Anh là bậc đàn anh, còn tôi thuộc vào hạng đàn em thân tín (chính anh bảo thế). Tính anh có chỗ hơi lạ, không giống những người bình thường, cái gì ở anh cũng hơi trái khoáy. Lúc đang nhậu thì không ai trẻ bằng, đến lúc trả tiền thì anh già lụ khụ. Khi anh nói, khí thế hăng như giữa đám cãi nhau, song lúc phải ngồi nghe thì lập tức anh lờ đờ như lên cơn buồn ngủ. Ai thuận theo thì anh khen tít mây xanh, ai phản đối thì anh mắng là đồ này đồ nọ. Chúng tôi vẫn thường nói vụng với nhau: “May mà lão đẻ phải cái số tiểu quan, nghĩa là cũng có chút địa vị, chức tước gọi là. Chứ vô phúc mà làm lãnh tụ thì chắc độc tài phải biết…“. Được cái anh giao du rộng, chỗ nào cũng có người quen. Cũng bởi anh có nhiều tài năng trời phú, văn thì xuôi như nước chảy xuống chỗ trũng, còn thơ thì chắc như đinh đóng cột. Trong cái làng gọi là văn chương lốm đốm rải ra khắp nước hiện nay, chả cần phải tự nắm tóc lôi mình lên, thì lúc nào anh cũng có cảm tưởng mình trội hơn người khác. Đã thế vợ con anh đề huề, cửa nhà anh đĩnh đạc. Nhân tình (nghĩa là những người hâm… nóng anh) thì gặp đâu có đấy, sẵn như đồ trong túi lôi ra, dễ như quả trên cây hái xuống… Người như thế, rõ là có tướng đại quý. Không ngũ đoản (năm cái ngắn) thì cũng lục trường (sáu cái dài), không tam nhu (ba cái dẻo) thì cũng phải nhất cương (một cái cứng ngắc) v.v…
Chỗ anh ở Thủ đô, còn tôi Sài Gòn. Một hôm nghe anh điện thoại, tôi mừng như giẫm phải vàng. Anh bảo tới gặp anh ngay, anh mới bay vô, đang ở Hô-teo Chiến Thắng. Tôi vội phóng đến bằng ba chân bốn cẳng. Vừa bước vào phòng, anh hỏi ngay, giọng vồ vập:
“Chào chú em yêu quí. Ông bà già có khoẻ không?“.
Tôi cảm động suýt oà lên khóc, vội trả lời mà nước mắt bỗng rưng rưng, giọng như muốn nghẹn lại giữa chừng:
“Chỉ có mỗi anh vẫn quan tâm đến… bố mẹ em. Dạ!… Bố mẹ em đang…“.
Anh chưa kịp nghe tôi nói hết câu, đã vội ngắt lời:
“Tốt! tốt… tốt lắm! Ông anh vừa xuống sân bay, có lãnh đạo hội văn sĩ Sài Gòn ra đón. Các anh ấy… (anh kể ra một loạt các tên tuổi văn chương lừng lẫy, nổi tiếng sóng cồn) muốn tổ chức chiêu đãi trọng thể. Nhưng người mà ông anh quan tâm đến trước tiên là chú em nên bác bỏ hết. Mọi cuộc gặp hoãn đến mai. Chờ ông anh vào toa-lét cái đã, rồi chú chở ông anh đi đâu thì đi. Nhớ chọn cái quán nào đèm đẹp…“.
Tôi chở anh tới một quán nhậu mát mẻ. Vừa ngồi xuống, anh hỏi thăm ngay:
“Chú sống thế nào? Ông bà già có khoẻ không?“.
Tôi chưa trả lời vì thấy anh còn đang mải nhìn mấy em gái phục vụ xinh đẹp nõn nà, trông ngon như những miếng bít-tết biết đi. Anh ngẩn ra một lát rồi lại bảo:
“Nghề văn chương của ông anh là nghề sáng tạo ra nghệ thuật. Nếu thiếu khoản phụ nữ là ảnh hưởng tới năng suất sáng tạo ngay. Chú có quen văn sĩ Sài Gòn nào thì mời đến cho vui“.
Tôi bảo có số điện thoại của cái bác văn sĩ “lừng lẫy“ nọ. Lại biết cả điện thoại của vị thi sĩ “sóng cồn“ kia nữa. Anh mừng lắm vỗ đùi bảo:
“Thật đúng ý ông anh. Chú mau gọi điện mời họ tới“.
Kết quả là bác văn sĩ “lừng lẫy“ tới trước. Tôi chào bác, bác bắt tay tôi mà quái lạ, chả thấy bác đả động gì đến anh. Anh bèn cất tiếng chào rõ to, dõng dạc gọi cả họ lẫn tên của bác ra. Bấy giờ bác mới trỏ tay hỏi:
“Mày là thằng nào?“.
Tôi suýt bật cười nghĩ bụng bác này chắc đãng trí. Anh chẳng bảo với tôi rằng bác mới cùng đoàn văn sĩ Sài Gòn ra “đón“ anh ở sân bay đó sao?
Cuối cùng thì anh đành tự giới thiệu tên tuổi, bút danh… của mình. Tất nhiên không quên liệt kê kèm theo một hai giải thưởng… Bác văn sĩ “lừng lẫy“ vỗ trán “À!“ lên một tiếng rồi bảo:
“Té ra cùng một ‘Hội’ với nhau cả. Song ‘Hội’ bây giờ đông quá, thành ra ‘đếch’ nhớ nổi thằng nào“.
Vị thi sĩ “sóng cồn“ đến sau một lát. Hai người (anh và thi sĩ) vốn biết nhau từ trước nên không cần phải nói. Nhưng có thêm chuyện này, nhân tiện kể ra luôn. Để chứng tỏ sự “quảng giao“ của mình, anh bèn móc điện thoại ra tuyên bố sẽ gọi cả “thằng đấu sĩ“ lừng danh họ Trần tới nhậu cho vui. Sau một hồi a-lô, anh gập điện thoại lại tiu nghỉu:
“Thằng ấy (đấu sĩ họ Trần) đang ở Hồng Kông, vợ nó bảo thế“.
Tôi biết vợ “đấu sĩ“ họ Trần vốn hành nghề y. Xưa nay thường “giấu“ chồng một chỗ, không cho đến những chỗ nhậu nhẹt, sợ tổn hao sức khoẻ, ảnh hưởng tới sự nghiệp “đấu đá“. Bèn buột miệng bảo:
“Hồng Kông hồng kiếc gì. Lão đang ở trong… toa-lét thì có“.
Anh chợt cáu lên với tôi:
“Không tin, chú gọi lại thử xem“.
Tất nhiên là tôi cũng móc ngay điện thoại ra. Vẫn gặp cái bà vợ sử chồng rất kĩ, dụng chồng… như dụng mộc ấy. Nhận ra tôi, bà vồn vã: “Gặp anh hả… chú chờ một lát để chị gọi anh ra nói chuyện nhé…“.
Quả là “đấu sĩ“ vẫn có nhà. Tôi nhìn thấy màu đỏ trên mặt anh đang “bò“ dần xuống cổ, bèn chữa thẹn cho anh:
Quả là “đấu sĩ“ vẫn có nhà. Tôi nhìn thấy màu đỏ trên mặt anh đang “bò“ dần xuống cổ, bèn chữa thẹn cho anh:
“Số là bác không biết đấy thôi. ‘Đấu sĩ’ họ Trần vốn rất yêu môn địa lý. Trong nhà ông, mỗi chỗ đều được đặt tên theo bản đồ… thế giới. Ví dụ phòng khách là ‘Paris’, phòng ăn là ‘Đà Lạt’, phòng ngủ tầng trên gọi là ‘Bắc Kinh’, phòng ngủ tầng giữa gọi là ‘Hà Nội’. Nhà bếp thì gọi là ‘Công Tum’, còn toa-lét, cái thì đặt tên là ‘Hồng Kông’, cái thì đặt tên là ‘Thượng Hải’… Vợ chồng con cái nhà ông vốn quy ước với nhau như thế. Lúc nãy bác gọi, đúng là ‘đấu sĩ’ đang ở… (toa-lét) ‘Hồng Kông’ thật“.
Sau đó bữa nhậu diễn ra khá vui. Các văn sĩ gặp nhau bao giờ chẳng rôm rả. Đề tài (được anh lái) tới chuyện giải thưởng của Hội năm nay. Té ra bác văn sĩ “lừng lẫy“ vốn có chân trong ban giám khảo. Còn vị thi sĩ “sóng cồn“ nghe nói là cánh tay mặt của ông Chủ tịch Hội. Anh nhờ hai vị “quan tâm“ đến tác phẩm (dự giải) của anh… Rồi thì cụng ly, đọc thơ, tán chuyện… hay đáo để. Đang vui, mặt anh bỗng xị xuống, bùi ngùi:
“Em vừa đi một ‘quệt’ từ Bắc vào Nam. Thấy văn sĩ làng ta bây giờ, ở đâu cũng khốn nạn, khổ sở quá, khổ hơn cả chó, khó hơn ăn mày. Có thể nói chưa bao giờ văn chương lại bị rẻ rúng, mạt hạng như lúc này. Nhà văn, nhà thơ gì mà cứ như giun dế cả một lũ với nhau. Trước khi viết đã phải quán triệt hết tư tưởng, nghị quyết, đến chủ trương, đường lối… thành ra lúc viết cứ như một anh mù sợ giẫm phải gai, lúc ngôn chẳng khác nào một anh bồi hạng bét. Vậy mà Hội ta vẫn làm nên cả một rừng văn chương rậm rạp cho đất nước. Buồn một điều là đến khi lĩnh nhuận bút, bọn đầu nậu nó muốn thí cho bao nhiêu thì cho, không đủ tiền uống trà đá buổi sáng… Nhất là các bác trong này lại càng khốn nạn. Em thương lắm, đau lòng lắm…“.
Vừa nói, anh vừa đưa tay lên, dùng ngón tay day day vào hai cái túi nước mắt to bằng hai quả ổi nằm ngay dưới mi mắt. Lập tức, hai dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng. Tôi biết, môn này anh luyện đã tới mức thượng thừa. Đó gọi là “nhãn thuật“ (thuật của mắt). Cũng như “khẩu thuật“ (giả được tiếng thú), hay “nhĩ thuật“ (vẫy được hai tai)… Rồi anh rút khăn mùi soa ra lau, nhân thể hỉ mũi luôn mấy cái. Cảnh tượng càng thêm bi tráng. Đến nỗi khiến cho một kẻ ngoại đạo khô khốc như tôi, mà cũng cảm thấy tan nát cõi lòng. Hỡi ôi! Lão Tử ngày xưa sinh ra ở huyện Khổ, nước Sở, mà cũng có đến nông nỗi này đâu?…
Bác văn sĩ “lừng lẫy“ vốn có tiếng là một bậc khôn ngoan lão làng, lúc nghe thì như đeo bao cao su ở lỗ tai, còn lúc nói thì như có lưới lọc ở cửa miệng (thời buổi này, cả nước đều phải “khôn ngoan“ như thế chứ chả riêng gì bác). Thấy anh thương cảm quá, bác bèn lên tiếng an ủi:
“Bọn tao ngày trước bảo hô là hô, bảo viết là viết. Viết về đề tài chiến tranh cứ việc theo phương châm: “Ta tốt địch xấu / ta thiện địch ác / ta thắng địch thua / địch chết cả đống / ta sống nhăn răng…“. Trăm cuốn giống nhau cả trăm, khác mỗi cái đầu đề. Thế mà có kẻ ngứa mồm bảo đó là thứ văn minh họa. Minh họa thì đã sao? Đó là chức năng thiêng liêng của thằng nhà văn. Đến bây giờ, cóc cần hiểu văn học là cái con mẹ gì, chúng tao vẫn là những thằng nhà văn nổi tiếng. Tụi chúng nó bây giờ được học hành lý luận tử tế, được chi tiền cho đi trại… Vậy mà viết đã ra cái chó gì. Văn mày tao chưa đọc nhưng đoạt giải năm nay chắc cũng chẳng khó lắm… não nề mà làm gì“.
Anh nghe bác văn sĩ “lừng lẫy“ nói thế thì sướng quá, vội đưa cả hai tay ra bắt tay bác, lắc lấy lắc để, ánh mắt quét sang phía vị thi sĩ “sóng cồn“ chờ đợi. Vị này lại có tiếng là láu cá, ranh ma. Giả vờ ngó lơ qua chỗ khác, thi sĩ “sóng cồn“ thủng thẳng:
“Cái phương châm ấy bây giờ nhắc lại, lắm lúc cứ hiểu ‘địch’ thành… ‘nhân dân’, nhất là hai câu cuối. Song văn chương minh họa chỉ sáu mươi phần trăm thôi. Phần còn lại chủ yếu là học đòi, a dua. Hì hì! (cười). Tuy thế văn thời các bác sạch sẽ, thơm tho, câu văn bóng bẩy, trơn mượt, nghe rất êm tai… chứ không ‘bẩn’, không ‘sóc’ như bây giờ. Bây giờ đọc văn thấy có cả cặc, lồn, tinh khí, với cả cứt, đái… như thể nó muốn văng vào mặt mình. Lại có thứ văn đọc đến đâu thì cục gân trong người cứ cứng ngắc đến đấy, hãi lắm. Hôm qua Chủ tịch gọi điện cho tôi bảo năm nay cứ cái nào không ‘bẩn’, không ‘sóc’, không làm ‘nứng gân’ là đều có thể trao giải được…“.
“Đảm bảo văn tôi rất ‘êm’, không uế tạp, không nứng, không chệch khỏi đường lối một ly…“. – Anh mừng quớ lên khẳng định – “Ông nhớ nhắc Chủ tịch chú ý đến điều đó giùm tôi nhé…“.
Rồi bữa nhậu cũng đến lúc tàn. Trong lúc tôi móc tiền ra trả, anh vừa dúi vào tay tôi hai cái phong bì rỗng, vừa ghé tai tôi nói nhỏ:
“Chú vào toa-lét, bỏ vào mỗi phong bì một triệu đồng rồi mang ra đây cho anh. Có việc dùng đến bây giờ“. ..
Rồi tôi đưa anh về lại Hô-teo Chiến Thắng. Trước khi chia tay, anh vẫn không quên nhắc lại lời thăm hỏi cửa miệng:
“Ông bà già có khoẻ không?…“.
…
Cuối năm ấy, có dịp ra Thủ đô, giữa phố đông người, tôi giật mình nghe tiếng anh gọi. Chưa kịp định thần thì anh đã ào tới, mừng rỡ nắm lấy hai vai tôi, vồn vã:
“Chú ra bao giờ thế? Sao không điện cho anh. Ông bà già có khoẻ không? Báo ngay để chú mừng. Cuốn sách… của anh vừa được Hội Văn sĩ nước ta trao giải. Chú có mang tiền đấy không? Anh em ta phải kiếm chỗ nào ăn mừng mới được…“.
Anh kéo tôi vào một quán bia tươi. Đã có mấy người bạn mặt trắng của anh ngồi sẵn từ lúc nào. Mọi người nâng cốc chúc mừng “chiến thắng“ ngoạn mục của anh. Anh tỏ vẻ sướng ra trông thấy. Nghĩ cũng phải thôi, đến như tôi, chỉ hưởng cái sướng lây mà cũng tê tái cả người. Đang say sưa, chợt nghe ở bàn nhậu phía sau lưng, có tiếng ai đang ngâm nga một bài thơ cổ:
“Văn chương có phải đi cầu?
Mà xem dải rút như màu cỏ cây!
Mới hay muôn sự từ đây
Đường tu có nẻo một ngày thành… sư!
Chẳng ngu, chẳng dại, chẳng hư
Mặt ai nhìn mãi vẫn như… chưa nhìn
Mà xem dải rút như màu cỏ cây!
Mới hay muôn sự từ đây
Đường tu có nẻo một ngày thành… sư!
Chẳng ngu, chẳng dại, chẳng hư
Mặt ai nhìn mãi vẫn như… chưa nhìn
Phạm Lưu Vũ
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét