Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 20 tháng 8, 2013

Báo cáo mật..

 Tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó

Khrusev
Đỗ Tịnh dịch theo bản tiếng Pháp (có đối chiếu, sửa chữa và chỉnh lý theo bản tiếng Hung)
LỜI GIỚI THIỆU (Cho lần tái bản thứ nhất)
1956! Ba năm sau khi Xtalin [Staline] chết, đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội lần thứ XX, nhằm mục đích thay đổi chính sách, sửa đổi sai lầm, cải tổ đảng và cải tổ chế độ. Ngày bế mạc Đại hội, giữa lúc các đại biểu lục tục kéo nhau ra về, tổng bí thư đảng Khơrútsốp [Khrouchtchev] triệu tập một cuộc họp bất thường gồm riêng các đại biểu Liên Xô, không có mặt các đại biểu các đảng anh em. Trước cuộc họp, Khơrútsốp đã đọc một bản báo cáo, đúng hơn là một bản án, vạch trần những sai lầm và những tội ác của Xtalin. Bản báo cáo này đã đi vào lịch sử với cái tên Báo cáo mật của Khơrútsốp về Xtalin(1).
Gọi là ‘‘mật’’, nhưng chỉ trong vòng hai ba ngày, bản báo cáo của Khơrútsốp đã được dịch ra khắp các thứ tiếng, lưu hành khắp các nước không nằm dưới quyền kiểm soát của các đảng Cộng sản. Đây là một sự kiện quan trọng có một không hai trong lịch sử. Nó mở đầu một thời kỳ chuyển biến của hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới. Nó đánh dấu một bước ngoặt quyết định dẫn tới sự băng hoại của chủ nghĩa xta-lin-nít cùng sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu như ta đã thấy.
Ngay sau khi bản báo cáo này được công bố trên các báo chí, tờ Tiếng thợ - cơ quan tuyên truyền của Nhóm trốt-kít Việt Nam ở Pháp - đã trích dịch nhiều đoạn và viết bài bình luận. Ở Việt Nam, tại miền Bắc, nhóm Nhân văn Giai phẩm có gián tiếp nói tới. Tại miền Nam, các báo chí nói tới nó rất nhiều. Nhưng theo chỗ chúng tôi biết, chưa có ai và chưa có nơi nào dịch nguyên bản ra tiếng Việt. Phải đợi tới tháng 10-1982, tờ tạp chí Nghiên cứu - cơ quan lý luận của Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp - mới dịch và in ra toàn bộ, từ bản tiếng Pháp. Hai ngàn số đã được phát hành, phần lớn ở Pháp và các nước Tây Âu, một phần nhỏ gửi về Việt Nam. Hiện nay chúng tôi không còn số nào cả, ngoài một hai số giữ làm lưu chiếu.
Hơn lúc nào hết, chúng tôi nhận thấy cần phải tái bản cuốn sách này. Không những vì tầm quan trọng lịch sử mà còn vì tác động chính trị của nó đối với các đảng Cộng sản xta-lin-nít, trong đó có đảng Cộng sản Việt Nam. Không phải tình cờ mà đảng này, cho tới ngay, vẫn giấu giếm và ngăn cấm Báo cáo mật của Khơrútsốp về Xtalin đối với nhân dân trong nước. Cũng không phải tình cờ mà đảng này vẫn cấm ngặt không cho ai được nói tới Xtalin. Vì nói tới Xtalin là phải nói đến những sai lầm và tội ác của Xtalin; phải nói tới đường lối chính trị của đảng trong nhiều năm đã học đòi Xtalin, coi Xtalin là thần tượng và gương mẫu; phải nói tới phương pháp mà đảng đã áp dụng trong việc thủ tiêu các thành phần và các tổ chức đối lập với đảng, trong đảng cũng như ngoài đảng.
Tái bản cuốn sách này, chúng tôi giữ lại nguyên văn bản dịch của dịch giả Đỗ Tịnh, không sửa chữa. Bạn đọc sẽ thấy bài diễn văn của Khơrútsốp là văn nói, mộc mạc và ít chú trọng tới văn phong.
Chúng tôi cũng in lại nguyên văn bài Mấy lời nói đầu của Hà Cương Nghị. Viết từ hơn mười năm nay, bài này vẫn còn thích hợp với thời cuộc. Hà Cương Nghị đã đề cập một số vấn đề - hồi ấy ít ai lưu ý - hiện nay trở thành đề tài và đối tượng của các phong trào đòi dân chủ đa nguyên, đa đảng, đối lập với lập trường của đảng Cộng sản. Ấy là các vấn đề: đảng và nhà nước, độc tài một đảng, chuyên chính vô sản, tập trung dân chủ v.v...
Cũng trong bài Mấy lời nói đầu, tác giả nêu lên hai nhận định, hồi ấy ít ai quan tâm. Một, những sai lầm và tội ác của Xtalin mà Khơrútsốp vạch ra, vẫn còn thiếu sót một phần lớn. Khơrútsốp chỉ nói tới giai đoạn cuối đời Xtalin từ năm 1937, nhưng ‘‘bỏ quên’’ những giai đoạn trước đó, khi 90% đồng chí thân cận của Lênin [Lénine] bị giết hại. Vì thế, những người này chưa được phục hồi danh dự. Hai, sự ‘‘cải tổ’’ do ban lãnh đạo đảng Cộng sản Liên Xô đứng ra chủ trương, thực ra chỉ là một biện pháp tự bảo vệ của giới quan liêu để tồn tại. Nó không thể dẫn tới dân chủ, càng không thể dẫn tới sự tái thiết nền dân chủ Xô-viết mà chỉ có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chính quyền quan liêu mới thực hiện nổi. Mỗi bước ‘‘cải tổ’’ sẽ tạo ra những điều kiện dẫn tới sự sụp đổ của chế độ.
Sáu năm trôi quan. Nhận định thứ nhất đã được thời cuộc gần đây chứng minh: năm 1988, ba năm sau khi lên chính quyền, Goócbatrốp [Gorbatchev] đã bắt buộc phải trở lại vấn đề những tội ác của Xtalin. Dưới áp lực của dư luận, Bộ Chính trị của đảng Cộng sản Liên Xô đã phải tuyên bố xóa án cho Dinôviép [Zinoviev], Bukharin [Boukharine] và hầu hết những đồng chí kỳ cựu của Lênin. Trừ một nạn nhân quan trọng nhất, gần gũi nhất của Lênin về mặt tư tưởng là Lép Trốtxki [Léon Trotsky]! Vì sao? Vì Trốtxki không những là người đối lập quả quyết nhất với Xtalin mà còn là người đối lập không khoan nhượng với toàn thể đẳng cấp quan liêu đang nắm giữ chính quyền ở điện Cơremlanh. Quan liêu chấp thuận ‘‘cải tổ’’, nhưng họ không chấp nhận sự đầu hàng!
Nhận định thứ hai cũng đã được thực tế kiểm chứng: chính sách ‘‘cải tổ’’ của Góocbatrốp không những đã thất bại như Khơrútsốp thời kỳ 1956 mà nó còn kéo theo sự sụp đổ của Liên Xô và tất cả các nước ‘‘xã hội chủ nghĩa hiện thực’’ ở Đông Âu. Sự sụp đổ này không những làm thượng tầng kiến trúc sụp đổ mà còn kéo theo sự sụp đổ của hạ tầng cơ sở do cách mạng tháng Mười dựng nên; giờ đây, khẩu hiệu của giới quan liêu là Trở về với chế độ tư bản!
Vì không có một cuộc cách mạng chính trị do quần chúng lao động đứng lên lật đổ quan liêu, lập lại nền dân chủ Xô-viết của cách mạng tháng Mười, sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã mang hình thức một cuộc ‘‘sụp đổ nội tại’’ (implosion) tự trong lòng chế độ quan liêu. Hàng ngũ quan liêu bị phân tán, nhưng một bộ phận quan liêu vẫn nắm giữ được chính quyền, mặc dầu chính quyền này lệ thuộc phần nào vào lá phiếu của dân chúng.
Đứng về phương diện chính trị, dầu sao đây cũng là một bước tiến bộ. Nhân dân Liên Xô từ nay thoát khỏi chế độ độc tài đẫm máu do Xtalin dựng nên. Bây giờ, họ có cơ hội để nhận xét, lựa chọn, thử nghiệm: chế độ nào thích hợp với quyền lợi và nguyện vọng của họ!
Đứng về phương diện lịch sử, đây là một hiện tượng hoàn toàn mới lạ, chưa từng có. Một chuyển biến ngược chiều. Mọi sự hầu như đều trở về điểm xuất phát. Tương lai nước Nga và các nước Đông Âu sẽ ra sao? Chưa ai có thể quyết đoán. Một điều chắc chắn là sự chuyển hóa các nước này thành các chế độ tư bản và dân chủ như các xứ Tây phương không phải là điều dễ dàng như nhiều người tưởng. Nhiều triệu chứng cho thấy sự thiết lập một nền dân chủ - dầu là dân chủ tư sản - ở những xứ này vẫn còn bấp bênh. Chưa có dấu hiệu gì bảo đảm cho sự thành công của nó.
Tái bản cuốn sách này, chúng tôi mong cống hiến các đảng viên chân chính của đảng Cộng sản Việt Nam một bằng chứng về Xtalin và chủ nghĩa xta-lin-nít, để họ có điều kiện suy ngẫm và tìm hiểu: vì đâu Liên Xô và các xứ Đông Âu đã sụp đổ như ngày nay?
Chúng tôi mong cống hiến các độc giả một tài liệu để nhận xét sự quái đản của hiện tượng Xtalin, là hiện tượng tiêu biểu cho tư duy và quyền lợi của đám quan liêu. Nó không dính líu gì tới chủ nghĩa mác-xít, là chủ nghĩa nhân bản, nhằm mục tiêu giải phóng lao động và các tầng lớp nhân dân bị áp bức và bóc lột.
Ước mong cuốn sách này sẽ tới tay mọi người, nhất là tới tay đông đảo đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam, gia nhập đảng vì muốn đấu tranh cho một lý tưởng cao đẹp!
Nguyễn Tiến Cơ
Paris, ngày 10 tháng Giêng 1994
(1) Tựa dề nguyên thủy của bản báo cáo là Về tệ sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó.
MẤY LỜI NÓI ĐẦU (Cho lần xuất bản thứ nhất)
Dưới sức nặng những tội ác của y, Xtalin sẽ biến mất trên sân khấu với tư cách kẻ đào mồ chôn vùi cách mạng và có bộ mặt ghê tởm nhất trong lịch sử.

Lép Trốtxki (1937)
Cách đây 26 năm, vào cuối tháng 2-1956, có một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đã xảy ra ở Liên Xô và trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đó là bản Báo cáo mật của Khơrútsốp - Bí thư thứ nhất Ban Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô - đọc trong dịp Đại hội lần thứ XX của đảng.
Bản báo cáo này gọi là ‘‘mật’’ vì nó được đọc trong phòng kín. Ngoài các đại biểu Liên Xô, không ai được có mặt, kể cả các đại biểu những đảng Cộng sản ‘‘anh em’’. Khơrútsốp nói: ‘‘Việc gì cũng có giới hạn của nó’’, ‘‘không được giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù.’’
Tuy nhiên, bản báo cáo này đã được phát riêng cho trưởng đoàn các phái đoàn anh em(1). Các lãnh tụ cộng sản như Tôliati [Togliatti] (Ý), Thorez (Pháp), Chu Đức (Trung Hoa), Trường Chinh (Việt Nam), v.v... đều được biết. Những người này khi trở về nước, có người chối cãi sự thật như Thorez, có người công nhận sự thật như Tôliati; nhưng không ai can đảm đem sự thật ra thông báo trước các đảng viên của đảng. Riêng có một nhà lãnh đạo Ba Lan(2) đã ngầm đem phát hành trong nội bộ đảng Cộng sản Ba Lan, gây ra một cuộc thảo luận sôi nổi trong hàng ngũ đảng này. Một bản của báo cáo đó lọt vào tay cục tình báo C.I.A. Mỹ ở Ba Lan. Tờ New York Times (Mỹ) nhận được và dịch đăng trên số báo ra ngày 16-3-1956. Tiếp sau là tờ Le Monde ở Pháp. Và chỉ trong vòng hai tháng, các báo chí tư sản toàn thế giới đều đăng tin. Ở Pháp hồi đó, tờ Tiếng thợ do Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp chủ trương có trích dịch và viết bài bình luận.
Bản báo cáo của Khơrútsốp là một văn kiện có một không hai trong lịch sử phong trào lao động. Nó là bản cáo trạng buộc tội Xtalin, người đã cầm đầu Liên Xô và được phong trào lao động thế giới tôn sùng trong ba chục năm ròng. Nó không những chỉ vạch ra những sai lầm về chính trị; điều quan trọng nhất là nó đã tố giác Xtalin về tội bạo ngược, giết hại hàng vạn, hàng triệu(3) người vô tội, trong đó một số đông là cộng sản. Lịch sử từ thời đại Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc, chưa từng có vụ thảm sát nào đại quy mô và được che đậy hàng chục năm như thế. Ngay như vụ Hítle [Hitler] thủ tiêu dân tộc Do Thái cũng chưa tới mức độ trầm trọng như Xtalin. Mà sự tàn ác của Hítle là thế nào thì dư luận đều đã biết ngay trong thời Hítle còn sống.
Những ai được biết tiểu sử của Xtalin do các đảng Cộng sản thế giới tuyên truyền hàng chục năm sẽ thấy đây là một bản cáo trạng phá bỏ mọi truyền thuyết mà người ta đã dựng nên xung quanh con người Xtalin. Mặc dầu vậy, theo nhận xét của chúng tôi, cáo trạng này vẫn còn nhiều chỗ thiếu sót, phiến diện, hoặc cố tình thiếu sót.
Trốtxki và phong trào Đệ tứ Quốc tế - trong ba mươi năm chính quyền Xtalin - đã từng vạch ra những điều mà ngày nay Khơrútsốp đưa ra ánh sáng. Bạn đọc chỉ cần coi những cuốn Xtalin, Những tội ác của Xtalin (Les Crimes de Staline), v.v... của Trốtxki hay những sách của Víchto Xécgiơ [Victor Serge] viết về Xtalin, sẽ thấy rõ. Nhưng dư luận thường chỉ coi đó là ‘‘sự tranh chấp đảng phái’’. Ngày nay, chính Khơrútsốp, người thân cận Xtalin trong hàng chục năm, chính Khơrútsốp, người kế nghiệp Xtalin, lại đứng ra buộc tội Xtalin. Dầu Khơrútsốp chỉ mới vạch ra một phần sự thực - người ta không thể đòi hỏi nhiều hơn ở một người đã từng là cộng sự gần gũi của Xtalin - nhưng một phần sự thật này cũng đủ chứng tỏ vai trò tiêu cực và tội ác của Xtalin mà Trốtxki và phong trào Đệ tứ đã nói đến.
Trái với truyền thuyết hàng mấy chục năm, trình bày Xtalin như một lãnh tụ ‘‘đại tài’’, một chính trị gia và lý thuyết gia ‘‘lỗi lạc’’, một chiến lược gia ‘‘siêu phàm’’, ‘‘kiệt xuất’’, v.v..., Xtalin, thực ra, đã phạm vô số sai lầm chính trị nghiêm trọng, ‘‘gây rất nhiều tổn thất’’ cho đảng Cộng sản và nhân dân Liên Xô.
(1) Đại diện các đoàn đại biểu cộng sản được triệu tập đến điện Cơremlanh, mỗi người được phát một bản sao văn kiện, nhưng sau khi đọc xong phải trả lại cho Ban Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô. Ngay ngày hôm sau, nhiều báo chí các nước không cộng sản đã đăng tải và bình luận những nhận định chính của bản báo cáo ‘‘mật’’ này. (Xin xem cuốn Tiểu sử chính trị của Khơrútsốp của sử gia Liên Xô Rôi Métveđép [Roj Medvedev])
(2) Theo lời Khơrútsốp viết trong Hồi ký, một thành viên ban lãnh đạo Ba Lan tên là Dambơrốpxki [Zambrowski] đã tiết lộ bản báo cáo trong đảng Cộng sản Ba Lan.
(3) Nhiều sử gia đứng đắn ước lượng số nạn nhân của Xtalin lên đến mười triệu trong vòng ba mươi năm.
Một trong những sai lầm hết sức to lớn là Xtalin đã coi thường họa phát-xít Đức, khiến quân đội Hítle đã tiến sâu vào nội địa Liên Xô một cách nhanh chóng. ‘‘Thử hỏi tại sao? Vì Xtalin, mặc dầu sự việc đã rành rành, vẫn tưởng chiến tranh chưa xảy ra.’’ Mặc dầu có nhiều mật tin báo cho biết Hítle sắp đem quân tràn qua biên giới, Xtalin vẫn tưởng ‘‘tất cả những điều này chỉ là hành động khiêu khích của vài đơn vị binh lính vô kỷ luật trong quân đội Đức, đòn giáng trả của chúng ta sẽ là cái cớ cho người Đức làm bùng nổ cuộc chiến’’. Ngoài ra, trước ngày chiến tranh diễn ra, Xtalin đã‘‘thủ tiêu nhiều người trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo quân sự và chính trị vào thời kỳ 1937-1941. Trong những năm đó, các cuộc đàn áp đã triệt hạ những tầng lớp cán bộ quân sự nhất định: hầu như từ đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng đến những lãnh đạo quân sự cấp cao nhất. Trong thời kỳ đó, các nhà lãnh đạo quân đội - từng kinh qua chiến trận ở Tây Ban Nha và Viễn Đông - đã bị thủ tiêu gần hết.’’
Những sai lầm nói trên đã dẫn tới ‘‘kết quả là ngay trong những ngày giờ đầu cuộc chiến, ở các vùng biên giới, kẻ thù đã phá hủy phần lớn không quân, pháo binh và các trang bị quân sự khác’’của Liên Xô. Cạnh đó, ‘‘chúng đã sát hại một phần đáng kể các cán bộ quân sự và phá hoại Bộ Tham mưu Quân sự’’ Xô-viết.
Trái với truyền thuyết ghi trong Tiểu sử của Xtalin, cho rằng ‘‘thiên tài lỗi lạc’’ của Xtalin đã tạo ra các chiến thắng về quân sự, cho rằng ‘‘đồng chí Xtalin đã thảo ra luận đề về những yếu tố thường xuyên quyết định vận mệnh chiến tranh’’, ‘‘đã nhận biết và làm thất bại những kế hoạch của địch’’, v.v..., Khơrútsốp nói: ‘‘Xtalin hoàn toàn không hiểu những sự kiện diễn ra ở trận tuyến’’, nhiều lần‘‘đưa ra các mệnh lệnh không căn cứ vào tình hình thực tế của trận tuyến, đưa lại rất nhiều tổn thất không tránh thể khỏi cho quân đội ta’’; đáng lẽ phải biết nhận xét tình hình quân sự trên một bản đồ quân sự, ‘‘Xtalin bày kế hoạch hành binh trên bề mặt một quả địa cầu dùng cho học trò’’.
Sau khi nhiều tỉnh lỵ thất thủ, Xtalin trở nên hoang mang dao động và ‘‘mất lòng tin’’; ‘‘trong một thời gian dài, trong thực tế Xtalin không điều khiển các cuộc hành quân, nói chung đồng chí ấy không làm gì cả’’. Sau này, nhờ ‘‘các đại tướng [...] biến đổi tình hình’’, các mặt trận được củng cố và mở cuộc phản công, lúc ấy, Xtalin mới trở lại lãnh đạo theo lời yêu cầu của Bộ Chính trị. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, Xtalin đã ‘‘đặt dấu hỏi về công trạng của nhiều nhà chỉ huy quân sự, những người đã có công đánh bại quân thù(1); đồng chí ấy không thể chấp nhận việc những công lao ở mặt trận lại có thể do người khác làm nên’’.
Một sai lầm khác nữa của Xtalin được vạch rõ trong bản báo cáo với nhiều dẫn chứng, là vấn đề nông nghiệp. Nông nghiệp Liên Xô chậm tiến vì mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng. Người phải chịu trách nhiệm là Xtalin, vì ‘‘Xtalin chẳng hiểu gì về thực trạng ở nông thôn’’. ‘‘Xtalin chỉ biết đất nước và nền nông nghiệp qua phim ảnh. Nhưng những bộ phim này đã tô điểm sự thực trong địa hạt nông nghiệp. Thậm chí, nhiều bộ phim còn miêu tả đời sống các nông trang tập thể dường như thịt gà thịt ngỗng đầy rẫy trên các bàn ăn sắp làm chân bàn đổ sụp’’. Khi đặt chương trình kế hoạch, ‘‘Xtalin không cần chú trọng đến những sự kiện và con số. Một khi Xtalin đã nói một điều gì, điều đó phải là như thế, bởi lẽ Xtalin là bậc ‘thiên tài’ và một thiên tài không cần tính toán, chỉ liếc mắt nhìn qua là đã có thể luận ra cách giải quyết mọi việc’’.
Một lỗi lầm nữa chẳng kém phần quan trọng là vấn đề xung đột với Nam Tư. Trong vấn đề này,‘‘Xtalin đã đóng một vai trò vô lý’’: ‘‘Không có một nguyên cớ đáng kể nào khiến ‘vụ’ này phát triển: hoàn toàn có thể tránh sự đoạn tuyệt với Nam Tư’’. Nhưng Xtalin đã tin là ‘‘chỉ cần lắc ngón tay út là Titô không còn nữa. Hắn sẽ đổ!’’ Liên Xô đã trả một giá đắt cho việc ‘‘lắc ngón tay út’’ của Xtalin. Xtalin đã quen ‘‘lắc ngón tay út’’ là mọi người đều phải đổ hoặc bị thủ tiêu. Nhưng ‘‘mặc dầu Xtalin ra sức lắc - chẳng những ngón út mà mọi thứ có thể lay chuyển khác -, Titô [Tito] vẫn không đổ’’. ‘‘Vì sao? Bởi lẽ ở trường hợp xung đột xảy ra với các đồng chí Nam Tư, sau lưng Titô có cả một nhà nước và một dân tộc đã trải qua trường học gian khổ của cuộc chiến đấu cho tự do và độc lập, một dân tộc ủng hộ những lãnh tụ của họ’’.
Trái với truyền thuyết trình bày Xtalin như một vị lãnh tụ hiền hậu, nhân ái, thương yêu cụ già, em trẻ, thương yêu nhân loại, v.v... (2), Khơrútsốp cho ta thấy Xtalin thực ra là một kẻ tàn ác, hai bàn tay đẫm máu; không những đẫm máu những người đối lập như Trốtxki, Bukharin, Dinôviép, v.v..., nhưng còn đẫm máu những bạn đồng hành của mình. Đây là một điều mà Khơrútsốp không thể chấp nhận được.
Khơrútsốp nói: ‘‘Cuộc điều tra đã cho thấy 98 người trong số 139 ủy viên chính thức và dự khuyết của Ban Trung ương do Đại hội thứ XVII bầu ra, nghĩa là 70 %, đã bị bắt bớ và bị xử bắn (phần đông vào những năm 1937- 38).’’ ‘‘Trong số 1956 đại biểu đại biểu chính thức và dự thính, 1108 người (nghĩa là đại đa số đại biểu Đại hội) bị bắt và bị kết án phản cách mạng.’’ Mặc dầu Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nói đến những vụ diệt trừ trước năm 1937-1938; mặc dầu Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nhắc lại vụ án Mạc Tư Khoa năm 1936, vụ án quan trọng nhất, trong đó 90% đồng chí lão thành thân cận nhất của Lênin (như Dinôviép, Camênhép [Kamenev], Bukharin, v.v...) bị giết hại cùng hàng ngàn, hàng vạn cán bộ và đảng viên đối lập; mặc dầu Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nêu ra vụ ám sát Trốtxki ở Mêhicô [Mexico] năm 1940 và các vụ giết hại những người trốt-kít trên khắp thế giới do chính sách xta-lin-nít - dù thế, những con số Khơrútsốp đưa ra cũng đủ chứng tỏ khủng bố đã lớn đến mức độ nào.
Những nạn nhân đều ‘‘thú nhận những tội không bao giờ họ vi phạm’’, ‘‘buộc tội chính mình và những người khác’’, ‘‘tự gán cho mình những tội tày đình và vô lý nhất’’. Vì sao? Vì họ ‘‘không chịu nổi những đòn tra tấn dã man’’. Phương pháp lấy khẩu cung là ‘‘đánh, đánh và đánh thêm nữa’’: ‘‘Người ta đã tạo ra những lời ‘thú tội’ như thế đó’’. Ở đây, Khơrútsốp đã giúp lịch sử giải luận vấn đề ‘‘thú tội’’ dưới thời Xtalin mà các sử gia và các nhà tâm lý như Cốtxle [Koestler](3) chỉ phóng đoán nhưng chưa tìm ra manh mối.
(1) Ý Khơrútsốp muốn nói đại tướng Giucốp đã bị truất chức.
(2) Xin xem bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu trong phần Phụ lục.
(3) Coi cuốn Le Zéro et L’ Infini (nguyên bản Anh ngữ: Darkness at Noon) của văn hào Áctu Cốtxlơ [Arthur Koestler].
Dưới thời Xtalin, nhiều vụ án giả tạo đã được dựng lên, như ‘‘vụ án Lêningơrát [Léningrad]’’, ‘‘vụ án Grudia [Grudia]’’, ‘‘vụ ám sát Kirốp [Kirov]’’, vụ bắt giam các bác sĩ ‘‘âm mưu đầu độc Xtalin’’, v.v... Đó là ‘‘những vụ bắt bớ đồng loạt hàng ngàn người, những vụ hành quyết không đem ra xét xử tại tòa án và không qua thẩm xét thông thường’’. Ai đã âm mưu ám sát Kirốp, một thành viên cao cấp của Bộ Chính trị? Thủ phạm chẳng ai xa lạ mà chính là Xtalin, với mục đích diệt trừ một đối thủ lợi hại và đồng thời mượn cớ vu khống để diệt trừ những người đối lập mình(1). Ở đây, chúng ta thấy phương pháp không khác Hítle đốt cháy tòa nhà Quốc hội Đức rồi mượn cớ đổ tội cho cộng sản. Nhưng Hítle nhân danh phát-xít diệt trừ cộng sản, còn Xtalin nhân danh cộng sản diệt trừ những người cộng sản. Vụ bắt bớ các bác sĩ ‘‘âm mưu đầu độc Xtalin’’ cũng không ngoài ý nghĩa vụ ám sát Kirốp. Thông qua vụ này, Xtalin muốn mượn cớ ‘‘thanh toán tất cả các thành viên cũ của Bộ Chính trị’’. Khơrútsốp nói: ‘‘Không loại trừ khả năng nếu Xtalin còn nắm chính quyền thêm vài tháng nữa, có lẽ các đồng chí Môlôtốp [Molotov] và Micôian [Mikoian] không thể đọc tham luận ở Đại hội(2) hôm nay’’. Đó là ‘‘một vụ ngụy tạo từ đầu chí cuối’’. Cũng may Xtalin chết sớm, ‘‘không có đủ thì giờ để đi tới đích’’ và nhờ đó ‘‘các bác sĩ mới còn sống sót’’.
Xtalin đã tạo ra khái niệm ‘‘kẻ thù của nhân dân’’, một quan niệm được sử dụng một cách tinh vi. Dựa trên quan niệm này, người ta không cần dẫn chứng những sai lầm về tư tưởng của cá nhân hay đoàn thể; chỉ cần gán cho đối thủ nhãn hiệu ‘‘kẻ thù của nhân dân’’ là đủ. ‘‘Tự bản thân quan niệm ‘kẻ thù của nhân dân’, trong thực tế, đã loại bỏ khả năng mở ra bất kỳ một cuộc đấu tranh tư tưởng nào, hoặc ngăn cản người khác không được phát biểu ý kiến về một vấn đề nhất định, ngay cả khi vấn đề ấy là thực tiễn, chứ không mang tính lý luận’’.
Khơrútsốp nói: ‘‘Sự thật, khủng bố không nhắm mục đích loại trừ những tàn tích của giai cấp bóc lột đã thất bại, nó chỉ chống lại những viên chức trung thực của đảng và nhà nước Xô-viết. Đối với họ, người ta đã ngụy tạo ra những lời buộc tội vu khống và phi lý như bảo họ là ‘giả dối’, ‘gián điệp’, ‘phá hoại’, ‘chuẩn bị những cuộc mưu sát’ giả định với những phương tiện bất hợp pháp v.v...’’
Trái với truyền thuyết cho rằng Xtalin là người mác-xít, am hiểu về vấn đề dân tộc, biết giải quyết vấn đề này trên cơ bản tự quyết bình đẳng bình quyền của các dân tộc, Khơrútsốp cho ta biết vào năm 1943, Xtalin đã đưa ra một quyết định ‘‘nhằm đày ải dân tộc Karatchai khỏi những mảnh đất họ đang cư trú’’. Cùng năm đó, ‘‘tất cả dân chúng nước Cộng hòa Tự trị Canmúc [Kalmouks] cũng chịu chung một số phận’’. Năm 1944, ‘‘tất cả dân Balkare bị đuổi khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Tự trị Kabardo-Balkare đến các vùng khác’’(3). Khơrútsốp đặt câu hỏi: ‘‘Không hiểu nổi tại sao có thể buộc tội phản bội cho cả một dân tộc, kể cả phụ nữ, trẻ nhỏ, người già, người cộng sản, đoàn viên Cômxômôn [Komsomol], v.v...; làm sao có thể áp dụng các biện pháp khủng bố trả đũa với cả một dân tộc - khiến họ phải đau khổ và chịu đựng - vì những hành vi của một số người hay một số tập đoàn chống lại ta?’’
Trái với những truyền thống trình bày Xtalin như người kế nghiệp xứng đáng của Lênin, Khơrútsốp vạch rõ sự khác biệt giữa Lênin và Xtalin: khác biệt về nhân cách, về phương pháp hoạt động, về chính trị. Để chứng thực, Khơrútsốp cho phát trong phòng họp Đại hội 16 tài liệu, trong đó có tờ Di chúc chính trị của Lênin mà Xtalin đã giấu kín đối với đảng trong vòng ba chục năm. Những tài liệu đó vạch rõ sự bất đồng chính kiến giữa Lênin và Xtalin. Đặc biệt, về vấn đề dân tộc Grudia, Lênin trách cứ Xtalin đã thi hành một chính sách quốc gia ‘‘Đại Nga’’. Trong một tài liệu(4) đề ngày 5-3-1923, Lênin yêu cầu Trốtxki thay mình bảo vệ trước Ban Trung ương lập trường đối lập với Xtalin và Décginxki [Dzerjinski] vì hai người này có thái độ ‘‘ngược đãi’’ dân tộc Grudia.
Trong tờ Di chúc chính trị của Lênin, đoạn bổ sung đề ngày 4-1-1923 là tư liệu quan trọng nhất. Trong đó, Lênin đề nghị Ban Trung ương ‘‘chuyển Xtalin khỏi trọng trách’’ tổng bí thư đảng và‘‘đề cử vào vị trí của Xtalin một đồng chí khác, có bản tính tốt hơn so với Xtalin’’. Hai tháng sau, ngày 5-3-1923, Lênin viết cho Xtalin một bức thư đoạn tuyện: ‘‘Tôi yêu cầu đồng chí suy nghĩ kỹ xem đồng chí có sẵn sàng rút lại những lời đã nói và xin lỗi vợ tôi, hay là chúng ta đoạn tuyệt mọi quan hệ’’.
Sự thật lịch sử là như thế. Nhưng sau này, Xtalin đã mạo nhận là người tiếp nối sự nghiệp của Lênin. Trong cuốn Tóm lược tiểu sử của mình, Xtalin đã tự tay viết ra những câu: ‘‘Xtalin là người kế tục xứng đáng sự nghiệp của Lênin, hoặc - như người ta thường nói trong đảng -, Xtalin là Lênin của thời đại ngày nay.’’ Cũng trong cuốn sách này, Xtalin còn tự bổ sung: ‘‘Đồng chí [Xtalin] không hề cho phép mình kiêu ngạo, khoe khoang hay tán tụng cá nhân mình’’. Ngoài những giả dối đó, Xtalin còn có những hành vi khác ‘‘không thể chấp nhận được’’, như phao tin đồn nói xấu nguyên soái Giucốp [Joukov], hay đặt ở nhà nguyên soái Vôrôsilốp [Vorochilov] ‘‘một dụng cụ đặc biệt, có thể ghi âm tất cả các cuộc nói chuyện’’.
Giả dối, xuyên tạc, vu khống, man trá, mạo nhận, đó là những đặc tính của Xtalin mà Khơrútsốp đã lần lượt vạch rõ trong bản Báo cáo mật. Khơrútsốp nói: ‘‘Như mọi người đều biết, cuốn ‘Tóm tắt lịch sử đảng Cộng sản (bôn- se-vích) Liên Xô’ đã được một ủy ban của Ban Trung ương thảo ra’’. Thế mà, Xtalin đã ký tên mình: trong bản in năm 1938, người ta thấy mấy chữ ‘‘do đồng chí Xtalin viết’’ trên bìa sách. Khơrútsốp đặt câu hỏi: ‘‘Một biến đổi tuyệt vời đã khiến một công trình tập thể thành cuốn sách do Xtalin viết?’’
Trái với truyền thống của các đảng Cộng sản trên thế giới coi cuốn Yếu lược lịch sử đảng Cộng sản (bôn-se- vích) Liên Xô là cuốn sách gối đầu giường của các đảng viên và cán bộ(5), Khơrútsốp nói nó chứa đựng nhiều sai lầm và xuyên tạc, cần phải viết lại(6). Trong cuốn sách này, Xtalin đã ‘‘biến đổi toàn bộ giai đoạn lịch sử sau cách mạng tháng Mười của đảng Cộng sản vinh quang’’, đã ‘‘tỏ ra thiếu kính trọng đối với kỷ niệm về Lênin’’. Cuốn sách ‘‘chủ yếu chỉ nói về Xtalin, về những bài diễn văn, những bản báo cáo của đồng chí ấy’’ và ‘‘không hề có một ngoại lệ, dù nhỏ mọn nhất: mọi sự việc đều gắn liền với tên tuổi Xtalin’’. ‘‘Mọi biến cố đều được trình bày như thể Lênin chỉ đóng vai trò thứ yếu, ngay cả trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười’’. Sự thực, ‘‘các đồng chí có mặt ở đây, ít ai nghe và biết đến Xtalin trước năm 1924’’. Ở đây, Khơrútsốp ‘‘quên’’ không nói thêm, trong cuộc cách mạng tháng Mười, người ta chỉ thấy cụm từ luôn đi liền nhau là ‘‘Lênin và Trốtxki’’(7). Xtalin đã chiếm đoại vai trò của Trốtxki trong việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa vũ trang và sáng lập Hồng quân Liên Xô.
(1) Theo báo cáo của Khơrútsốp thì Kirốp bị Xtalin thủ tiêu, nhưng theo những tiết lộ mới nhất rút ra từ thư khố của K.G.B thì trường hợp này dường như không phải vậy; Kirốp thiệt mạng trong một vụ xung đột tình ái. Tuy nhiên, ý muốn thường xuyên loại trừ các đối thủ là rõ ràng trong suốt cuộc đời Xtalin.
(2) Tức Đại hội lần thứ XX của đảng Cộng sản (bôn-se-vích) Liên Xô.
(3) Ba mươi năm sau, ở Campuchia, Pôn Pót [Pol Pot] đã theo gương Xtalin thực hiện chính sách cưỡng bức di chuyển dân sự và diệt chủng.
(4) Xin xem bản dịch nguyên văn tài liệu này ở phần Phụ lục.
(5) Trong cuốn Những chặng đường lịch sử, đại tướng Võ Nguyên Giáp coi đây là tài liệu cơ bản huyến luyện của đảng Cộng sản Việt Nam.
(6) Cuốn sách này đã được viết lại, nhưng vẫn còn nhiều đoạn sai lầm và xuyên tạc. Xin xem tạp chí Nghiên cứu số 6, tháng 6-1981 do Nhóm trốt-kít Việt Nam tại Pháp xuất bản.
(7) Khi viết về cách mạng tháng Mười Nga, nhiều sử gia đứng đắn đều coi Lênin và Trốtxki là hai nhà lãnh đạo quan trọng nhất.
Sự biến đổi công trình một người khác thành công trình của mình còn biểu hiện trong thời kỳ Thế chiến thứ hai. Khơrútsốp nói: ‘‘Khi xem các tiểu thuyết, phim ảnh và những công trình ‘khoa học’ về lịch sử của chúng ta, ta thấy Xtalin có vai trò hầu như không thể tưởng tượng nổi trong cuộc chiến tranh vệ quốc’’. ‘‘Xtalin đã gieo rắc trong đầu óc quần chúng ý nghĩ rằng mọi chiến thắng của đất nước Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đều do lòng quả cảm, sự can đảm và thiên tài lỗi lạc của Xtalin’’. Sự thực, ‘‘những chiến thắng ấy là kết quả sự cố gắng vô biên và công tác của toàn thể nhân dân và đảng, và tuyệt nhiên không phải thành quả lãnh đạo của Xtalin như người ta từng khẳng định trong thời kỳ sùng bái cá nhân’’.
Dưới thời Xtalin, sự sùng bái cá nhân đã ‘‘đạt đến mức khốc hại’’, ngoài sức tưởng tượng. Người ta đã tán dương Xtalin bằng đủ mọi cách và chính Xtalin cũng tự viết ra những câu tán tụng mình. Khơrútsốp nói: ‘‘Cuốn ‘Tóm lược tiểu sử Xtalin’ ấn hành vào năm 1948 [...] là thứ xu nịnh ghê tởm nhất, là điển hình cho việc làm thế nào để biến một người - Xtalin - thành một vị thánh sống, một hiền nhân không thể sai nhầm, một ‘lãnh tụ vĩ đại nhất’, một ‘chiến lược gia đại tài của mọi thời đại và mọi dân tộc’. Cuối cùng, người ta không tìm nổi từ ngữ để tâng bốc Xtalin lên tận chân mây’’. Trong những vần thơ của bản quốc thiều, ‘‘toàn thể sự nghiệp của đảng lê-nin-nít trên các lĩnh vực giáo dục, chỉ đạo và động viên đều thuộc về Xtalin’’. Khơrútsốp tuyên bố cần phải viết lại lời cho bản quốc thiều Liên Xô.
Xtalin còn ‘‘đặc biệt hào phóng khi tự tặng cho mình những lời khen ngợi về thiên tài quân sự, về tài năng cầm quân’’. ‘‘Xtalin thích coi bộ phim ‘Năm 1919 bất diệt’, trong đó ta thấy Xtalin đứng trên bực chiếc tàu hỏa bọc thép(2) và đánh tan quân thù với thanh đoản kiếm của mình’’. ‘‘Nói đến những sự kiện của cuộc cách mạng tháng Mười và thời nội chiến, người ta tạo ta cảm tưởng dường như Xtalin đóng vai trò chính yếu, dường như bất kể lúc nào và ở đâu, Xtalin luôn luôn nhắc nhở Lênin phải làm gì và làm bằng cách nào. Thật là một sự mạ lị Lênin’’.
Khơrútsốp đặt câu hỏi: ‘‘Đã ở đâu và khi nào, người ta thấy một lãnh tụ tự tán tụng mình như thế chưa?’’ Khơrútsốp ‘‘quên’’ không đặt câu hỏi: tại sao ban lãnh đạo đảng Liên Xô - trong số đó có cả Khơrútsốp - và tại sao các lãnh tụ Cộng sản trên thế giới đã xướng họa trong việc này? Không những đã xướng họa, họ còn thi nhau đưa Xtalin lên đình cao của vinh dự! Chỉ cần đọc những tài liệu bằng tiếng Pháp của Maurice Thorez, Jacques Duclos, hay tiếng Việt của các ông Trường Chính, Tố Hữu, v.v...(3) trong thời Xtalin cũng đủ biết tệ sùng bái Xtalin đã tiến tới bực nào. Hiện tượng sùng bái cá nhân không những chỉ xảy ra ở Liên Xô mà còn phát triển mạnh mẽ trong hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới.
Sùng bái cá nhân đã tạo ra ‘‘lũ người vu khống và mưu lợi thuộc đủ mọi hạng’’. Nó cũng tạo ra những Bêria [Beria] lớn nhỏ ‘‘đã dẫm lên không biết bao nhiêu xác chết để leo ngày một cao lên các bậc thang chính quyền’’. Sùng bái cá nhân Xtalin đã tạo ra nỗi khiếp sợ, kinh hoàng. Xtalin ‘‘chỉ cần lắc ngón tay út’’ là đối thủ không còn trên trần gian nữa. Người ta sợ Xtalin đến nỗi một hôm, Bunganhin [Boulganine] bảo Khơrútsốp: ‘‘Đôi khi, ai đó được Xtalin mời đến gặp mặt như một người bạn. Nhưng lúc đối diện với Xtalin, anh ta không biết sau đó mình sẽ đi đâu: về nhà mình hay vào nhà tù’’. Một sự khiếp đảm như thế đã khiến ‘‘các ủy viên Bộ Chính trị ở trong tình thế rất khó khăn’’. Sự sùng bái cá nhân đã ‘‘tạo ra tổ chức hành chính tê liệt, dẫn đến những đường lối lệch lạc đủ thứ: che dấu thiếu sót, tô son điểm phấn sự thực. Trong dân chúng, có đầy rẫy những kẻ nịnh hót, bợ đỡ, chuyên nghề lừa phỉnh và đánh lạc hướng’’. Trong đảng có ‘‘nhiều đảng viên dè dặt trong công việc, trở nên quá thận trọng trong lời nói và việc làm, sợ mọi thứ đổi mới. Họ sợ ngay cả cái bóng của mình và kém hẳn sáng kiến trong công tác’’. ‘‘Ngay cả trong những cuộc hội thảo nhỏ, các cán bộ đảng cũng đọc những bài diễn văn viết sẵn’’, kết quả ‘‘đem lại hiểm họa: công tác đảng và Xô-viết trở nên hình thức, toàn thể bộ máy tổ chức bị quan chế hóa’’.
Tới đây, ta thấy bản cáo trạng của Khơrútsốp không những vạch rõ vai trò tiêu cực và tội ác của Xtalin, nó còn nêu ra thực trạng của xã hội Liên Xô. Ấy là sự quan chế hóa toàn thể bộ máy đảng và nhà nước. Vô tình, Khơrútsốp đã đánh một đòn mạnh vào hệ thống quan liêu, xây dựng trên căn bản ‘‘một đảng và đảng một khối’’, xây dựng trên quan niệm ‘‘chuyên chính một đảng’’ thay cho ‘‘chuyên chính vô sản’’, ‘‘tập trung quan liêu’’ thay cho ‘‘tập trung dân chủ’’. Vô tình, Khơrútsốp làm đảo lộn tất cả những truyền thống của các đảng Cộng sản đã thấm nhuần chủ nghĩa xta- lin-nít trong ba mươi năm. Hình như cũng hiểu rõ tầm quan trọng và tác động tai hại của bán báo cáo, Khơrútsốp cố ý bào chữa cho Xtalin bằng lập luận sau: ‘‘Trong mọi hành động, Xtalin tuân thủ bởi lợi ích của giai cấp công nhân, lợi ích của người lao động và của thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta không thể nói những hành động của Xtalin là hành động của một kẻ chuyên quyền điên rồ. Xtalin tin chắc đó là việc làm cần thiết cho quyền lợi của đảng, của quần chúng cần lao, để bảo vệ những thành quả của cách mạng. Thảm trạng chính là ở chỗ đó!’’
(2) Chíếc xe lửa này là một sự kiện lịch sử. Nhưng người ở trên xe không phải là Xtalin mà là Trốtxki và Bộ Tham mưu Hồng quân trong cuộc nội chiến.
(3) Về sự tán dương Xtalin, nhà thơ Nêruđa [Neruda] đã tự phê bình. Nhưng các thi sĩ khác như Aragông [Aragon] và Tố Hữu, cho tới nay vẫn chưa tự chỉ trích.
Những lời báo chữa nói trên có chỗ khó hiểu là Xtalin đã bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản bằng phương pháp đày ải và giết hại người lao động, bảo vệ chủ nghĩa cộng sản bằng phương pháp đày ải và giết hại những người cộng sản. Và Xtalin đã áp dụng những biện pháp tàn ác ấy - không phải chỉ một vài trường hợp lẻ loi mà trên một quy mô vĩ đại, chưa từng thấy trong lịch sử - đối với hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người vô tội. Nói như Khơrútsốp, người ta có thể bảo vua chúa thời xưa giết hại nhân dân vì quyền lợi nhân dân, Hítle giết hại người Do Thái vì quyền lợi người Do Thái. Và Hítle không phải kẻ ‘‘chuyên quyền điên rồ’’ vì khi chết, buông hai bàn tay, cũng như Xtalin, Hítle có gia tài quyền lợi riêng biệt gì của mình đâu? Một sự giải thích như thế hoàn toàn ngược với học thuyết mác-xít. Vì trong lịch sử xã hội, chưa có một lãnh tụ hay một tổ chức nào đấu tranh bảo vệ một giai cấp bằng cách chống lại giai cấp đó. Sự thực, Xtalin không bảo vệ quyền lợi giai cấp vô sản và cũng không bảo vệ quyền lợi chủ nghĩa cộng sản như Khơrútsốp nói. Xtalin là sản phẩm của chế độ chính trị quan liêu, Xtalin chỉ bảo vệ quyền lợi một tầng lớp nhất định: tầng lớp quan liêu. Nhưng ta không thể đòi hỏi ở Khơrútsốp một sự diễn giải mác-xít như thế, vì Khơrútsốp là một thành viên trong đám quan liêu.
Mặc dầu những lời báo chữa ấy của Khơrútsốp cho Xtalin, các lãnh tụ cộng sản các nước - khi được biết bản Báo cáo mật - nhận thấy đó là một biến cố quan trọng, có thể sẽ gây ra tai họa khôn lường. Họ hoang mang, hoảng hốt, tìm cách hạn chế mối họa, nhưng mỗi người hành động khác nhau. Có lãnh tụ như Tôliati của đảng Cộng sản Ý, sau mấy ngày do dự, tuyên bố bản báo cáo có thực. Nhưng ông ta phê bình lời giải thích của Khơrútsốp, dựa trên nguyên nhân sùng bái cá nhân không phải là một sự ‘‘giải thích mác-xít’’. Trong bài phỏng vấn đăng trên tờ báo Nouavi Argomenti, Tôliati nêu ra câu hỏi về ‘‘sự suy đồi của giới quan liêu ở Liên Xô’’. Hai đảng Cộng sản Anh và Mỹ công nhận sự tồn tại của bản báo cáo, nhưng yêu cầu một sự giải thích đầy đủ hơn. Tờ Daily Worker của đảng Cộng sản Mỹ ngày 6-6-1956 đã trích đăng nhiều đoạn của bản báo cáo và phê bình ban lãnh đạo Liên Xô ‘‘mắc sai lầm’’ là không đem ra phát hành công khai. Thêm nữa, họ phê bình Khơrútsốp đã ‘‘quên không nhắc tới những tội ác của Xtalin về việc thủ tiêu những người Do Thái ở Liên Xô.’’ Ngày 18-6-1956, Eugène Denis, tổng bí thư đảng, đặt câu hỏi về ‘‘trách nhiệm chung của các nhà lãnh đạo ở Liên Xô’’ trong thời kỳ sùng bái cá nhân. Tại Pháp, tổng bí thư đảng Cộng sản Maurice Thorez chối cãi sự thực bằng mấy danh từ khôn khéo: ‘‘Bản báo cáo mà người ta bảo là của Khơrútsốp’’(1).
Nhưng dần dần, năm này qua năm khác, hầu hết các đảng Cộng sản trên thế giới, trực tiếp hoặc gián tiếp, tiếp tục nhau công nhận sự tồn tại của bản báo cáo. Nhưng chưa một đảng nào đem ra ấn hành, phân phát cho đảng viên và mở cuộc thảo luật trong nội bộ. Mấy năm gần đây, nhiều sử gia và lãnh tụ cộng sản Pháp ‘‘tự phê bình’’ đảng mình đã không công nhận sớm bản báo cáo này, ‘‘gây nhiều tai hại cho sự phát triển của đảng’’. Hiện nay, chỉ còn mấy đảng như đảng Cộng sản Albanie, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên là còn tiếp tục khước từ sự thực. Bởi lẽ rút dây động rừng, họ sợ hậu quả sẽ gây ra những tai họa như ở các xứ dân chủ nhân dân Đông Âu.
Mặc dầu bản Báo cáo mật của Khơrútsốp chỉ nói về các vấn đề nội bộ Liên Xô; mặc dù nó không nói tới phong trào cộng sản các nước, không nói tới những sai lầm và tội ác của Xtalin trong việc lãnh đạo Đệ tam Quốc tế trong vòng hai mươi năm; mặc dù nó không nói tới những nguyên nhân thất bại của các cuộc cách mạng Trung Hoa 1925-1927, cách mạng Tây Ban Nha 1936, v.v... và các cuộc thanh trừng đẫm máu trong các đảng Cộng sản do Xtalin và các bộ hạ gây ra - dầu thế, bản báo cáo này đã có một tác động mạnh mẽ, gây ra một loạt các biến động quan trọng mà chính Khơrútsốp cũng không ngờ tới.
Năm 1956, khi bản báo cáo bị tiết lộ, dân chúng các nước Ba Lan, Hung Gia Lợi, Tiệp Khắc - trong đó có nhiều đảng viên cộng sản - kéo nhau xuống đường, đập phá các tượng đài, chân dung Xtalin, đòi thả các lãnh tụ và đảng viên cộng sản cùng các chính trị phạm bị bắt giam, đòi rửa án cho những người vô tội. Nhờ thế, các lãnh tụ bị giết oan như Roicơ Látxlô [Rajk László], Cốtxtốp [Kostov], Clêmăngti [Clémentis], v.v... được phục hồi danh dự. Những lãnh tụ khác bị tù oan như Gômunca [Gomulka], Áctu Lônđôn [Arthur London](2), v.v... được thả tự do. Cho tới nay, tác động của bản báo cáo Khơrútsốp vẫn chưa chấm dứt. Những cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Tiệp Khắc (năm 1968) và Ba Lan (từ năm 1981 cho đến nay) không phải là điều tình cờ: nó bắt nguồn từ bản cáo trạng Xtalin năm 1956.
Một câu hỏi được đặt ra: một nước được coi là có cuộc cách mạng vô sản, giai cấp tư sản không còn nữa, giới lao động đã nắm chính quyền, làm sao có thể xảy ra những vụ tàn sát khổng lồ như thế? Làm sao lại có những vụ vu oan giá họa, ăn gian nói dối, che giấu sự thực, thay đổi lịch sử như thế? Làm sao chính quyền lại lọt vào tay một cá nhân duy nhất và cá nhân này lại dựng nên một chế độ độc tài đẫm máu khủng khiếp như thế?
Câu trả lời đã được phong trào Đệ tứ Quốc tế đưa ra trong vòng ba chục năm nay. Trái với các báo chí tư sản đổ tội cho chủ nghĩa cộng sản, Đệ tứ Quốc tế khẳng định: chính vì Liên Xô không theo chủ nghĩa cộng sản của Mác- Ăngghen [Marx-Engels] nên mới xảy ra tình trạng như thế. Những ai tôn trọng sự thậtc đều phải công nhận Xtalin không phải là người cộng sản, chủ nghĩa xta-lin-nít không phải là chủ nghĩa cộng sản. Những điều đã xảy ra ở Liên Xô đều ngược hẳn với mục đích nhân đạo của chủ nghĩa cộng sản.
Sự đối lập của Trốtxki chống Xtalin - trong vòng hai mươi năm, trên mọi lĩnh vực lý thuyết, chính trị, phương pháp hoạt động - đã đặt ra các vấn đề căn bản về tổ chức đảng, nhà nước, bài trừ nạn quan liêu, kiến thiết kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tệ sùng bái cá nhân chỉ là hậu quảchứ không phải nguyên nhân của một chế độ chính trị. Nguyên nhân phải tìm ở thực trạng xã hội Liên Xô.
(1) Le rapport attribué à Krouchtchev.
(2) Xin xem cuốn L’ Aveu của Áctu Lônđôn [Arthur London].
Ở Liên Xô, cuộc cách mạng vô sản tháng Mười đã bị biến chất do những điều kiện khách quan và chủ quan, quốc gia và quốc tế. Một tầng lớp quan liêu trong giai cấp vô sản, lợi dụng thoái trào của vô sản Liên Xô và vô sản thế giới, đã nhảy ra cướp đoạt chính quyền từ tay lao động. Tầng lớp này nhân danh giai cấp vô sản, kỳ thực, quyền lợi, địa vị, sinh hoạt của họ khác với giai cấp vô sản. Họ chiếm giữ những đặc quyền chính trị và kinh tế trong các bộ máy đảng và nhà máy. Muốn bảo vệ những đặc quyền này, họ cần một chế độ quan liêu cảnh sát và cần tạo ra một vị chúa tể như Xtalin, để rồi nấp bóng, ngăn cản các cuộc đấu tranh đòi dân chủ và quyền lợi của nhân dân và tiêu diệt các cuộc nổi dậy của giới lao động. Hàng vạn những bọn quan liêu lớn nhỏ đã tạo ra Xtalin chứ không phải Xtalin tự mình có thể tạo ra mình. Bêria, người thừa hành của Xtalin không phải là ‘‘gián điệp của ngoại quốc’’(1) như Khơrútsốp nói, mà là sản phẩm của chế độ, cũng như Xtalin. Ngoài Bêria, còn có hàng trăm, hàng ngàn Bêria lớn nhỏ ủng hộ Xtalin, tiếp tay cho Xtalin; nhờ thế, Xtalin mới tạo lập được một chế độ chính trị quan liêu, độc tài, dã man như thế. Trong điều kiện đó, giai cấp vô sản ở Liên Xô, từ vai trò người chủ đã trở thành kẻ bị thống trị.
Nhưng tại sao Khơrútsốp, một tay quan liêu trong đám quan liêu, lại đứng ra hạ bệ Xtalin? Muốn trả lời, chúng ta cần hiểu mâu thuẫn trong đám quan liêu. Quan liêu là một tầng lớp, mặc dầu có chính quyền, nhưng không có một cơ sở xã hội, nghĩa là cơ sở giai cấp vững chắc và độc lập (ví dụ như giai cấp tư sản trong bộ máy sản xuất tư bản chẳng hạn). Đời sống của họ bấp bênh. Họ như một cây tầm gửi ăn bám vào giai cấp vô sản vì họ không có vị trí độc lập và vai trò lịch sử độc lập. Hôm nay họ giữ địa vị quan trọng, ngày mai có thể mất hết, nếu không bị thủ tiêu hoặc bị tù đày. Họ ước ao có một sự quân bình xã hội để hưởng thụ đặc quyền của họ. Nhưng, chế độ chính trị do họ dựng lên - chế độ quan liêu - đồng thời đem lại đặc quyền đặc lợi cho họ, đồng thời luôn luôn đe dọa an ninh của họ. Họ đã tốn công vun xới cho sự sùng bái cá nhân Xtalin. Nhưng ngược lại, càng được sùng bái, Xtalin càng lộng quyền và dần dần vượt ngoài những giới hạn mà họ mong muốn. Khơrútsốp nói: ‘‘Khi Xtalin bảo phải bắt người này hay kẻ nọ, ai nấy đều phải công nhận người đó là ‘kẻ thù của nhân dân’ bởi vì không thể phản đối’’.
Một chính sách độc đoán như thế - độc đoán không những với nhân dân và giai cấp vô sản mà độc đoán cả với tầng lớp quan liêu - đã tạo ra hiện trạng ‘‘xã hội bị tê liệt’’. Sự phát triển của mọi ngành hoạt động văn nghệ, kinh tế, xã hội, chính trị, v.v... bị cản trở nghiêm trọng, mặc dầu hạ tầng kiến trúc của Liên Xô có cơ sở để tạo lập chủ nghĩa xã hội. Khơrútsốp nói: ‘‘Hệ thống lãnh đạo được áp dụng trong những năm cuối đời Xtalin đã thành một trở ngại nghiêm trọng trên con đường phát triển của xã hội Liên Xô’’. Khơrútsốp cố ý dùng mấy chữ ‘‘trong những năm cuối đời Xtalin’’; đúng hơn, phải nói như Trốtxki: ‘‘Trong những năm dưới chính quyền Xtalin...’’‘‘trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng’’ và tống giam những người đã ủng hộ chính sách này. Ở Việt Nam, sau khi phát động ‘‘sửa sai’’, đảng Cộng sản mở cuộc truy nã những văn nghệ sĩ của nhóm Nhân văn Giai phẩm đòi tự do dân chủ và đòi đảng ‘‘sửa sai’’ thêm nữa. Nhiều người trong nhóm này bị ngồi tù; số khác, dưới áp lực của đảng, đứng ra ‘‘tự lừa dối mình và tố cáo những kẻ khác’’.
Vấn đề cần đặt ra là chế độ chính trị quan liêu có thể tự nó cải tổ thành dân chủ vô sản thực sự được không? Kinh nghiệm cho thấy, nếu có sự cải tổ, chỉ là những cải tổ nhất thời, rồi đâu lại vào đấy. Bằng chứng là sau khi Khơrútsốp bị hạ bệ, ở Liên Xô người ta không nói gì về cải tổ nữa. Mặc dầu những cuộc tàn sát đẫm máu, đại quy mô như thời Xtalin không còn nữa, mặc dầu những bất đồng chính kiến trong đảng không kết liễu bằng những vụ xử bắn như thời Xtalin và những nhà lãnh đạo như Khơrútsốp, Malencốp [Malenkov], Môlôtốp, v.v..., tuy bị truất quyền, vẫn được sống hưởng tuổi già - nhưng, chế độ về cơ bản vẫn giữ tính chất quan liêu, độc đoán như cũ. Những trại cấm cố được thay bằng bệnh viện tâm thần, chuyên giam hãm những người đối lập tư tưởng. Tin tức trong và ngoài nước vẫn bị kiểm soát, xuyên tạc, che giấu hoặc bịa đặt, khiến người dân Nga ít ham muốn nghe tin tức và đọc báo chí của đảng và chính phủ. Hiện tượng này cũng giống như ở các xứ dân chủ nhân dân. Đặc biệt là ở Ba Lan, dầu chính phủ và đảng có nói sự thực thì dân chúng cũng không nghe nữa vì họ bị mắc lừa quá nhiều lần, do đó đã mất hẳn lòng tin. Các quyền tự do dân chủ vẫn bị cắt xén, chà đạp. Thậm chí, các văn nghệ sĩ mặc dầu không làm chính trị cũng bị cấm đoán, không được sáng tác theo cảm hứng của họ. Nạn sùng bái cá nhân không lộ liễu như trước, nhưng vẫn thịnh hành. Brêgiơnhép - tổng bí thư đảng - không phải nhà binh cũng chẳng phải nhà văn, thế mà được phong làm nguyên soái và được tặng giải thưởng văn nghệ hạng nhất(2). Tóm lại, mặc dầu người ta đã đem xác ướp của Xtalin từ lăng tẩm trên Hồng trường ra chôn bên chân tường điện Cơremlanh [Kremli] để không ai thấy nữa, nhưng chủ nghĩa xta-lin-nít vẫn tồn tại trong đầu óc các nhà lãnh đạo Liên Xô.
Muốn có cải đổi thực sự ở Liên Xô cũng như ở nhiều nước do đảng Cộng sản nắm giữ chính quyền, chỉ bài trừ nạn sùng bái cá nhân - như Khơrútsốp nói - không đủ. Sự cải đổi thực sự là phải đập tan bộ máy chính trị quan liêu từ trên xuống dưới. Vấn đề là phải có một cuộc cách mạng chính trị, lật đổ chế độ chính trị độc tài quan liêu, lật đổ chế độ ‘‘một đảng và đảng một khối’’, lật đổ các tổ chức bù nhìn, tái lập chính quyền dân chủ Xô-viết như thời Lênin trên căn bản tự do lao động, tự do có khuynh hướng chính trị, tự do lập đảng và nghiệp đoàn độc lập với chính quyền. Vấn đề là phải giành lại chính quyền từ tay đám quan liêu, giao phó cho các tổ chức dân chủ của giai cấp vô sản và quần chúng, từ dưới lên trên, bằng những cuộc bầu cử tự do, không phân biệt khuynh hướng, tổ chức, đảng phái, miễn là những khuynh hướng, tổ chức, đảng phái này tôn trọng hiến pháp xã hội chủ nghĩa.
(1) Khơrútsốp đã dùng phương pháp vu cáo như Xtalin để loại trừ Bêria.
(2) Brêgiơnhép 4 (bốn!) lần được tấn phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô, tất cả đều trong thời bình! Ngoài ra, Brêgiơnhép còn được Giải thưởng Lênin cho mấy cuốn sách mang tính bịa đặt lịch sử, dĩ nhiên không do ông ta viết.
Một thay đổi như thế, ta có thể tin và chờ đợi ở các ban lãnh đạo hiện hữu của các đảng Cộng sản được không? Dĩ nhiên là không! Chỉ cần nhìn thái độ của họ đối với các vụ biến động ở Hung, ở Tiệp và hiện nay ở Ba Lan là đủ. Đứng trước những yêu sách đòi ‘‘dân chủ’’ và ‘‘tự quản’’ của giai cấp vô sản, họ đã làm gì? Họ đã theo gương Xtalin xuyên tạc sự thực, che giấu sự thực, tuyên truyền dối trá. Đối với những vụ nổi dậy của nhân dân ở Hung, ở Tiệp đòi tự do, độc lập, họ vu là ‘‘tư bản âm mưu phá hoại’’, ‘‘chủ trương lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa’’. Đối với mười triệu lao động Ba Lan trong Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) đòi quyền tự do nghiệp đoàn, tự quyền quản lý, họ không ngần ngại mở cuộc đảo chính quân bị, ngăn cấm, bắt bớ, cầm tù và bắn giết nhân dân và những người lãnh đạo nghiệp đoàn do giới lao động bầu ra. Hơn thế nữa, họ đã phản bội chữ ký của họ trong bản Giao kết Gdansk ký với Công đoàn Đoàn kết. Ở Ba Lan, sự thực đã rành rành. Trong một nước có 12 triệu lao động thì mười triệu đứng trong Công đoàn Đoàn kết, thử hỏi đảng Cộng sản đại diện cho ai? Cho nhân dân lao động hay cho tầng lớp quan liêu cướp đoạt chính quyền trên lưng nhân dân lao động?
Trong ba mươi năm, đẳng cấp quan liêu ở Liên Xô và các đảng Cộng sản thế giới đã triệt để ủng hộ Xtalin. Các đảng Cộng sản các nước đã noi gương Xtalin thực hiện tại xứ mình một chính sách và chế độ tương tự như ở Liên Xô. Những vụ án ngụy tạo ở Liên Xô đã tái diễn nhiều lần ở các nước dân chủ nhân dân. Ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông, bằng những phương cách khác nhau, đã hạ thủ Lâm Bưu, Lưu Thiếu Kỳ, và biết bao lãnh tụ, cán bộ và đảng viên khác đã chết trong tù ngục. Ở Việt Nam chưa có hiện trạng thanh trừng đẫm máu như thế, nhưng nếu không biết sớm rút bài học của bản Báo cáo mật của Khơrútsốp, đảng Cộng sản Việt Nam sẽ không tránh khỏi những vụ xâu xé lẫn nhau, kể cả những vụ đẫm máu. Trước thời chiến tranh với Pháp, đảng đã cho người tổ chức những vụ ám sát Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, v.v... là những người chỉ có cái tội là đảng viên trốt-kít. Từ đó đi tới chỗ thanh trừng nội bộ cũng không xa là mấy.
Lịch sử phong trào công nhân, cho tới thời Xtalin, chưa bao giờ có những cuộc giết hại lẫn nhau vì sự bất đồng tư tưởng hoặc đảng phái. Thời Mác, thời Ăngghen, thời Lênin, đã có nhiều cuộc xung đột lý thuyết, chính trị(1) gay gắt giữa các khuynh hướng, giữa các trào lưu hay tổ chức. Nhưng có ai và có đoàn thể nào tổ chức những cuộc ám hại đối thủ của mình đâu?
Chỉ từ ngày Xtalin lên nắm chính quyền ở Liên Xô, người ta mới thấy một hiện trạng quái gở như thế. Bắt đầu là cuộc tiêu diệt những thành phần, khuynh hướng tả hữu đối lập. Tiếp sau đi tới cuộc thanh trừng trong hàng ngũ nội bộ. Vì sao? Vì chính sách ‘‘một đảng và đảng một khối’’ tạo ra ‘‘độc tài đảng’’, ‘‘độc tài đảng’’ tạo ra ‘‘độc tài lãnh tụ’’. Bởi người ta chỉ công nhận có một chân lý: chân lý của đảng nghĩa là chân lý của một lãnh tụ hay một số nhỏ lãnh tụ. Những khuynh hướng hoặc tư tưởng ở ngoài đảng đều bị coi là phản động, cần phải tiêu diệt. Ngay như những khuynh hướng trong đảng mà không do lãnh tụ của đảng hay Bộ Chính trị đưa ra, đều bị coi là của giai cấp thù nghịch, cần phải tiêu diệt.
Người ta đi tới quan niệm hoàn toàn phản mác-xít là trong giai cấp vô sản, chỉ có thể tồn tại một khuynh hướng chính trị là khuynh hướng của đảng và trong đảng cũng chỉ có thể tồn tại một khuynh hướng là khuynh hướng của lãnh tụ tối cao hay của Bộ Chính trị. Những khuynh hướng khác đều là giả tạo và tiêu biểu cho quyền lợi tư bản. Kết quả, đảng phải có nhiệm vụ nắm giữ độc quyền chính trị và ban lãnh đạo tối cao của đảng có sứ mệnh sử dụng độc quyền này.
Nhưng ban lãnh đạo này là ai? Có phải do đảng viên và lao động chọn lọc, sau những cuộc thảo luận hoặc chống chọi sôi nổi, náo nhiệt như thời Lênin không? Không! Họ chỉ là một nhóm nhỏ người, đóng cửa kín, chọn lựa và loại bỏ nhau như triều thần ngày xưa, rồi đưa ra bảng cử (tiếng Ba Lan gọi là nomenclatura) đã xếp đặt sẵn. Quần chúng hay đảng viên chỉ có bổn phận chấp nhận, không có quyền đối lập hay bác bỏ, chưa nói tới quyền đề nghị một danh sách khác. Nếu có đảng viên nào bất đồng ý kiến, lá phiếu của những người này bị loại bỏ từ cấp chi bộ. Cho nên, mỗi khi có hội nghị hay hội họp quan trọng của đảng, người ta thấy hết thảy cử tri đều bỏ phiếu ‘‘đồng thanh’’ ưng thuận. Nhưng sau mỗi cuộc khủng hoảng nào đó của đảng hay trong những vụ tẩy trừ, đảng lại khám phá ra những lãnh tụ hay đảng viên ‘‘đối lập’’. Dĩ nhiên, những người này bị lên án là ‘‘giả dối’’ vì đã ‘‘khôn khéo che đậy bộ mặt thật của mình’’. Tùy theo tội nặng nhẹ, họ bị cảnh cáo hoặc bị khai trừ. Nhưng ngoài sự ‘‘giả dối’’ của họ, đảng viên và quần chúng tuyệt nhiên không hiểu rõ thái độ hay lập trường của họ ra sao?
Ban lãnh đạo và các lãnh tụ cao cấp trở thành nhóm người ‘‘bất di bất dịch’’, đứng tại vị hàng chục năm. Có nhiều người già nua, hai chân đứng không vững như Mao Trạch Đông, Brêgiơnhép mà vẫn còn nắm giữ chức vụ, trong lúc cần được thế hệ trẻ ra thay thế. Họ trở thành những người ‘‘bất khả xâm phạm’’. Trước mắt quần chúng, họ là ‘‘một khối như tượng đồng’’. Ngoài việc họ tự loại bỏ lẫn nhau, quần chúng không được đụng chạm đến họ. Phê bình lãnh tụ là chống đảng, chống đảng là chống chủ nghĩa xã hội. Lịch sử cho thấy ban lãnh đạo và các lãnh tụ tối cao của các đảng Cộng sản xta-lin-nít - dầu vi phạm sai lầm đến đâu - chưa bao giờ bị thiểu số và chưa bao giờ bị lật đổ bằng lá phiếu trong một cuộc đại hội, để có thể thay thế họ bằng một ban lãnh đạo khác. Họ chỉ bị lật đổ khi nào quần chúng nổi dậy làm bạo động như ở Hung, ở Tiệp, ở Ba Lan chẳng hạn. Nhưng nếu những cuộc bạo động này chưa đủ sức mạnh trở thành một cuộc cách mạng chính trị, đám quan liêu cũ sẽ được thay thế bằng đám quan liêu mới. Chế độ quan liêu vẫn tiếp tục.
Chúng ta cần nhắc lại: sự tuyển lựa ban lãnh đạo và các cán bộ thời Lênin không như thế. Lúc Lênin sinh thời, các ủy viên Ban Trung ương hay Bộ Chính trị được lựa chọn trên căn bản lập trường chính trị công khai của mỗi người và trong nhiều trường hợp, trên căn bản khuynh hướng chính trị được công nhận trong đảng. Mỗi cuộc họp của Ban Trung ương, Bộ Chính trị hay Đại hội - trên những vấn đề quan trọng - đều có đa số, thiểu số; trong ban lãnh đạo, Lênin nhiều lần bị đứng về phe thiểu số(2).
(1) Mác chống Bacunhin [Bakounine], Lênin chống Caoxki [Kautsky], Plêkhanốp [Plékhanov], v.v...
(2) Gần đây, các sử gia Nga đã sưu tầm và in lại những biên bản này.
Dưới thời Xtalin, trừ mấy năm đầu Xtalin chưa thủ tiêu được các khuynh hướng, những người đối lập được quyền phát biểu ý kiến. Nhưng hiện trạng này dần dần biến mất. Dần dần chỉ còn một khuynh hướng - khuynh hướng của Xtalin - nắm giữ độc quyền. Người ta nói ‘‘thống nhất trong đảng’’, ‘‘nhất trí trong đảng’’, ‘‘đảng trở thành một khối vững chắc’’, nhưng tự do dân chủ trong đảng không còn nữa. Nguyên tắc ‘‘tập trung dân chủ’’ nhường chỗ cho ‘‘tập trung quan liêu’’, vì có tập trung, nhưng không có dân chủ. Tập trung quyền hành trong tay một nhóm nhỏ người, nhưng không có dân chủ trong hàng ngũ đảng. Quan niệm ‘‘một đảng và đảng một khối’’ đó đã được noi gương, áp dụng và phổ biến trong hầu hết các đảng Cộng sản xta-lin-nít trên thế giới. Quan niệm này tạo ra ý nghĩ coi ban lãnh đạo đảng không bao giờ có thể sai lầm; nếu có sai lầm là do quần chúng đảng viên cấp dưới không biết chấp hành đường lối đúng đắn của đảng. Muốn chứng tỏ đảng không bao giờ sai lầm, người ta đã tuyên truyền che giấu sự thật, lừa dối dư luận, vu khống, xuyên tạc, sửa đổi lịch sử. Không phải là điều tình cờ, sau hai mươi sáu năm, một văn kiện quan trọng như Báo cáo mật của Khơrútsốpvề Xtalin đã bị bưng bít trước giai cấp vô sản.
Khơrútsốp nói (và các lãnh tụ cộng sản các nước đều công nhận): ‘‘Không được giặt áo bẩn trước mắt kẻ thù’’ (tư bản). Nhưng kẻ thù không ai lạ. Riêng chỉ có giai cấp vô sản, tranh đấu chống tư bản, vẫn bị che giấu sự thật. Chỉ ngày nào những ban lãnh đạo các đảng Cộng sản các nước đem ra phát hành bản báo cáo của Khơrútsốp, thẳng thắn phê bình và tự phê bình, rút bài học kinh nghiệm để tránh những tai họa như ở Liên Xô, ngày ấy ta mới có thể nói họ đã đoạn tuyệt với Xtalin và chủ nghĩa xta-lin-nít. Chúng ta có thể khẳng định: không một nước nào, không một đảng Cộng sản nào có thể tranh đấu tiến đến chủ nghĩa xã hội mà không biết đứng ra lên án Xtalin và chủ nghĩa xta-lin-nít. Im lặng tức là đồng phạm và tạo lợi khí cho tư bản mở cuộc tấn công chống chủ nghĩa cộng sản.
Mặc dầu sự thực bị các đảng Cộng sản che giấu, vai trò của Xtalin trong lịch sử dần dần đã được phơi ra ánh sáng. Đối với chủ nghĩa cộng sản, Xtalin là người mang tội ‘‘bài cộng’’ nặng nhất, vì đã gây nên tai hại khôn lường cho chủ nghĩa này. Trong dư luận phương Tây hiện nay, hễ có ai dùng những phương pháp chính trị tàn bạo, độc đoán, vu cáo, xuyên tạc, trà trộn đổi trắng thay đen, là người ta tặng ngay cho cái danh hiệu ‘‘xta-lin-nít’’. Mấy chữ ‘‘xta-lin-nít’’ trước đây là một vinh dự cho những ai mang nó(1), ngày nay không một ai trong các đảng Cộng sản ở Âu châu muốn mang nó nữa. Trong lúc ấy, các báo chí tư sản thi nhau lợi dụng tuyên truyền, bảo rằng chủ nghĩa cộng sản đã tạo ra một người như Xtalin.
Vì muốn bảo vệ chủ nghĩa cộng sản theo tinh thần học thuyết mác-xít - lê-nin-nít, vì muốn đối phó một cách hiệu quả trước các cuộc tấn công lý thuyết của chủ nghĩa tư bản, vì muốn đấu tranh cho sự thực hiện chủ nghĩa xã hội thực sự ở Việt Nam và trên thế giới, từ lâu chúng tôi đã có dự định dịch và in cuốn sách này. Trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, một phần vì thiếu điều kiện kỹ thuật và tài chính, một phần vì phải tùy theo sức mình, tham gia cuộc đấu tranh chính trị chống đế quốc ngoại xâm, dự định của chúng tôi bị hoãn lại. Tới nay, sau 26 năm, nó mới có cơ hội được thực hiện.
‘‘Sự thực là cách mạng’’. Đó là phương châm của người cộng sản. Chúng tôi mong cống hiến các đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam và giai cấp vô sản Việt Nam cùng bạn đọc một tài liệu lịch sử để rút bài học cho sự nghiệp tranh đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hà Cương Nghị (Paris 1 er October 1982)
Tái bút: Sau khi bài này viết xong và đã lên khuôn ở nhà in, chúng tôi được biết Nhà xuất bản Editions Sociales của đảng Cộng sản Pháp (P.C.F.) vừa ấn hành một cuốn sách nhan đề 1956, cú sốc do Đại hội lần thứ XX của đảng Cộng sản Liên Xô(2).
Do sử gia Roger Martelli - ủy viên Ban Trung ương đảng Cộng sản Pháp - biên soạn và giới thiệu, cuốn sách này dịch nguyên văn toàn bộ Báo cáo mật của Khơrútsốp về Xtalin, kèm theo nhiều tài liệu về thái độ các đảng Cộng sản trên thế giới (Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Ý, Ba Lan, v.v...) trong giai đoạn 1956.
Đây là lần đầu tiên, một đảng Cộng sản đã dịch và phát hành công khai Báo cáo mật của Khơrútsốp về Xtalin (đảng Cộng sản Liên Xô vẫn giấu kín trong nước). Tuy nhiên, người ta nhận thấy đảng Cộng sản Pháp chỉ nhắm độc giả trí thức là những người, dầu sao, cũng đã được biết sự thật. Đảng vẫn không phân phát trong nội bộ đảng, không mở thảo luận để rút ra bài học lịch sử.
Chúng ta cần nhắc lại, ròng rã trong hai mươi năm, đảng Cộng sản Pháp vẫn khước từ sự thực bằng mấy danh từ ‘‘bản báo cáo mà người ta bảo là của Khơrútsốp’’. Tới năm 1976, trong Đại hội lần thứ XX của đảng Cộng sản Pháp (tháng 2-1976), đảng mới tự phê bình ‘‘đã có sự chậm trễ trong việc công nhận sự thật’’. Năm 1977, với sự đồng ý của Bộ Chính trị, Georges Cogniot và Pierre Doize đã vén lên một góc của bức màn bí mật. Phải đợi tới 1982, đảng Cộng sản Pháp mới buộc phải vén hết bức màn che đậy. Chúng tôi sẽ có dịp bình luận đầy đủ hơn.
Chỉ cần nói sự thật lịch sử, dầu ai tài mấy, cũng không thể giấu nổi. Cũng như Trốtxki nói, ‘‘dưới sức nặng những tội ác của y, Xtalin sẽ biến mất trên sân khấu với tư cách kẻ đã đào mồ chôn vùi cách mạng và có bộ mặt ghê tởm nhất trong lịch sử’’.
(1) Tổng bí thư đảng Cộng sản Pháp Maurice Thorez từng nói: ‘‘Tôi được vinh dự mang danh hiệu xta-lin-nít’’.
(2) 1956, Le Choc du Xxème Congrès du P.C.U.S. (Nhà xuất bản Editions Sociales phát hành ở Pari, 464 trang, giá 45 francs).
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: