìm giải pháp hòa hoãn thì các nước nhỏ cũng khó mà đi ngược lại xu hướng đó. Về phe ta, Trung Quốc, Liên Xô tích cực ủng hộ cuộc kháng chiến chống Pháp, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch. Song tình hình các nước đó đòi hỏi làm dịu không khí căng thẳng ở vùng Đông Á. Điều Liên Xô quan tâm là vấn đề Tây Âu mà điểm nóng thường trực là Beclin và nước Đức cùng mối đe dọa chủ yếu đến từ Mỹ và NATO. Nhất là sau khi Stalin từ trần thì xu hướng tìm kiếm sự hòa hoãn trong đường lối quốc tế của Liên Xô ngày càng rõ nét và sự không ổn định của hàng ngũ lãnh đạo cấp cao trong Đảng và Nhà nước cũng đòi hỏi một sự dàn xếp bên ngoài để giải quyết những vấn đề bên trong. Còn nước CHND Trung Hoa trong 5 năm sau ngày thành lập vẫn chưa thực sự ra khỏi tình hình thời chiến: 1) phải tiếp tục truy quét tàn quân Quốc dân đảng và luôn đề phòng sự phản công từ Đài Loan có Mỹ giúp sức; 2) tham gia trực tiếp cuộc chiến tranh Triều Tiên chống Mỹ; 3) viện trợ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống Pháp. Do vậy, Trung Quốc cần tạo dựng một môi trường hòa bình trong khu vực để có điều kiện phục hồi và xây dựng đất nước sau nhiều năm chiến tranh.
Về phía đối phương, tình trạng sa lầy trên chiến trường buộc chính phủ Pháp phải tìm cách rút lui trong danh dự. Sự tính toán đó được Anh ủng hộ vì không muốn ảnh hưởng cách mạng lan rộng sang các thuộc địa của mình. Mỹ vừa muốn Pháp đẩy mạnh chiến tranh để giành ưu thế, vừa muốn thay thế Pháp trên địa bàn chiến lược này nhưng lại chưa thực sẵn sàng vì lo ngại xảy ra một Triều Tiên thứ hai. Trong bối cảnh như vậy, cuộc đình chiến ở Triều Tiên là bước đi đầu tiên của sự hòa hoãn giữa các nước lớn và được coi như một khuôn mẫu để giải quyết vấn đề chiến tranh Đông Dương.
Từ những điểm trên, có thể thấy rằng Hiệp định Giơnevơ là sản phẩm của một quá trình vừa đấu tranh, vừa nhân nhượng giữa các bên tham gia cuộc đàm phán. Nó phản ánh tương quan lực lượng trên chiến trường, đồng thời chịu tác động chung của tình hình thế giới. Đoàn đại biểu mỗi nước đều cố giành cho mình được phần có lợi nhất song vẫn không thể vượt ra khỏi khả năng thực tế và không thể không cân nhắc đến ý đồ của các đồng minh cũng như của đối phương. Về nguyên tắc thì các đoàn đại biểu đều có quyền bình đẳng song cũng không thể phủ nhận một thực tế về mối quan hệ giữa nước lớn và nước nhỏ trong lịch sử quan hệ quốc tế.
Mặc dầu còn có mong muốn đạt được đôi điều có lợi hơn nhưng nhìn từ các khía cạnh, có thể thấy rằng Hiệp định Giơnevơ là một thắng lợi về chính trị và ngoại giao tương ứng với những thắng lợi quân sự. Đồng thời, Hội nghị cũng để lại nhiều kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao mà sau này được vận dụng thành công trong cuộc hòa đàm ở Pari. Cho nên, nhìn suốt quá trình đấu tranh từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Hiệp định Giơnevơ chính là một thành công lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp, đánh dấu một nấc thang đi lên trong tiến trình giải phóng dân tộc.
III. BỐI CẢNH QUỐC TẾ ĐẦU NHỮNG NĂM 70 DẪN TỚI HIỆP ĐỊNH PARI VỀ VIỆT NAM
1. Hội nghị Pari – cuộc đàm phán trực tiếp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Nếu như trước Hội nghị Giơnevơ, Hoa Kỳ chỉ tham gia chiến tranh Đông Dương thông qua viện trợ quân sự và tài chính cho Pháp, đóng vai trò can thiệp vào cuộc chiến thì ngay sau khi Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ đã trở thành kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất của cách mạng Việt Nam. Dưới danh nghĩa đồng minh của chính quyền Sài Gòn, Mỹ đã từng bước đưa cố vấn quân sự rồi điều động một đội quân lên tới nửa triệu người cùng các phương tiện chiến tranh hiện đại vào miền Nam, biến nơi đây thành chiến trường vô cùng ác liệt. Mỹ đồng thời từng bước leo thang ra miền Bắc tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam diễn ra trên phạm vi cả nước với mục tiêu hàng đầu bảo vệ nền độc lập và thống nhất đất nước.
Về tính chất, đây vẫn là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam đấu tranh vì độc lập và thống nhất Tổ quốc chống lại đội quân xâm lược đến từ Hoa Kỳ. Đây là giai đoạn tiếp tục của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhằm đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, bảo vệ nền độc lập dân tộc và hoàn thành thống nhất đất nước. Làm rõ điều này chính là bác bỏ luận điệu của những người cầm quyền ở Oasinhtơn cho rằng đây là cuộc nội chiến giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam mà nước Mỹ là một đồng minh thực hiện lời cam kết với chính quyền Sài Gòn để giúp họ duy trì quyền lực trước làn sóng đấu tranh của nhân dân, đồng thời “bảo vệ trận tuyến chống cộng sản ở ĐNA”. Đi ngược lại Hiệp định Giơnevơ coi vĩ tuyến 17 là ranh giới quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới quốc gia, đế quốc Mỹ đưa quân vào miền Nam dưới chiêu bài “chống sự xâm lược của miền Bắc”. Đó chỉ là luận điệu giả dối nhằm che đậy cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác đối với nhân dân Việt Nam.
Hội nghị Pari được nhóm họp ngày 13.5.1968, ban đầu là giữa 2 đoàn đại biểu VNDCCH và Hoa Kỳ. Bị choáng váng bởi cuộc Tổng tiến công mùa Xuân Mậu Thân của quân dân ta, Tổng thống Mỹ Giônxơn phải tuyên bố “xuống thang” chiến tranh để đi vào đàm phán. Đây là giai đoạn khởi đầu của cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa 2 bên tham chiến để thoả thuận về thành phần Hội nghị chính thức. Kết quả là tham gia Hội nghị có 4 đoàn đại biểu: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH), Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam sau đổi thành Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (CPCMLT), Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà (tức chính quyền Sài Gòn). Chúng ta gọi đây là “Hội nghị bốn bên”, còn Mỹ gọi là “Hội nghị hai phía”. Vấn đề mấu chốt của sự khác nhau là nhằm nâng cao vị thế hoặc phủ nhận sự có mặt của CPCMLT miền Nam Việt Nam. Và điều đó được thể hiện trong cuộc tranh luận về hình dáng chiếc bàn hội nghị: hình vuông hoặc hình chữ nhật, rồi sau 14 phiên đàm phán đi tới thoả thuận là bàn hình tròn đường kính 8m, có 2 bàn thư ký ở hai đầu.
Việc tiến hành Hội nghị Pari rõ ràng là một bước tiến quan trọng trong ngoại giao Việt Nam. Nhìn lại tháng 3.1946, cuộc thương lượng diễn ra tại Hà Nội giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Xanhtơni khi đó là Uỷ viên Cộng hoà, đại diện chính phủ Pháp. Do những điều kiện cấp bách của tình hình năm 1946, cuộc đàm phán đã được tiến hành không tương xứng về cấp bậc ngoại giao theo thông lệ quốc tế. Đến năm 1954, vấn đề đình chiến ở Đông Dương được bàn thảo tại hội nghị quốc tế Giơnevơ có sự tham dự của ngoại trưởng 5 cường quốc, trong đó, Liên Xô và Anh Quốc giữ cương vị Chủ tịch hội nghị. Đoàn đại biểu VNDCCH được mời đến dự mà không phải là người chủ động tổ chức Hội nghị này.
Đến lần này tại Paris đã diễn ra cuộc gặp chính thức giữa đại biểu của VNDCCH và CPCMLT với đại biểu của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn, tức là cuộc gặp trực tiếp giữa các bên tham chiến, không có một nước ngoài nào tham gia. Thực ra, ngay năm 1953 khi trả lời tờ báo Thuy Điển Expressen về khả năng đàm phán chấm dứt chiến tranh với Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề: “Nếu có nước trung lập nào muốn cố gắng để xúc tiến việc chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam thì được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ VNDCCH với Chính phủ Pháp”[48]. Nhưng trong bối cảnh 1953-1954, tình huống đó đã không xảy ra, cuộc thương lượng Việt Pháp đã không được thực hiện mà phải thông qua một cuộc hội nghị quốc tế với vai trò không nhỏ của các nước lớn. Sự so sánh đó cho thấy đến Hội nghị Pari, vị thế của lực lượng cách mạng Việt Nam được nâng lên tầm mới, cuộc đàm phán được tiến hành trực tiếp giữa ta và Mỹ, và bản Hiệp định cũng được ký kết giữa 4 đoàn đại biểu, không có sự tham gia của nước ngoài nào khác. Sự xác nhận quốc tế chỉ thể hiện trong bản Định ước được ký một tháng sau đó với sự có mặt của đại diện 12 chính phủ trên thế giới và Tổng th ký Liên Hiệp Quốc.
Về mặt thời gian, Hội nghị Paris là hội nghị dài ngày nhất trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Nếu như bản Hiệp định sơ bộ được ký sau vài tuần lễ đàm phán, Hội nghị Giơnevơ trải qua hơn một trăm ngày thì Hội nghị Pari kéo dài hơn bốn năm bốn tháng với 174 phiên họp công khai và 24 đợt tiếp xúc bí mật ở cấp cao[49]. Tiến trình của Hội nghị Pari diễn ra đồng thời với những chuyển biến trên chiến trường mà mỗi bên đều cố giành những chiến thắng có tính quyết định. Chính trong chuỗi ngày đó, tình hình quốc tế diễn biến khá phức tạp mà dưới đây chỉ đề cập đến những biến động có ảnh hưởng đến tiến trình đàm phán và ký kết ở Pari.
2. Những thách thức và cơ hội trên bàn cờ quốc tế
Với chiến thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, thế giới biết đến Việt Nam như một dân tộc anh hùng đã chiến thắng chủ nghĩa thực dân Pháp, chọc thủng hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Hoạt động ngoại giao của nước ta được mở rộng trong phạm vi các nước XHCN và nhiều nước Á, Phi, Mỹ latinh, có tiếng nói tại Hội nghị Băngđung 1955 và trong nhiều tổ chức quốc tế. Vị thế của Việt Nam trên thế giới được nâng lên rõ rệt.
Nhưng bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, nước ta đứng trước nhiều thách thức vô cùng to lớn từ phía đối thủ cũng như từ phía đồng minh.
Trước hết, đối thủ của cuộc đấu tranh là đế quốc Mỹ, một cường quốc hàng đầu thế giới, giàu có về kinh tế, hùng mạnh về quân sự, chiếm ưu thế về ngoại giao, giữ địa vị kẻ lãnh đạo thế giới TBCN. Do vậy, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn ra trong tình thế không cân sức ở mức độ nghiêm trọng gấp nhiều lần so với thời chống Pháp. Ngay trên chiến trường miền Nam Việt Nam, số quân Mỹ tham chiến lên tới đỉnh cao nhất là hơn nửa triệu người, cộng thêm quân số “các lực lượng Đồng minh” như Nam Hàn, Thái Lan, Philippin, Ôxtrâylia, Niu Dilân…cùng với lực lượng quân đội Sài Gòn. Vũ khí, đạn dược và các phương tiện chiến tranh đều thuộc loại hiện đại nhất thế giới, nhiều thứ lần đầu tiên được thí nghiệm trên chiến trường này. Sự chênh lệch đó không khỏi tạo nên mối lo ngại cho Việt Nam trong dư luận quốc tế, kể cả trong những bạn bè thiện chí.
Trong thế giới Trật tự hai cực, chiến trường Việt Nam trở thành điểm nóng đối đầu giữa hai hệ thống chính trị, nơi đọ sức giữa hai chế độ xã hội. Do vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam mang ý nghĩa quốc tế, làm nổi rõ sự phân cực trên thế giới và thu hút được sự hỗ trợ của các nước XHCN. Song sự đồng tình ủng hộ đó không thực trọn vẹn vì mối mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa hai nước XHCN lớn là Liên Xô và Trung Quốc, vì tình hình không ổn định trong mỗi nước đó. Từ nửa sau những năm 50, sự bất đồng Trung Xô bộc lộ, chuyển dần từ đấu tranh về quan điểm đến sự gián đoạn về chính trị và sự xung đột vũ trang ở biên giới. Liên Xô từ sau khi Xtalin qua đời bị rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối phát triển chi phối chính sách đối nội và đối ngoại, đến năm 1964 mời dần dần đi vào ổn định. Trung Quốc sau mười năm khôi phục của nhà nước Cộng hoà Nhân dân cũng đi vào ngõ cụt với thất bại của chiến lược “Ba ngọn cờ hồng”, dẫn đến cuộc tranh giành quyền lực cấp cao dưới chiêu bài “Đại cách mạng văn hoá vô sản”, làm rối loạn đất nước, kéo dài khoảng 15 năm, kết thúc vào giữa những năm 70. Tình hình đó không khỏi tác động tiêu cực đến Việt Nam vì trong khi giải quyết những vấn đề nội bộ, các nước đó không thể hoàn toàn tập trung vào việc viện trợ cho Việt Nam. Hơn thế nữa, mỗi nước, thậm chí mỗi phe phái trong từng nước đều muốn lái đường lối cách mạng Việt Nam đi theo quan điểm của họ, vì lợi ích của họ. Chủ trương đoàn kết quốc tế của Đảng ta thể hiện trong Nghị quyết Trung ương lần 9 (1963) đã giữ vững quan hệ đoàn kết với Liên Xô và Trung Quốc, tránh khỏi nguy cơ bị lôi kéo theo phái này hay phái khác, giữ vững mục tiêu cách mạng hàng đầu khi đó là “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, củng cố miền Bắc, giải phóng miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước”. Nhờ vậy, dù xảy ra sự bất đồng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, Việt Nam vẫn luôn nhận được sự đồng tình ủng hộ và sự viện trợ vật chất của Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước XHCN.
Nhng dẫu sao, những thách thức vẫn còn đó và đã lên đến mức độ gay gắt tột đỉnh trong suốt năm 1972.
3. Năm 1972: chiến trường nóng bỏng, Mỹ lợi dụng con bài Trung Xô
Đến năm 1972, cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kéo dài gần 2 thập niên, cuộc Hoà đàm Pari bước sang năm thứ tư. Đó cũng là năm nước Mỹ tiến hành bầu cử tổng thống, Nichxơn muốn ở lại Nhà Trắng thêm một nhiệm kỳ.
Đánh giá tình hình chiến trường, Bộ Chính trị “hạ quyết tâm kết hợp cả ba mặt đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao, làm thất bại về cơ bản chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” của địch, vừa tấn công và nổi dậy tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận lực lượng của địch, giải phóng phần lớn nông thôn, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy ở các đô thị để giành thắng lợi quyết định trong năm 1972. (…) Ta phải chuẩn bị đề phòng cả trường hợp vấn đề Việt Nam chưa kết thúc được trên bàn đàm phán và chiến tranh có thể còn kéo dài”[50]. Trên tinh thần đó, ngày 31.3.1972, quân ta đồng loạt nổ súng tấn công các tuyến phòng thủ Đường 9 – Quảng Trị, Kon Tum, miền Đông Nam Bộ, Khu V, đồng bằng sông Cửu Long….Đặc biệt tại mặt trận Trị Thiên, ta đã phá vỡ phòng tuyến của địch dọc phía nam vĩ tuyến 17, đánh thẳng vào Thành cổ Quảng Trị, nơi diễn ra cuộc giao tranh quyết liệt trong suốt 81 ngày đêm. Kết quả là sau ba tháng, cuộc tiến công chiến lược năm 1972 đã giải phóng gần hết tỉnh Quảng Trị, Kon Tum, phía bắc tỉnh Bình Định, hoàn chỉnh vùng giải phóng Đông Nam Bộ thuộc Tây Ninh, Bình Long, Phước Long, mở ra vùng giải phóng mới ở đồng bằng Khu V, đồng bằng sông Cửu Long[51]. Nichxơn phản ứng bằng cách ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc ồ ạt và thả bom mìn bao vây các sông ngòi, hải cảng nước ta để ngăn chặn nguồn viện trợ từ nước ngoài. Sau này, Nichxơn kể lại: “Chúng tôi quyết định thi hành đối với Bắc Việt Nam toàn bộ áp lực quân sự và đối với những kẻ cung cấp vũ khí cho họ là Liên Xô toàn bộ áp lực ngoại giao mạnh nhất có thể có”[52].
Trong những tháng ngày chiến tranh nóng bỏng ở Việt Nam, một xu hướng thoả hiệp đã xuất hiện trên chính trường quốc tế, đặc biệt là hai cuộc tiếp xúc Mỹ – Trung (tháng 2.1972) và Mỹ – Xô (tháng 5.1972). Trong quan hệ tam giác Xô – Mỹ – Trung, cả hai nước XHCN đều muốn lợi dụng Mỹ để đối phó với kẻ đồng minh cũ của mình, khi đó đã coi nhau như kẻ thù. Về phía Hoa Kỳ, ngoài những tính toán có tầm chiến lược toàn cầu, Nichxơn coi đây là cơ hội để giải quyết vấn đề Việt Nam. Ông ta viết: “Tôi cho rằng việc nối lại quan hệ với Trung Quốc và hoà dịu với Liên Xô là những phương pháp khả quan để đẩy nhanh việc chấm dứt chiến tranh. Nếu Oasinhtơn tiếp xúc với Matxcơva và Bắc Kinh thì ít nhất cũng làm cho Hà Nội thiếu tự tin. Còn trong trường hợp tốt nhất, nếu hai cường quốc cộng sản thấy cần quan tâm nhiều tới mối quan hệ với Mỹ, thì Hà Nội sẽ buộc phải thương lượng một giải pháp mà chúng ta có thể chấp nhận được”[53]. Còn H. Kitxingơ thì viết thẳng thừng: “Chúng ta đã tập hợp những lực lượng dày đặc để làm cho đối phương yếu đi nếu Hà Nội từ chối đàm phán. Chúng ta đang chia rẽ Hà Nội với các nước đồng minh của họ”[54]. Do vậy, trong chuyến thăm của Nixơn đến Trung Quốc, cái giá mặc cả là Hoa Kỳ sẽ rời bỏ quan hệ nhà nước với chính quyền Đài Loan để chính thức công nhận Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa; đổi lại Hoa Kỳ đòi hỏi Trung Quốc phải tác động đến lập trường của Việt Nam trên bàn đàm phán Pari. Yêu cầu của Hoa Kỳ đối với Liên Xô cũng tương tự như vậy, đổi lại là việc ký Hiệp ước ABM và sẵn sàng tiến tới Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Xô, điều mà giới lãnh đạo Matxcơva mong đợi. Vì thế, sau những chuyến đi của Tổng thống Mỹ, các nhà lãnh đạo hai nước này lần lượt đến Hà Nội để “chia sẻ quan điểm” với Việt Nam.
Đứng trước những động thái đó, chúng ta vẫn tranh thủ sự viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, song từ kinh nghiệm của Hội nghị Giơnevơ năm 1954, Việt Nam luôn giữ vững thế chủ động trong đàm phán với đối phương. Về điều này, Đại sứ Liên Xô tại Mỹ Đôbrưnhin than thở: “các nhà lãnh đạo Hà Nội tuy là đồng minh về tư tưởng nhưng không chịu cho chúng ta biết kế hoạch hiện nay và sau này đối với ĐNA và Mỹ như thế nào, mặc dầu chúng ta vẫn dành cho họ sự giúp đỡ to lớn về kinh tế và quân sự. Kết quả là họ đã nhiều lần đưa chúng ta vào tình thế khó khăn bằng việc tiến hành hết hành động bất ngờ này đến hành động bất ngờ khác mà không hề tính tới việc là điều đó sẽ ảnh hưởng tới quan hệ giữa chúng ta và Oasinhtơn như thế nào. Về các cuộc đàm phán giữa họ với Mỹ, chúng ta chỉ nắm được qua người Mỹ nhiều hơn là qua họ. Tất cả những điều đó đã làm cho Matxcơva ngày càng thấy ấm ức trong lòng”[55]. Cuối cùng, với lòng mong muốn đón tiếp Tổng thống Mỹ, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô đã quyết định: “Không thể vì Việt Nam mà làm hỏng quan hệ của chúng ta được”[56]. Và sự việc đã diễn ra đúng như điều mà Nixon kể lại trong Hồi ký về chuyến đi của ông ta sang Liên Xô[57]. Kitxingơ tỏ ra nhạy cảm khi nhận xét rằng: “Người Nga không huỷ bỏ cuộc họp cấp cao trong khi B 52 ma bom xuống toàn bộ Việt Nam, gây thiệt hại cho sinh mạng và tàu bè của Liên Xô (…). Rõ ràng là các quan hệ Xô-Mỹ đã đến một cao trào vượt xa cam kết của Matxcơva đối với Hà Nội”. Cũng từ đó, Nichxơn “ngày càng tin rằng chiến lược cô lập VNDCCH đối với các đồng minh của họ đang thành công tốt đẹp”[58].
Không có một dòng chữ nào về vấn đề Việt Nam được ghi trong các văn kiện chính thức của hai chuyến thăm kể trên, song những thoả thuận về các vấn đề cho thấy rõ xu hướng xích lại gần Mỹ của hai nước lớn XHCN và đương nhiên đó là điều phải tính đến của các nhà lãnh đạo Việt Nam về đối sách trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán.
4. Thoả thuận và bội ước tháng Mười
Cho đến giữa năm 1972, cả hai phía Việt Nam và Hoa Kỳ đều chịu nhiều sức ép ở trong nước và thế giới.
Đối với Việt Nam, cuộc tiến công mùa Xuân 1972 tuy giành được nhiều thắng lợi to lớn nhưng mức độ quyết liệt trên chiến trường miền Nam cũng như việc Mỹ trở lại đánh phá tàn bạo miền Bắc cho thấy tình thế giằng co còn có thể kéo dài và cả hai phía đều quyết tâm giành thắng lợi quyết định về quân sự để hậu thuẫn cho thắng lợi về ngoại giao. Sự bắt tay giữa các nhà lãnh đạo Trung Quốc với Mỹ, Liên Xô với Mỹ dẫu sao cũng gây ra một tình thế bất lợi về chính trị đối với Việt Nam. Và sự thoả hiệp với Mỹ sẽ được trả giá nh thế nào trong việc các nước XHCN sẽ giảm dần viện trợ vật chất[59], đó chính là điều phải lường trước nếu như cuộc chiến còn kéo dài. Đồng thời, vấn đề hoà bình ở Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trong cuộc vận động tranh cử tổng thống ở Mỹ nên “ta có thể tranh thủ thời cơ bầu cử để ép Mỹ”, “ta cần tranh thủ khả năng chấm dứt chiến tranh trước ngày bầu cử ở Mỹ”[60].
Cùng thời gian đó, về phía Mỹ, cuộc bầu cử Tổng thống càng đến gần càng làm nóng lên bầu không khí chính trị trong nước mà vấn đề Việt Nam là một trong những tâm điểm của cuộc chạy đua vào Nhà Trắng giữa Nichxơn (Đảng Cộng hoà) và Mac Gôvơn (Đảng Dân chủ) – người chủ trương chấm dứt không điều kiện chiến tranh ở Việt Nam và chấm dứt viện trợ quân sự cho chính quyền Sài Gòn.
Tính đến khi đó, nước Mỹ đã theo đuổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam gần 2 thập niên với nửa triệu lính Mỹ, chi phí hàng tỷ đô la mà không giành được thắng lợi. Uy tín quốc tế của Hoa Kỳ bị giảm sút, sự chia rẽ nội bộ càng thêm sâu săc.Thực hiện học thuyết Việt Nam hoá chiến tranh, Nichxơn đã đưa về nước phần đông số lính Mỹ, đến đầu tháng 12/1972 còn lại 12 ngàn quân ở miền Nam Việt Nam. Tuy vậy, làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam vẫn không ngừng sôi sục trên đường phố cũng như trong Quốc hội Mỹ.
Ngay từ năm 1965, phong trào sinh viên Mỹ phản chiến đã bùng nổ trên các giảng đường đại học cũng như ngoài xã hội. Đến năm 1968 nhiều cuộc mít tinh, biểu tình phản chiến đã lan ra trên toàn quốc, đặc biệt là những phong trào do tổ chức “Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ” (Students for a Democratic Society – SDS) và tổ chức Cựu binh Việt Nam chống chiến tranh (Vietnam Veterans against the War – VVAW) tiến hành. Mục sư Luthơ King – người được giải thưởng Nôben về Hoà bình, Giôn Kerry sau trở thành Thượng nghị sĩ và nhiều nhân vật nổi tiếng khác đều tham gia phong trào. Những cái chết tư thiêu của Alixơ Hec, Noman Morixơn và Rôbơ La Pooc đã thực sự trở thành một cú sốc đối với cả nước càng thúc đẩy các nhà hoạt động phong trào làm tất cả những gì cần thiết để chấm dứt chiến tranh. Nhiều cuộc biểu tình đã thu hút đến 20-30 triệu người tham gia trên phạm vi cả nước với mục tiêu được xác định rõ ràng: “Chúng tôi cảm thấy rằng đây là cuộc chiến tranh hoàn toàn phi đạo lý, một cuộc chiến tranh hậu thuẫn một chế độ không đại diện cho nhân dân và một cuộc chiến tranh làm mất đi hy vọng nước Mỹ trở thành một xã hội tốt đẹp và dân chủ thực sự (…).Chúng tôi mong muốn xây dựng làng mạc, chúng tôi không muốn thiêu huỷ chúng. Chúng tôi mong muốn góp phần xây dựng và thay đổi đất nước, chúng tôi không muốn phá huỷ đất nước của người khác. Chúng tôi mong muốn thúc đẩy nền dân chủ, chúng tôi không tin rằng có thể thúc đẩy dân chủ bằng tra tấn và khủng bố”[61]. Những cuộc bắt bớ, trấn áp bằng dùi cui, lựu đạn cay xảy ra ở khắp nơi khiến giới cầm quyền phải lo ngại: “Không thể quay lưng với thực tế là cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á đang gây ra một cuộc nội chiến ngay trên đất Mỹ”[62].
Trong khi đó, tại diễn đàn Quốc hội, các nghị sĩ cũng bày tỏ thái độ, từ tháng 4 đến tháng 12/1972 đã đề ra 22 dự luật đòi rút hết quân Mỹ, đưa tù binh trở về, chấm dứt chiến tranh và hạn chế quyền điều hành chiến tranh của Tổng thống. Ngày 22/6 Thượng viện biểu quyết dự luật của Menphin với số phiếu 57/42 đòi rút hết lực lượng Mỹ khỏi Đông Dương trong thời hạn không quá 9 tháng miễn là tất cả tù binh được thả. Một tuần sau, Thượng viện lại biểu quyết dự luật của Bruckơ với 49/47 phiếu quy định các chi phí quân sự đã được duyệt chỉ dùng vào việc rút quân về nước với điều kiện tù binh Mỹ được thả. Rõ ràng mối quan tâm hàng đầu của nước Mỹ là vấn đề ngừng bắn đi cùng với việc giải thoát tù binh. Biểu quyết của đa số ở Thượng viện là sức ép mạnh mẽ đối với Nixon cho dù có thắng cử. Nhưng cũng nên thấy rằng số nghị sĩ vẫn muốn theo đuổi chiến tranh để giành thế thắng chiếm một tỷ lệ không nhỏ. Điều này đương nhiên cũng đi vào sự tính toán của người cầm quyền Nhà Trắng.
Ngày 8/10/1972 đánh dấu một bước đột phá trong cuộc Hoà đàm ở Pari với những đề nghị mới của VNDCCH. Bản dự thảo Hiệp định của ta đã tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị, tập trung giải quyết vấn đề ngừng bắn, quân Mỹ rút về nước, thả tù binh, không nhắc đến việc lật đổ chính quyền Sài Gòn và Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Bản dự thảo cũng hàm ý không đặt vấn đề rút quân miền Bắc khỏi miền Nam, những vấn đề chính trị, quân sự của miền Nam sẽ do các bên miền Nam giải quyết[63].
Kitxingơ tuyên bố ngay tại cuộc họp: “Theo sự trình bày của các ông, tôi nghĩ rằng các ông đã mở ra một chương mới về các cuộc thương lượng của chúng ta, một chương có thể dẫn đến chỗ kết thúc nhanh chóng”. Và trong nội bộ đoàn Mỹ, ông ta kể lại trong Hồi ký: “Chúng tôi vừa xiết chặt tay nhau vừa nói: Chúng ta đã thành công”[64]. Cái mà người Mỹ cảm thấy thành công chính là ở chỗ cuối cùng thì chiến tranh Việt Nam cũng kết thúc, lính Mỹ về nước, tù binh Mỹ được thả và chính quyền Thiệu vẫn tồn tại. Đó chính là sự “rút lui trong danh dự” mà Oasinhtơn theo đuổi từ đầu cuộc đàm phán.
Còn về phía Việt Nam, đây là một sách lược nhằm đẩy Mỹ ra khỏi đất nước, làm mất chỗ dựa của chính quyền Sài Gòn mặc dầu họ được Mỹ viện trợ vũ khí và các phương tiện chiến tranh gấp nhiều lần. Một thực trạng ở miền Nam được xác nhận với sự tồn tại của 2 chính phủ (chính phủ Sài Gòn và CPCMLT), 2 quân đội (quân đội Sài Gòn và quân đội Giải phóng), 3 lực lợng chính trị (Sài Gòn, Cách mạng và lực lượng trung lập) với sự hiện diện của Hội đồng Quốc gia hoà giải và hoà hợp dân tộc gồm 3 thành phần kể trên.
Sau nhiều buổi tranh luận căng thẳng, gay gắt, đến ngày 12/10 hai bên đã thoả thuận những nội dung cơ bản, định ra một lịch trình để tiến tới ký kết Hiệp định vào cuối tháng 10.
Cùng trong thời gian này, Đảng ta chủ trương tranh thủ sự đổng tình ủng hộ của các nước XHCN. Ngày 9/10 tại Matxcơva, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh gặp Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L. Brêgiơnep. Brêgiơnep đánh giá cao chủ trương mới của Việt Nam, cho rằng đã đạt được 2 thắng lợi cơ bản là chấm dứt sự dính líu quân sự của Mỹ và công nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền. Cùng ngày, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị đi Bắc Kinh gặp Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Chu Ân Lai bày tỏ sự đồng tình với sách lược của Việt Nam và hứa quyết tâm ủng hộ Việt Nam[65]. Hoạt động ngoại giao đó đem lại hiệu quả rất tích cực đối với cuộc đấu tranh của ta tại bàn đàm phán.
Trở lại vấn đề giữa ta và Mỹ, bản lịch trình thoả thuận ngày 12/10 giữa hai bên không được thực hiện. Viện ra nhiều lý do, phía Mỹ cố tình kéo dài thời hạn. Có 2 yếu tố dẫn tới thái độ lần lữa này. Một là sự phản đối dữ dội của Nguyễn Văn Thiệu, ông ta coi bản Hiệp định “thực chất là một sự đầu hàng của Mỹ”, chua xót thấy mình “là người cuối cùng được tham khảo và sau đó lại không có tiếng nói thực sự vì mọi chuyện đều đã được quyết định từ trước”, và phải cay đắng thốt lên: “Tôi nhận thấy rằng những người mà tôi coi là bạn đã bỏ rơi tôi”[66]. Hai là Nichxơn tính toán nên ký Hiệp định trước hay sau cuộc bầu cử Tổng thống được ấn định vào ngày 5 tháng 11? Tình hình Việt Nam sẽ có ảnh hưởng đến lá phiếu chọn lựa của cử tri Mỹ. Trước sức ép từ chiến trường Việt Nam và từ sự phản đối trên chính trường Hoa Kỳ, Nichxơn và Kitxingơ muốn lấy việc chấm dứt chiến tranh để đảm bảo phần thắng trong cuộc chạy đua này. Nếu ký trước ngày bầu cử thì việc Nixon ở lại Nhà Trắng là điều chắc chắn, tuy nhiên phải chấp nhận nhiều nhượng bộ không dễ chịu với Mỹ và bị Sài Gòn kịch liêt phán đối. Nhưng nếu để lại sau ngày đó thì có tranh thủ được cử tri hay không và nếu thắng thì Nixon sẽ quay trở lại ván bài đòi phía Việt Nam phải nhượng bộ: “Khi cuộc bầu cử đã qua rồi, Tổng thống sẽ thực hiện bất kỳ hành động nào ông thấy cần thiết để bảo vệ lợi ích của Hoa Kỳ”[67]. Sự chần chừ đó được bộc lộ qua nhiều công hàm của Tổng thống Mỹ (hoặc nhân danh Tổng thống) gửi Thủ tướng Việt Nam từ 13 đến 25/10, đưa ra hết vấn đề này đến vấn đề khác để lần lữa việc ký kết. Đến khi cuộc điều tra dư luận ở Mỹ cho thấy số đông người được hỏi nghiêng về phía Nixon với niềm hy vọng hoà bình thì Mỹ ra mặt bội ước. “Biết chắc sứ mạng to lớn trong cuộc bầu cử sắp tới, ông ta (Nichxơn) quyết định chờ đợi cho đến sau khi được bầu lại, đến lúc đó ông ta có thể đòi Bắc Việt Nam phải giải quyết hoà bình hoặc gánh chịu hậu quả của những gì mà Mỹ có thể làm đối với họ”[68].
Trước thái độ đó, ngày 26.10, VNDCCH đã công bố toàn văn bản dự thảo Hiệp định và tố cáo sự bội ước của phía Mỹ. Sự kiện này buộc giới cầm quyền Mỹ phải chịu nhiều đòn công kích. Một là từ phía VNDCCH, vạch rõ sự thiếu nghiêm chỉnh của Mỹ trong việc không tôn trọng những điều đã thoả thuận ngày 12/10; hai là từ phía chính quyền Sài Gòn cay đắng vạch ra Nichxơn đã sẵn sàng bỏ rơi họ; ba là từ dư luận trong nước Mỹ phê phán sự bất nhất và bỏ lỡ cơ hội của những người có trách nhiệm; bốn là từ thái độ hưởng ứng sự công khai của Hà Nội từ phía các nhà lãnh đạo Matxcơva và Bắc Kinh[69], và cuối cùng là làn sóng biểu tình của phong trào đòi chấm dứt chiến tranh lan ra trong nhiều nước. Kitxingơ lập tức họp báo, sau khi tường trình sự việc đã đưa ra lời tuyên bố: “Chúng ta tin tưởng rằng hoà bình đang ở ngang tầm tay. Chúng ta tin là một Hiệp định có ở trong tầm tay”[70]. Lời tuyên bố “Hoà bình trong tầm tay” đã gieo niềm hy vọng vào cử tri Mỹ, cứu vãn uy tín của Nichxơn và tạo nên sức nặng cho việc ông ta được tái cử. Cuối cùng, Nichxơn đã trúng cử với 60.7% số phiếu, nhưng ở Thượng viện, đảng Cộng hoà mất 3 ghế; ở Hạ viện, đảng Dân chủ chiếm đa số. Như vậy, lực lượng đối lập ở Mỹ vẫn có tiếng nói quan trọng đối với chính sách Việt Nam của Nichxơn.
Đối với Việt Nam, sự tráo trở của Mỹ không hoàn toàn là điều bất ngờ khi đã dự tính về hai khả năng là Mỹ có thể ký trước ngày bầu cử và cũng có thể để lại sau ngày đó. Ngay từ ngày 30 tháng Chín, Bộ chính trị Việt Nam đã nhận định “rõ ràng Mỹ không có ý định kết thúc chiến tranh trước ngày bầu cử nhưng lại muốn sử dụng việc đàm phán để trúng cử”[71]. Còn tại Pari, Đoàn đàm phán của ta nhận định có 2 khả năng: một là Mỹ sẽ giải quyết vào thời điểm 25/10; hai là Mỹ kéo dài để vượt qua tuyển cử”[72]. Như vây, hiệp đấu trí tháng Mười 1972 đã ngưng lại. Hiệp định không được ký kết song dư luận thế giới là có lợi cho ta. Còn Nichxơn đã quyết định “chơi trò gây sức ép tối đa”: “Tôi đã nới lỏng những điều hạn chế mà tôi đã áp dụng cho các cuộc tập kích của B 52 đối với Bắc Việt Nam từ ngày 13 tháng Mười. Kế hoạch bây giờ là thi hành một áp lực tăng dần với Hà Nội bằng cách bắt đầu ném bom gần khu phi quân sự và leo dần lên phía bắc từng ngày”[73]. Đó là tuyên bố của Nichxơn vào đầu tháng Mười một, chuẩn bị cho cuộc đấu trí mới vào đợt cuối năm 1972.
5. Chiến dịch ném bom Lễ Giáng sinh và phản ứng quốc tế
Đầu tháng Mười một, cuộc gặp giữa hai bên lại tiếp nối tại Paris. Phía Mỹ đòi sửa đổi 69 điều trong bản dự thảo, thực chất là trở lại những vấn đề đã đặt ra từ đầu cuộc đàm phán như vị trí của Mặt trận Giải phóng / Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam, việc rút lực lượng quân miền Bắc khỏi miền Nam, việc trao trả những người bị bắt…Do vậy, các phiên họp đã diễn ra trong bầu không khí hết sức căng thẳng. Lấy lý do phía Việt Nam giữ lập trường cứng rắn không chịu nhân nhượng, Mỹ chuyển sang dùng sức mạnh quân sự, tiến hành cuộc ném bom bằng B 52 mang tính tàn sát suốt 12 ngày đêm cuối tháng 12 ở Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác mà người Mỹ gọi là “Trận bom Lễ Giáng sinh”. Thực ra trước đó, với ý doạ dẫm, Kissinger đã tiết lộ thông điệp của Nixon gửi ông ta: “Tôi ra lệnh cho ông đình ngay các cuộc đàm phán và nếu cần hãy trở lại những hành động quân sự cho điều mà những người có thể thương lượng của chúng ta chịu sắp xếp thương lượng”[74]. Điều đó cho thấy dù cuộc hoà đàm Paris diễn biến như thế nào thì Nichxơn cũng sử dụng con bài cuối cùng là dùng B 52 để chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh. Đó là giải pháp được tính trước và đã bộc lộ từ hồi tháng Mười, chứ không phải là “Bị dồn đến chân tường, chính quyền Mỹ buộc phải hành động và sự lựa chọn duy nhất Mỹ có là gia tăng ném bom bắn phá”, lại càng không phải như lý giải của Kitxingơ “Giới lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam đã mắc “sai lầm cơ bản” khi dồn Nichxơn đến chân tường vào tháng Mười hai”[75].
Vậy hậu quả của đợt ném bom đó là gì? Mỹ đã phải trả giá đắt với 34 máy bay B 52 và 47 chiếc khác bị bắn rơi (phía Mỹ công bố 2 con số tương ứng là 15 và 11) và 44 phi công bị bắt. Giới quân sự Mỹ thừa nhận: “Chúng tôi đã mất nhiều máy bay và đã không thấy trước được cái giá phải trả cao như vậy. Ngay với con số được (Mỹ) thừa nhận thì cũng có nghĩa, tổn thất của B 52 là trên 10% trong 10 ngày, một con số cao hơn con số mà các phi công có thể chấp nhận được và do đó đã làm cho họ mất tinh thần”[76].
Bên cạnh đó, dư luận Mỹ trở nên sôi động với những lời phản đối của các nghị sĩ, chính khách và báo chí đối với hành động của Nixon “như một tên bạo chúa bị chọc tức”, “là sự khủng bố trên quy mô chưa từng thấy”, “đã làm vấy bẩn thanh danh nước Mỹ”, “đến nỗi hàng triệu ngời Mỹ phải xấu hổ và hoài nghi về sự sáng suốt của Tổng thống”[77]. 45 trong số 73 thượng nghị sĩ được hỏi ý kiến đã kịch liệt chống lại hành động này. Cả Thượng viện và Hạ viện đều chuẩn bị cho cuộc bỏ phiếu vào đầu tháng 1.1973 về dự luật cắt nguồn kinh .phí chiến tranh Việt Nam.
Toan tính của Mỹ sử dụng đợt không kích này để tăng sức ép của Trung Quốc và Liên Xô đối với Hà Nội cũng không đạt được. Tổng bí th Đảng Cộng sản Liên Xô Brêgiơnep công khai lên án cuộc chiến tranh là “dài nhất và bẩn thỉu nhất trong lịch sử nước Mỹ”, có thể vì vấn đề Việt Nam mà hoãn chuyến đi Mỹ như dự định. Lần đầu tiên sau hơn một năm, ở Bắc Kinh đã diễn ra cuộc biểu tình lớn chống Mỹ với sự hiện diện của Thủ tướng Chu Ân Lai và sự tham dự của Bà Nguyễn Thị Bình – Bộ trưởng Ngoại giao CPCMLT miền Nam Việt Nam. Bộ Ngoại giao Trung Quốc gửi thông điệp cho Chính phủ VNDCCH và Chính phủ Hoa Kỳ khẳng định: “Nếu như Chính phủ Mỹ không chấm dứt các hoạt động phá hoại cuộc sống yên bình của nhân dân Việt Nam và vẫn tiếp tục chiến dịch xâm lược thì nhân dân Trung Quốc sẽ cương quyết có bất kỳ hành động cần thiết nào để ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ và bảo đảm rằng nhân dân Việt Nam sẽ giành được thắng lợi hoàn toàn”. Chính phủ của hai trong số các đồng minh thân cận nhất của Mỹ là Canađa và Ôxtrâylia phản ứng quyết liệt đợt ném bom này. Ngoại trưởng Canađa công khai chỉ trích: “Lý do hay mục đich của vụ ném bom này thật khó hiểu. Chúng tôi kịch liệt lên án hành động này”. Từ Vaticăng, Giáo hoàng Giăng Pôn II bày tỏ sự bất bình về “việc bất ngờ nối lại chiến tranh ồ ạt và tàn nhẫn”. Kitxingơ nhớ lại tháng Mười hai năm đó trước sức ép dư luận ở trong và ngoài nước như là “một giai đoạn đau khổ và khó khăn nhất, đặc biệt kể từ khi chúng ta cho rằng hoà bình đang ở trong tầm tay”. Do vậy, nhìn một cách toàn diện, có thể thấy rằng “Tất cả những điều mà cuộc ném bom Lễ Giáng sinh đưa lại là cô lập chính quyền Mỹ về mặt chính trị và đặt nó vào thế phòng ngự”[78].
Ngày 30.12, Nichxơn hạ lệnh chấm dứt cuộc không kích và theo đề nghị của phía Mỹ, hai bên gặp lại ở Pari ngày 8.1.1973, đi đến ký kết Hiệp định vào ngày 27.1. Phải chăng cuộc đàm phán Paris được tiếp nối là do kết quả của việc dùng sức ép bằng bạo lực của Nichxơn như Kitxingơ và một số học giả phương Tây nhận định? Thực ra, Tổng thống Mỹ đã đặt cược vào canh bạc B 52 cuối năm 1972 quá lớn nhưng hiệu quả chẳng được như mong đợi. Nichxơn phải kết thúc chiến dịch vào ngày cuối cùng của năm đó vì ông ta rơi vào tình thế “bị kẹt” cần phải thoát hiểm. Một là người đứng đầu Nhà Trắng đã leo đến nấc thang cuối cùng của cuộc chiến tranh là dùng B52 đánh vào Hà Nội, tuy gây nhiều tổn thất cho Việt Nam mà vẫn không giành được phần thắng quyết định. Hai là Tổng thống sẽ phải đứng trước cuộc bỏ phiếu của hai viện Quốc hội vào ngày 3.1.1973 về chấm dứt ngân sách chiến tranh Việt Nam nên phải ra lệnh ngừng tấn công, trở lại bàn đàm phán trước thời điểm đó để tránh khỏi rơi vào thế bị động. Ba là dư luận thế giới phản đối hành động tàn bạo của Mỹ, kể cả những phản ứng quyết liệt từ phía Liên Xô, Trung Quốc cũng như từ phía các đồng minh Nhật Bản, Đông Nam Á và Tây Âu. Bốn là vị tổng thống tái nhiệm cũng muốn có một điều gì sáng sủa để tuyên bố trong lễ nhậm chức nhiệm kỳ 2 vào ngày 20.1 đáp ứng lòng mong mỏi của dân chúng Mỹ được đón con em họ trở về. Như vậy, cho rằng việc ký kết Hiệp định Paris là kết quả của đợt ném bom Hà Nội cuối tháng Mười hai, nhất là hệ quả của vụ tàn sát dân thường đêm 26 ở phố Khâm Thiên là một suy luận tưởng như lôgich nhưng không đúng với thực tế chiến tranh thời đó. Nếu như so sánh nội dung của bản Dự thảo tháng Mười và bản Hiệp định tháng Mười hai thì thấy rằng những điểm sửa đổi chỉ là chi tiết, những điều cơ bản vẫn còn đó. Nếu cho rằng cuộc tàn sát đêm 26 buộc Việt Nam phải trở lại bàn hội nghị thì có lễ nào phía bên kia không dùng lợi thế để ép Việt Nam phải nhân nhượng hơn nữa. Suy luận theo cách phản chứng như vậy cũng đủ để làm sáng tỏ vấn đề là ván bài Chiến dịch ném bom Lễ Giáng sinh không tạo nên sức ép đối với kết quả của Hội nghị Pari, nếu không muốn nói rằng người Mỹ chỉ trở lại bàn đàm phán sau khi phải nếm trải đòn đau “Điện Biên Phủ trên không” như cách gọi của các nhà báo phương Tây.
Cuối cùng, ký Hiệp định Pari, “nước Mỹ đã ra khỏi cuộc chiến tranh với hình ảnh rất nhem nhuốc trong con mắt của nhân dân thế giới và nhân dân Mỹ vốn đã chán ngấy việc dính líu vào chiến tranh. Đói với Nichxơn, cái giá phải trả cũng quá cao. Vào thấng 1.1973, ông ta bị kiệt quệ và bị cô lập, chính quyền của ông ta chỉ còn là một nhúm những kẻ mệt mỏi, mất tinh thần, đôi khi còn mang tính nhỏ nhen và tầm thường, đấu đá lẫn nhau, đề phòng và ghen tị nhau”. Đó là nhận định của nhà sử học người Mỹ G.C. Hơrinh về kết cục của cuộc chiến tranh mà nước Mỹ đã dính líu ở Việt Nam trong một phần tư thế kỷ[79].
KẾT LUẬN
1. Ngay từ năm 1925, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý giản đơn nhưng vô cùng quan trọng: Việt Nam là một bộ phận của thế giới, Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Từ quan điểm đó, cuộc vận động cách mạng Việt Nam luôn có mối liên hệ với những biến động chung của thế giới và mỗi biến động của thế giới đều có tác động qua lại với tình hình cách mạng Việt Nam. Do vậy, việc nghiên cứu bối cảnh quốc tế của ba bản Hiệp định mà chính phủ VNDCCH đã từng ký trong thời kỳ cách mạng dân tộc, dân chủ sẽ giúp ta có cái nhìn khái quát, toàn cục để từ góc độ lịch sử có thể đánh giá các sự việc khách quan hơn.
Nét chung nhất của bối cảnh quốc tế từ sau cuộc Thế chiến thứ hai đến năm 1991 là sự phân cực theo trật tự Yalta trên phạm vi thế giới cũng như trong khuôn khổ từng khu vực. Do vậy, cách mạng Việt Nam nhằm mục tiêu nội tại của nước Việt Nam là bảo vệ nền độc lập và thống nhất của Tổ quốc, đồng thời cũng trở thành một bộ phận của cuộc đấu tranh giữa hai phe, hai hệ thống ý thức và hai chế độ xã hội. Trên phạm vi thế giới, mâu thuẫn chủ yếu chi phối các diễn biến là mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB thì cách mạng Việt Nam trong khi xử lý mâu thuẫn chủ yếu giữa dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc cũng không ra ngoài khuôn khổ của mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB. Điều đó khiến cho cách mạng Việt Nam trong khi làm nhiệm vụ dân tộc thì cũng có nghĩa là thực hiện nghĩa vụ quốc tế trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
Ngoài mâu thuẫn chủ yếu đó, trong những biến động suốt ba mươi năm của cuộc chiến tranh giải phóng đã xuất hiện hai loại hình mâu thuẫn có ảnh hưởng không kém phần quan trọng. Một là mâu thuẫn trong nội bộ các nước TBCN mà sách lược cách mạng đã từng lợi dụng khai thác để thêm bạn bớt thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính trong từng giai đoạn. Hai là mâu thuẫn trong nội bộ các nước XHCN mà với phương châm đoàn kết quốc tế, Việt Nam không bị lôi cuốn vào bên này hay bên kia, ngược lại vẫn tận dụng được sự đồng tình ủng hộ và sự viện trợ có hiệu quả để đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi.
Như vậy, phân tích đúng các mâu thuẫn và sự vận động của các mâu thuẫn trong từng thời kỳ, đề ra đối sách hợp lý với từng đối tượng là kinh nghiệm rất cơ bản về phương pháp luận để tập trung vào đối thủ chính, tranh thủ các lực lượng đồng minh và các lực lợng trung gian đưa cuộc đấu tranh đến thắng lợi hoàn toàn.
2. Đàm phán quốc tế bao giờ cũng là cuộc thương lượng giữa hai bên hay nhiều bên, trong đó sự đòi hỏi và sự nhân nhượng đan xen nhau tuỳ theo tương quan lực lượng. Hiệp định được ký kết là kết quả của một quá trình thương thảo mà cả hai bên đều giành được những phần có lợi cho mình và đều phải nhân nhượng những điều chưa thể đạt được trên thực tế. Có thể coi đó nh một sự ngưng tạm thời để mỗi bên chuẩn bị các điều kiện nhằm tiếp tục theo đuổi mục tiêu cuối cùng của mình.
Năm 1946, với Hiệp định sơ bộ, khi ta đạt được sự công nhận “Việt Nam là một quốc gia tự do” (chưa phải là độc lâp) thì đồng thời cũng phải chấp nhận để cho 15 ngàn quân Pháp trở lại miền Bắc. Chắc chắn rằng cả hai bên đều không có ảo tưởng về việc thực hiện đầy đủ những điều đã ký, đều thấy chiến tranh là điều khó tránh song Hiệp định là cơ sở pháp lý cần thiết để kéo dài thời gian chuẩn bị cho những bước tiếp theo. Và thực tế diễn ra đúng như vậy, cuộc chiến tranh Việt Pháp đã bùng nổ trên phạm vi cả nước vào tháng 12 năm đó.
Sau 9 năm kháng chiến, Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã kết thúc cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Các nước (trừ Mỹ) công nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, quân Pháp tập kết về phía Nam rồi sẽ rút khỏi nước ta. Đây là một bước tiến lớn so với Hiệp định sơ bộ nhưng ta phải chấp nhận sự chia cắt tạm thời đất nước theo vĩ tuyến 17 và thời gian tiến tới tổng tuyển cử là 2 năm. Trên thực tế, thời hạn này không phải 2 năm mà là 20 năm với cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy gian khổ và hy sinh.
Sau khi ký Hiệp định Pari năm 1973, người Mỹ tuyên truyền về sự thành công của họ: lính Mỹ rút khỏi Việt Nam, tù binh Mỹ được trở về nhà, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu vẫn tồn tại. Đó chính là con đường “rút lui trong danh dự” mà nước Mỹ chờ đợi. Còn về phía Việt Nam, cuộc chiến đã chấm dứt ở miền Bắc, sự tồn tại của lực lượng Giải phóng được xác nhận với thực trạng ở miền Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội, 3 lực lượng chính trị, vị thế của Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam được khẳng định. Như hai hiệp định trước, nói cho cùng, đây cũng chỉ là một bước ngưng tạm thời để kết thúc sự dính líu của Mỹ, tạo điều kiện để chấm dứt chế độ Sài Gòn, hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Và đến năm 1975, điều đó đã trở thành hiện thực.
Ba bản Hiệp định thực sự là ba nấc thang gắn liền với từng giai đoạn của cuộc đấu tranh cách mạng để từng bước đạt tới mục tiêu cuối cùng là Độc lập dân tộc, Thống nhất Tổ quốc. Kết quả đó khẳng định thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp cứu nước sau cuộc trường chinh ròng rã ba mươi năm.
3. Ba bản Hiệp định là kết quả đàm phán trực tiếp của các nhà ngoại giao, hoạt động ngoại giao đã trở thành một mặt trận, một mũi tiến công phối hợp cùng mặt trận chính trị và mặt trận quân sự.
Tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh nhân dân đã đoàn kết toàn dân tộc, dần dần cảm hoá nhân dân thế giới, thu hút sự đồng tình ủng hộ của chính phủ và nhân dân các nước, kể cả những nước là bạn đồng minh của đối phương. Một hiện tượng hiếm có trong lịch sử là trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã dấy lên phong trào nhân dân Pháp đấu tranh đòi chấm dứt “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” do chính phủ Pháp tiến hành; trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã sôi sục những cuộc biểu tình phản chiến đòi rút quân về nước. Bản thân Hội nghị Pari cũng là một diễn đàn mà từ đó các thông tin đầy đủ về cuộc kháng chiến và lập trường chính nghĩa của Việt Nam được truyền đi bốn phương. Cán bộ ngoại giao được cử đi các nước, tham gia các cuộc mít tinh, hội thảo để giới thiệu về Việt Nam, nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân các nước[80]. Qua đó, một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam hình thành và phát triển đã nâng cao uy tín chính trị cho Việt Nam, đồng thời tăng thêm sức ép buộc chính phủ đế quốc phải rút khỏi cuộc chiến.
Cuộc đấu trí gay go trên bàn Hội nghị phản ánh tương quan lực lượng trên chiến trường. Những thắng lợi quân sự tạo nên sức nặng cho lý lẽ trong cuộc tranh cãi với đối phương. Trên nền tảng nhiều chiến công liên tiếp khắp các mặt trận, những đòn tiến công quyết định đã làm thay đổi cục diện chiến trường, do đó tác động vào kết cục của cuộc đàm phán: chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đi tới Hiệp định Giơnevơ, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972 đi tới Hiệp định Pari. Sự phối hợp nhịp nhàng và hiệu quả giữa ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao đã tạo nên một nét nổi bật trong lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam.
4. Bối cảnh quốc tế không chỉ là hiện tượng khách quan buộc ta phải chấp nhận để thích nghi và tìm ra giải pháp thích hợp. Trên một ý nghĩa và mức độ nào đó, ý định chủ quan có thể tác động vào bối cảnh quốc tế, tạo nên những sự thay đổi có lợi cho mình. Qua hai cuộc kháng chiến, thường thì trong giai đoạn đầu, Việt Nam luôn gặp nhiều yếu tố bất lợi do tương quan lực lượng vật chất và vị thế chính trị trên trường quốc tế. Song do cách phân tích chính xác các mối mâu thuẫn để dự báo đúng diễn biến của tình hình, Việt Nam luôn chuyển hoá từ bất lợi thành thuận lợi, từ bị cô lập thành hoà nhập với thế giới, cbuyển từ thế yếu sang thế mạnh, hạn chế mặt nhược, phát huy mặt ưu. Do vậy hoạch định đường lối chính sách đúng đắn, biết ta biết địch, chuyển dịch từng bước để xoay chuyển tình hình là những thành tố cơ bản của sự lãnh đạo của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, làm nên thắng lợi cuối cùng.
Trong khi đánh giá xu hướng quốc tế từng giai đoạn, chịu sức ép từ nhiều phía thì kinh nghiệm cơ bản nhất trong đàm phán chính là bảo đảm cho được tính độc lập tự chủ trong việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược, trong việc đánh giá đúng những nước cờ của đối thủ và tính toán từng bước đi khi cương, khi nhu để chọn đúng thời cơ đa ra những giải pháp tối ưu mà các bên đều chấp nhận. Rút kinh nghiệm từ Hội nghị Giơnevơ, ngoại giao Việt Nam đã có một bước tiến vượt bậc trong tiến trình đàm phán với Hoa Kỳ tại Pari. Công bố lập trường và những nội dung cơ bản của cuộc thương lượng, Việt Nam đã tranh thủ được sự hưởng ứng của dư luận thế giới, đặc biệt là sự ủng hộ của các nước XHCN. Song nhận thức rằng Hội nghị Pari là cuộc đàm phán song phương, các nước bên ngoài tác động vào, có yếu tố tích cực cần tranh thủ, song cũng không tránh khỏi những mặt hạn chế do quan điểm và lợi ích của các nước đó. Nhất là trong xu hướng hoà hoãn giữa các nước lớn, sức ép tinh thần và vật chất đối với ta không phải là nhỏ thì tìm ra đối sách riêng phù hợp với mình là điều quan trọng. Kết quả hoà đàm Pari đã minh chứng tính độc lập tự chủ của Việt Nam xuyên suốt quá trình Hội nghị, à đó là một trong những kinh nghiệm dẫn đến thành công.
Chiến tranh đã qua đi, hoà bình được lập lại. Tình hình có nhiều đổi thay song những bài học của cuộc đấu tranh ngoại giao trong thời kháng chiến vẫn mang ý nghĩa thiết thực. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá, việc hội nhập vào dòng chảy chung của thế giới mà trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề đặt ra bức thiết đối với nước ta. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy trong bất kỳ tình huống nào, việc bảo vệ độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mãi mãi là nguyên tắc bất di bất dịch. Trong tình hình mới của bối cảnh quốc tế sau chiến tranh lạnh, những kinh nghiệm đàm phán cần được vận dụng một cách sáng tạo và thich hợp nhằm bảo vệ lợi ích dân tộc trong sự hài hoà với lợi ích của các bên đối tác. Trong mối quan hệ đó, sự phát huy nội lực trong kinh tế có ý nghĩa rất quyết định trong việc tiếp nhận viện trợ và đầu t từ bên ngoài, nội lực có vững thì nền kinh tế dân tộc mới giữ được tính tự chủ, mới trở thành hậu thuẫn cho các cuộc đàm phán đem lại hiệu quả vững chắc cho sự hội nhập quốc tế và công cuộc xây dựng đất nước.
Tháng 6.2006
Bổ sung tháng 4.2011
Chú thích:
[1] Dẫn theo Serge Berstein – Pierre Milza, Histoire de l’Europe contemporaine. Le XXe siècle. De 1919 à nos jours. Nxb Hatier, Paris 1993, tr. 185
[2] Michel Beau, Lịch sử chủ nghĩa tư bản từ 1500 đến 2000. Nxb Thế giới, Tp HCM 2000
[3] Xem André Fontaine, Histoire de la Guerre froide. De la révolution d’Otobre à la guerre de Corée. Nxb Fayard, Paris 1986
[4] Có thể tham khảo Bản tuyên bố này trong Philippe Devillers, Paris – Saigon – Hanoi, Nxb Tp HCM năm 1993, tr. 24-25
[5] Tài liệu Lầu Năm góc. Dẫn theo Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. Nxb CTQG, H. 2002, tr.33
[6] Ph. Devillers, Sđd, tr.131
[7] A Patty, Tại sao Vietnam? Nxb Đà Nẵng 1994, tr. 380
[8] A. Patty, Sđd tr 368
[9] Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975. Tập 1A 1930-1946. Nxb Văn hoá, Houston 1996, tr. 253
[10] J.S. Bowman (chủ biên), The World Almanach of the Vietnam War. A Bison books, New York 1985, tr. 15
[11] Jean Sainteny, Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ. Nxb Công an nhân dân, H.2003, tr.92
[12] Chính Đạo: Sđd, tr. 268
[13] Tham khảo: Kinh C.Cheng, Việt Nam and China 1938-1954. Princeton University Press, Princeton 1969, tr.141-142; Ellen J. Hammer, The struggle for Indochina 1940-1955, Stanford University Press, California 1967.tr. 146 -147; Chính đạo, Sđd, tr 311
[14] Bukhapkin, Kremli và Hồ Chí Minh. Tạp chí Xưa & Nay số 55 năm 1998, tr. 4. Nguyễn Trọng Hậu, Hoạt động đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời kỳ 1945-1950. Nxb CTQG, H 2004, tr. 141 -147
[15] Xem A. Patty, Sđd, tr 189 – 192
[16] Xem ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000. tr. 427
[17] ĐCSVN, Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 8, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 56
[18] Võ Nguyên Giáp, Chiến đấu trong vòng vây, Nxb Quân đội nhân dân và NXB Thanh niên, H. 1995, tr 432 và tr.435
[19] A. Patti, Sđd. tr 413-414
[20] A. Patti, Sđd. tr 413-414
[21] George C. Hering, Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ. Nxb Chính trị Quốc gia, H.1998, tr. 14.
[22] G. C. Hering, Sđd, tr18
[23] Francois Joyeaux, Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (Giơnevơ 1954). Nxb Thông tin lý luận, H.1981, tr. 89
[24] Xem Võ Nguyên Giáp, Đường tới Điện Biên Phủ. Nxb Quân đội nhân dân, H.1999, tr.13-17
[25] Louis J. Halles, The Cold War as History. Ed. Chatto & Windus, London1967, p.299
[26] Có nhiều số liệu về viện trợ của Mỹ ở Đông Dương. Theo Lưu Văn Lợi, Nguyễn Hồng Thạch (xem Pháp tái chiếm Đông Dương và chiến tranh lạnh. Nxb Công an nhân dân, H.2002) thì số tiền viện trợ của Mỹ tăng hàng năm là: 1950 – 10 triệu USD, 1951 – 30,5, 1952 – 525, 1953 – 735, 1954 – 1063. Theo King C.Chen (Xem Vietnam and China 1938 – 1954. Princeton N.J 1969, tr.276) con số viện trợ Mỹ là: 1951 -119 trệu USD, 1952 – 300 triệu, 1953 – 500 triệu (kể cả món viện trợ đặc biệt 385 triệu), năm 1954 – 1 tỷ USD. Tính đến tháng 7.1954, tổng số tiền viên trợ là 2,2 tỷ. Theo F. Joyeaux ( Xem Trung Quốc và việc giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất – Geneve 1954, Nxb Thông tin lý luận H. 1981, tr 115-116), con số viện trợ vũ khí từ 1950 đến 1953 tăng gấp 10 lần từ 11 ngàn lên 117 ngàn tấn, còn về tài chính thì năm 1952 là 115 tỷ FF, năm 1953 là 300 tỷ FF (tức 905 triệu USD). Những số liệu dẫn từ nhiều nguồn không trùng khớp nhau, song có thể thấy rằng mức độ viện trợ Mỹ vào chiến trơng Đông Dương ngày càng tăng, mức độ can thiệp của Mỹ ngày càng sâu.
[27] Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.6, Nxb Sự Thật, H,1986, tr.35.
[28] G.C. Herring, Sđd trang 22, 28
[29] Theo “Thỏa ước Elysée 1949” giữa Tổng thống Pháp V. Auriol với Bảo Đại, sau đó, thành lập “Quân đội quốc gia Việt Nam” tức quân ngụy vào tháng 9.1950. Đến ngày 8.3.1954, Thỏa ước này được xem xét lại, đến ngày 21.4 mới kết thúc với việc nới rộng quyền hạn của chính phủ bù nhìn, nhưng chưa kịp ký thì chiến cuộc ở Điện Biên Phủ đã kết thúc. Tranh luận tại Quốc hội Pháp, nghị sĩ Guillon nêu lên việc ký kết này là “thếp vàng lại một ông vua mất chức được biết nhiều ở các sân golf tại Cannes hay những tay bồi ruợu tại các hộp đêm hơn là trong tầng lớp nông dân”. Xem Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939 – 1975, Tập I B 1947-1954. Nxb Văn hóa, Hoa Kỳ 1997, tr. 121.
[30] Xem F. Joyeaux, Sđd, tr.122-125
[31] Xem F. Joyeaux, Sđd, tr.122-125
[32] F. Joyeaux, Sđd, tr.130. Qua sách viết của những chính khách đương thời, người Pháp khẳng định là có chuyện về bom nguyên tử (G. Bonnet nói đến đề nghị của Mỹ về “những cỗ pháo nguyên tử”, Schuman nhắc đến việc Ngoại trưởng Mỹ hỏi riêng ông ta về vấn đề này, Navarre nói rằng “việc sử dụng bom nguyên tử ngay trên đất Đông Dương đã được Bộ tham mu Mỹ tính đến đầy đủ”); nhưng Tổng thống Mỹ Eishenhower cũng như ngoại trưởng Dulles thì không hề đả động đến câu chuyện này. Còn trong hồi ký của ngoại trởng Anh Eden viết rằng tại hội nghị Geneve là hội nghị quốc tế đầu tiên ông ta ý thức sâu sắc về sức mạnh của bom khinh khí.
[33] Henri Navarre, Thời điểm của những sự thật. Nxb Công an nhân dân, H.1994, tr.49 – 51
[34] Vũ Dương Ninh – Nguyễn Quốc Hùng, Điện Biên Phủ và sự khủng hoảng của nền chính trị nước Pháp in trong “Đảng Cộng sản Việt Nam – những trang sử vẻ vang (1930 – 2002)”, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2003
[35] Piter A. Poole, Nước Mỹ và Đông Dương từ Rudơven đến Nichxon. NxbThông tin lý luận, H. 1986, tr. 48
[36] George C. Herring: Sđd, tr. 43
[37] Xem Claude Fayard, Hai mươi năm tàn phá nước Pháp. Nxb Robert, Paris 1972, theo bản dịch của Thư viện quân đội.
[38] Gabriel Kolko, Giải phẫu một cuộc chiến tranh, T.1. Nxb Quân đội nhân dân, H.1991, tr.91
[39] Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.6. Nxb Sự Thật, H. 1986, tr. 494-495
[40] Dẫn theo George Saunier, Francois Mitterand với châu Á. Tham luận tại Hội thảo khoa học “Điện Biên Phủ – 50 năm nhìn lại” tổ chức tại Hà Nội ngày 13-14.4.2004
[41] Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị, Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 – 1975. Thắng lợi và bài học. Phần phụ lục. Nxb Chính trị Quốc gia, H.2000, tr. 479 – 480
[42] Dẫn theo Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tr. 159
[43] Dẫn theo Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2002, tr. 159
[44] Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng toàn tập, tập 15. Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001, tr. 228
[45] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr.233
[46] Khắc Huỳnh, Hội nghị Geneve 1954 về Đông Dương sau 5 thập kỷ nhìn lại. Tạp chí Xưa & Nay số 143, tháng 7.2003, tr. 7
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd, tr. 223
[48] Hồ Chí Minh, Toàn tập T.6 .Nxb ST, H 1986, tr 494-495
[49] Chú thích: Đàm phán về Hiệp định sơ bộ diễn ra tại Hà Nội từ 8.2 đến 6.3.1946, Hội nghị Giơnevơ từ 8.5 đến 21.7.1954; Hội nghị Pari từ 13.5.1968 đến 27.1.1973
[50] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập. Tập 33 (1972). Nxb CTQG, H. 2004, tr. 210
[51] Tham khảo Viện Sử học, Lịch sử Việt Nam 1965-1975. Nxb KHCH. H. 2002, tr.391
[52] R. Nixon, Hồi ký. Nxb CAND, H. 2004, tr.724
Những số liệu sau đây cho thấy quyết định của Nichxơn “thi hành đối với Bắc Việt Nam toàn bộ áp lực quân sự”: Ngày 6/4/1972 Mỹ ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam, kể cả sử dụng máy bay B 52 đánh phá Hà Nội, Hải phòng và nhiều nơi khác. Mỹ điều sang Vịnh Bắc Bộ 6 tầu sân bay, 5 tuần dương hạm, 40 khu trục hạm, đồng thời đưa 100 máy bay B 52 đến đảo Guam, 53 B 52 và 224 máy bay chiến thuật đến sân bay Utapao (Thái Lan) để bắn phá miền Bắc. Nichxơn ra lệnh thả mìn tất cả các cửa biển và sông ngòi miền Bắc, phá hoại đến mức tối đa các đường xe lửa và đường bộ, tiến công ác liệt các mục tiêu quân sự… (Tham khảo Nguyễn Thành Lê, Cuộc đàm phán Pari về Việt Nam (1968-1973). Nxb CTQG, H.1998, tr. 82)
[53] R.Nixon, No More Vietnam. Dẫn theo P. Asselin, Nền hoà bình mong manh – Washington, Hà Nội và tiến trình của Hiệp định Paris. Nxb CTQG, H. 2005, tr 55-56
[54] Henry Kissinger, Những năm bão táp. Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng (Hồi ký). Tập 2, Nxb CAND, H.2003, tr. 56. Có thể tham khảo về vấn đề Việt Nam trong cuộc trao đổi giữa tác giả với các nhà lãnh đạo Xô Viết (4.1972): tr.100 – 120
[55] Anatôli Đôbrưnhin, Đặc biệt tin cậy – Vị Đại sứ ở Oasinhtơn qua sáu đời Tổng thống Mỹ. Nxb CTQG, H.2001, tr. 417
[56] Anatôli Đôbrưnhin, Đặc biệt tin cậy – Vị Đại sứ ở Oasinhtơn qua sáu đời Tổng thống Mỹ. Nxb CTQG, H.2001, tr. 417
[57] Tham khảo R. Nixon, Hồi ký (tr.683-717 về chuyến đi Trung Quốc và tr.757-778 về chuyến đi Liên Xô)
[58] Dẫn theo Gabrien Côncô, Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Tập II, Nxb QĐND, H. 1991, tr.110-111
[59] Có nhiều tài liệu khác nhau xoay quanh vấn đề viện trợ của các nước XHCN cho Việt Nam sau chuyến đi của Nichxơn đến Trung Quốc và Liên Xô. Gabrien Côncô cho rằng: “Dù cho con số có thể tranh cãi ra sao, những nguồn chính thức của Mỹ cho thấy rằng viện trợ quân sự của Trung Quốc cho VNDCCH năm 1972 tăng gấp đôi năm 1971. Chỉ viện trợ kinh tế của họ có giảm phần nào so với năm 1971. Viện trợ vũ khí của Liên Xô tăng hơn gấp đôi (Sđd. tr 112).
[60] Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ – Kisssinger tại Paris. Nxb CAND, H. 1996, tr. 275 và tr.278
[61] Tham khảo Charles Waugh – Lê Thế Quế, Phong trào chống chiến tranh Việt Nam tại Mỹ (1960 – 1975). Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội – Chuyên san khoa học xã hội nhân văn, số 2/2005.
[62] Dẫn theo G.C Herring, Sđd. Nxb CTQG, H. 1998, tr. 277
[63] Tham khảo Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Sđd, tr. 275 – 323
[64] H. Kixingơ, Sđd, tr.508, 509
[65] Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Sđd, tr. 281
[66] Tham khảo Pierre Asselin, Nền hoà bình mong manh. Nxb. CTQG, H. 2005, các trang 145, 139. 149
[67] P. Asselin, Sđd, tr. 175
[68] G.C. Herring, Sđd, tr. 322-323
[69] Tham khảo Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Sđd, tr 321
Nửa đêm 26/10, Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp đại diện của hai miền Nam Bắc Việt Nam và nói:”VNDCCH công bố là cần thiết, đòi Nichxơn ký Hiệp định vào ngày 31 tháng 10 là đòi hỏi đúng… Mỹ không thể trốn tránh trách nhiệm của mình”. Sáng hôm sau, Chủ tich Hội đồng Bộ trưởng Liên xô Côxghin tiếp đại diện VNDCCH và CPCMLT cho biết: “Đêm 26/10, Bộ Chính trị Liên Xô đã họp nghiên cứu Tuyên bố của Việt Nam và ủng hộ 100%”. Trong những ngày tiếp sau, chính phủ các nước XHCN cùng nhiều chính phủ khác, các tổ chức hoà bình hữu nghị trên thế giới đều lên tiếng ủng hộ VN, tố cáo Mỹ kéo dài chiến tranh và lên án gay gắt chính quyền Thiệu.
[70] H. Kitxingơ, Sđd. Tr. 615
[71] Theo P. Asselin, Sđd, trang 118
[72] Lưu Văn Lợi – Nguyễn Anh Vũ, Sđd, tr. 293
[73] R. Nichxơn, Sđd, tr. 875
[74] H. Kitxingơ, Sđd, tr. 656
[75] Dẫn theo P. Asselin,Sđd, tr 214
[76] G. Côncô,Sđd, tr. 131
[77] Dẫn theo P. Asselin,Sđd, tr.230, tr. 250
[78] Tham khảo: G. Côncô,Sđd tr. 131-132; P. Asselin: Sđd tr. 228-231.
[79] G.C. Herring, Sđd, tr.325.
[80] Tham khảo Nguyễn Thị Bình (chủ biên),Mặt trận Dân tộc Giải phóng – Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hội nghị Paris về Việt Nam. Nxb CTQG, H. 2001
Nguồn :khoalichsu.edu.vn
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét