NHÃ THUYÊN – QUẦN THOA PHẢI LÀM TIỀN PHONG THAY CHO ĐÁM MÀY RÂU RÚC RÍCH THƠ
Nguyễn Hoàng Đức
Không có kẻ tiền phong không thể có miền đất mới. Khi có miền đất mới như châu Mỹ chẳng hạn, mọi giá trị của châu Âu mới được xới tung gieo hạt làm tinh khôi và tươi tắn tràn trề trong sinh khí mới. Vừa qua, nước ao tù buồn ngủ của văn học mậu dịch Việt Nam vẫn cũ như tem phiếu khi để ruồi đậu mép xếp hàng mua vài cân cá ôi, thịt thối đã sôi sùng sục và dư chấn ào ào như đám chợ búa vỉa hè. Vỉa hè ở đây không mang nghĩa dè bỉu mà là một hiện thực sống động nhảy nhót bươn chải tươi tắn của cuộc mưu sinh hơn hẳn cái thứ văn học cán bộ văn phòng lờ đờ xếp ghế và khoe con dấu. Cơn dư chấn đó dậy sóng phía sau của một chiếc xuồng vẫn còn phấp phới váy quần thoa, có cái tên đệm chữ “Thị”, mà là hai chữ “Thị” cơ chứ. Mở đầu là Đỗ Thị Thoan với luận văn “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa”. Và một “yếm thắm” khác hướng dẫn cho cô là PGS Nguyễn Thị Bình. Hai má đào này ngay lập tức đã biến thành bản mẫu minh chứng cho phương ngôn “Kẻ đi tiên phong bao giờ cũng bị hy sinh”.
Lịch sử Việt Nam đã từng có những nữ nhi siêu quần bạt chúng như Bà Trưng, Bà Triệu. Hai bà làm vẻ vang cho các nữ nhi yếu đuối. Nhưng xét toàn thể, khi hai bà vẻ vang bao nhiêu thì đám đàn ông lại hèn mạt chui gấu váy bấy nhiêu. Tại sao ở Hy Lạp hay la Mã cổ đại không có những người như thế? Tại sao nàng Penelope lại nổi danh là một phụ nữ khôn ngoan, kiên nhẫn và chung thủy? Bởi nàng nổi lên như một bản mẫu theo giới tính của nàng. Còn đám đàn ông Hy Lạp biết làm bổn phận nam nhi của mình thì đâu còn chỗ cho đàn bà chân yếu tay mềm phải xung trận. Còn Việt nam ở thời Hai Bà Trưng, đàn ông đã hèn nhát không làm bổn phận của mình, thì đàn bà mới phải gánh vác việc chinh chiến của đàn ông.
Anh hùng trong chiến trận luôn luôn nhiều gấp hàng nghìn lần anh hùng văn hóa. Chỉ một lẽ nhỏ này là thấy: trong triều đình luôn đông rúc ríc những kẻ khom lưng uốn gối nịnh bợ kiếm chút bổng lộc của vua chúa, thì chỉ có một hoặc hai vị trung thần dám nói điều ngay thẳng. Và sự ngay thẳng của họ luôn mấp mé sự trả giá bằng sinh mạng. Mới đây cũng đã nổi lên hai nữ nhi làm anh hùng văn hóa giữa hằng hà sa số đám đàn ông đang hì hục hám danh bên mấy vần thơ nhẹ thõm. Đó là Y Ban đã từ chối giải thưởng “cây nhà lá hội” của những cán bộ hàng xóm viết văn vẫn còn mang giấc mơ tem phiếu kiểu “những giấc mơ hình cái thớt”. Và Kim Chi nữ nghệ sĩ ưu tú đã từ chối cả giải thưởng của Thủ tướng. Nếu như ngày xưa, chắc chị phải chịu án chu di tam họ vì tội dám phạm thượng.
Trong cơn dư chấn của Nhã Thuyên tức Đỗ Thị Thoan, có hai cái tên đàn ông rất xứng đáng vì đã làm được việc thích đáng chứ không phải vì tên tuổi của họ. Trước hết là GS Trần Đình Sử đã có bài viết khá kỳ công về đề tài này, hơn thế ông còn đưa ra cả phương ngôn – giống như thương hiệu vậy, đó là “Phê bình kiểm dịch”. Nguyên cụm từ này đã phản ánh nền văn học chui lỗ kim bấy lâu nay luôn phải chui qua sự kiểm duyệt chặt chẽ thô sơ như kiểm dịch súc vật vậy. Một sự kiểm dịch chui lỗ kim như vậy làm sao còn đôi cánh kiêu hùng của đại bàng, còn vây duyên dáng của cá, mà chỉ còn con hình thuôn như giun để chui lọt mà thôi.
Thứ hai là nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, người cũng có công đưa ra phương ngôn “Phê bình chỉ điểm”. Xưa nay người ta chỉ dùng từ chỉ điểm cho kẻ thù, chứ mấy ai dùng từ đó cho quân ta. Phía ta thì chỉ gọi là tai mắt quần chúng báo cáo thôi. Và trong trường hợp của Nguyễn Văn Lưu thì người ta sẽ gọi là tai mắt cán bộ tham mưu cho cấp trên.
Xét về luận văn của Nhã Thuyên. Với cái tên “Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa” là một cái tê rất khoa học và chính xác, không những với đề tài mà còn trong bối cảnh chung của thời đại. Rõ ràng, nhóm Mở Miệng đã xác định vị trí nghệ thuật của họ như những người bên lề, họ còn ra nhà xuất bản “Giấy Vụn”. Giấy vụn là cái thứ người ta đã xé nhỏ để ném vào sọt rác. Vậy thì người thành lập nhà xuất bản đó đã phải tủi phận thế nào để thành lập nó?! Nếu người ta được quyền tự do thành lập đàng hoàng để cạnh tranh kẻ hơn người kém, hoặc được cơ chế Xin – cho đồ sộ ưu tiên bao cấp thì cần gì phải hèn kém đến độ ra nhà sách Giấy vụn? Ngay đến cả Mở Miệng cũng thế, nếu sáng tác của mình được thể hiện ra như các cán bộ mậu dịch thì làm sao phải lo chỗ loay hoay mở miệng. Và với đề tài “Thực hành thơ”, Nhã Thuyên muốn nói: nhóm này không phải sáng tác thơ, mà họ Thực hành một cuộc mở miệng, giống như được chui lọt cửa để bước vào rạp hát của sáng tạo. Vào được rồi, thì mới nói đến sáng tạo cái gì. Như vậy tính thông điệp, tính chủ đề của luận văn này hết sức mạch lạc, rõ ràng và khoa học, chứ không ú ớ, tù mù, ăn gian, đi đêm, tháu cáy như một số luận văn đi chép khác. Và lớn hơn thế nhiều, luận văn đã tiền phong vào một vùng đất dữ mà chưa ai dám mở miệng phát hiện, đặc biệt các cán bộ ăn cây mậu dịch đòi rào tem phiếu.
Nhưng kìa một đấu sĩ Nguyễn Văn Lưu đã nhảy ra đem cả chợ tem phiếu vào mà không nấu nổi một bữa ăn ra tấm món mùi vị. Ông đăng đàn cả bốn số báo Văn nghệ TP. HCM đòi nốc ao một nữ nhi bé nhỏ. Ông quả là đấu sĩ mượn cái oai của tem phiếu mà không có tim làm hiệp sĩ mã hiệp và cao thượng. Trong đấu võ, người ta chỉ đấu cùng hạng loại, không bao giờ hạng nặng đi đấu với hạng lông, không bao giờ đàn ông đi đấu với đàn bà, đặc biệt tuổi cha chú lại đấu với yếm đào đang tuổi yêu. Đấu thế là phạm qui và thiếu hào hiệp. Mới đây, khi Giáo Hoàng Francis sang Brazil, ông có trả lời thẳng về vấn đề trọng đại “có phong chức linh mục cho phụ nữ không?” Ông nói còn trên cả từ chối, rằng: Việc này từ hồi Giáo Hoàng John Paul II đã chính thức khép lại rồi.
Việc từ chối phụ nữ làm công việc cô đơn nặng nhọc, cũng có nghĩa là ưu tiên phụ nữ. Vậy mà nhìn thấy Nhã Thuyên viết luận văn, ông NVL lại cậy thế ỷ dốc của hệ mậu dịch, xông vào chém tới tấp bừa bãi. Nhưng hiệp sĩ nhà nghề đích thực chỉ cần ra một đòn, đằng này ông đem cả quầy mậu dịch toàn “hàng mẫu không bán” ra thi thố, thì lại lộ tẩy rằng: đố kỵ với một yếm đào không xong???
Theo các triết gia Hy lạp, con người và xã hội quan trọng hàng đầu việc “Tiết độ” và “Khoan dung”. Con người nếu không tiết độ sẽ ăn uống sinh hoạt bừa phứa, bừa phứa như hội nghị lý luận Tam Đảo về nôn cả bia và đồ nhắm lên người nhau. Nếu không biết tiết độ, con người sẽ vong thân, không có nhân cách và đạo đức nữa. Nhà nước với toàn bộ quyền lực trong tay, xét theo thực tiễn và lý thuyết có thể tru di cá nhân bất cứ lúc nào. Nhưng nếu nhà nước không biết tiết độ quyền lực của mình thì chẳng khác gì cá nhân bạ chỗ nào ăn chỗ đó, bạ chỗ nào thải chỗ đó. Nhà nước thực hiện tiết độ, có cân nhắc trong quyền lực của mình, đó chính là cách khoan dung của nhà nước.
Luận văn là thứ “án tại hồ sơ”, đúng sai thế nào còn nằm đó và còn được tranh luận để thu hái nhận thức, đó cũng là quyền tự do tư tưởng và trình bày của cá nhân. Nhà nước hay ai đó thấy chưa đúng thì tranh luận lại, tại sao lại phải đuổi việc người ta? Làm vậy có phải thiếu tiết độ và bao dung không?
Thêm nữa mấy người khác tham gia tranh luận lại tìm cách nhục mạ nhau, rủa xả ngu hay dốt. “Nói phải củ cải cũng nghe” và “quân tử đấu lý, tiểu nhân đấu chân tay”, mình có lý lo gì không thắng, dở trò cơ bắp “cường từ đoạt lý” làm gì?
Tôi đề nghị, nhà nước nên trả lại cho PGS Nguyễn Thị Bình và Nhã Thuyên việc làm, như thế nhà nước mới tỏ rõ khả năng tiết độ và khoan dung của mình. Các loại phê bình tem phiếu cũng chỉ có tầm vóc ở mức tem phiếu, ta chớ nên nghe họ đánh trận giả vè vè quanh nồi cơm gạo mậu mà xử lý vấn đề, như vậy chẳng cố chấp lắm ru! Cố chấp như ông già không chịu về hưu lại vác đao tả xung hữu đột chém cháu gái mới qua tuổi vị thành niên thì còn gì để bàn về trí tuệ hay lòng cao thượng nữa đây?!
.
NHĐ 08/08/2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét