Tiếng súng nổ chát chúa đập vào đêm tối như bưng. Tiếng hô hoán
àm ĩ bên ngoài. Đèn đuốc sáng rực hắt qua ô cửa nhỏ sát trần nhà. Cả phòng tôi
nhốn nháo không biết đang xảy ra chuyện gì?
Tiếng ổ khóa mở lách cách. Tôi bị chói mắt khi cánh cửa phòng bất
chợt mở ra bởi ánh đèn măng sông. Định thần, tôi nhìn thấy lố nhố những bóng
người đeo súng, cầm mã tấu bước vào. Người ta bắt chúng tôi đứng dậy, quay mặt
vào tường. Điểm danh.Từng người đứng ra xếp thành một hàng dọc. “Đủ”. Một người
cao lớn nói như vậy. Cửa lại đóng như cũ.
Gian phòng trở nên im ắng lạ thường. Một ai đó nói trong bóng tối
có thể sắn ra được:
- Chắc có người bỏ trốn?
Không ai nói gì. Dù sao đó cũng chỉ là lời phỏng đoán. Người hỏi
cũng như người nghe tất cả đều mù tịt. Nào ai biết chuyện gì? Sáng hôm sau mới
vỡ lẽ tối hôm đó có người bỏ trốn. Hai người chạy được còn tất cả đều bị bắt
trở lại. Ngày mai phiên tòa sẽ được mở ngoài sân đình, nơi có cái kỳ đài mới
làm tôi nhìn thấy hôm mới về..
16.
Về sau bố tôi kể lại câu chuyện, hầu hết người ngoài cuộc đều
không tin. Người ta cho rằng một người cù mì như bố tôi, cả đời tay quen bốc
thuốc ít khi phải làm việc nặng, chưa từng qua cảnh ba đào lại có khả năng đào
tẩu ở một nơi giam cầm như thế. Ông không chỉ thoát một mình, còn giải thoát
cho một người nữa cùng phòng giam với mình. Người này là cán bộ kháng chiến
thời bí mật, một “huyện ủy viên”. Không biết kẻ đấu tố nào đã báo cáo lên trên
ông ta là thành phần phản cách mạng, tay chân “Quốc Dân Đảng”chui vào hàng ngũ
của ta? Cha tôi và ông ấy là phần tử nguy hiểm nên bị giam riêng một nơi. Đó là
gian nhà có hàng cột gỗ đỡ xà mái, phía bên trong. Hai người không những bị
nhốt, còn bị trói hai tay vòng phía sau cột mỗi buổi tối. Có lẽ người ta sợ hai
người bỏ trốn nên mới buộc cẩn thận như vậy. Bên ngoài cửa khóa, kê một chiếc
ghế băng dài cho dân quân thay nhau ngồi gác suốt đêm.
Phiên gác đêm hôm đó là anh cu Tũn người xóm Sen. Anh này ăn
khỏe, làm tài chỉ mỗi tội nhát ma, ở nhà chuyên bị vợ bắt nạt.
Chị vợ hồi còn làm ở nhà tôi biết, cao lớn như hộ pháp, nói giọng
ồm ồm như đàn ông. Chị có chân trong ban cải cách hồi đó. Anh cu Tũn vốn sợ
tối, ít khi ra khỏi nhà khi màn đêm buông xuống.
Cực chẳng đã, vì giữ thể diện cho vợ mới ôm súng ngồi đây.
Thành phần cốt cán, không đảm đương nhiệm vụ này thì ai làm? Chị
vợ nói thế sau khi quệt quết trầu tứa ra hai bên mép, mắt nhìn như đóng đinh
vào người chồng.
“Làm gì có ma nào? Thời dân chủ này còn nói chuyện ma mãnh người
ta cười cho. Mình cứ cố gắng, trên sẽ cất nhắc, nay mai mình lên làm cán bộ!”
Chị nói vậy sau khi bàn giao cho anh cu canh gác cha tôi. Chị còn cẩn thận treo
thêm cây đèn ba dây dưới mái hiên cho anh đỡ sợ.
Anh Tũn thấy sự cũng thường, bớt lo lắng. Đời anh đánh gốc bốc
chà anh chả coi là cái đinh gì. Cả đám gốc tre to bằng cái nia, anh quai búa
một buổi, là tan. Đất đấu bằng nửa cái hòm anh lên vai như bẫng, đâu có là cái
gì?
Nhưng mà sao cái việc canh gác chẳng nặng nhọc gì, anh lại thấy
nặng nề, bứt dứt khó chịu như thế?
Anh chỉ mơ hồ nó là việc gì đó không phải. Đúng sai anh chưa tự
giải thích được rành rẽ như vợ mình.
“Đánh đổ giai cấp địa chủ bóc lột, giành lại cơm no áo ấm, ruộng
đất cho dân nghèo”, dĩ nhiên là việc chính đáng quá đi rồi, có việc gì phải
bàn?
Nhưng buộc phải quay mặt như không hề
quen biết, thậm chí phải lạnh nhạt, phải làm ác hoặc cố làm ra vẻ ác với người
từng cưu mang giúp đỡ mình, anh cứ thấy bứt dứt ra làm sao?
Lần anh bị rắn cắn, nếu không có cha tôi lấy thuốc anh đã chết
ngẻo tự bao giờ rồi. lại còn lần năm đói ngã người.. Chính mẹ tôi mang đến nhà
cho vợ chồng anh mấy đấu gạo.
Con anh nghịch lửa cháy nhà, bố tôi cho người mang tre, mang rạ
đến giúp lợp lại chỗ chui ra chui vào.. Bây giờ muối mặt như thế này, dù có
chậm hiểu, gỗ đá đến đâu cũng thấy áy náy trong lòng!
Cường hào ác bá ở đâu
không nói, ở làng Xốm này hình như có điều không ổn. Dưng mà trên đã quy định
thế rồi, cứ theo tỷ lệ mà làm. Người như anh cũng chỉ biết lấn cấn trong đầu
như thế chứ ai dám nói ra?
Cái thân hình kềnh cang như anh Tũn ngồi dáng nào cũng khó. Bộ
quần áo gụ rung rúc chỉ rình đứt chỉ, nứt ra. Anh co chân, anh ruỗi chân, tư
thế nào cũng chẳng được lâu. Chán.
Anh khoác súng lên vai đi đi lại lại. Có lẽ như thế này ổn hơn? Anh tự an ủi mình như thế, cố cho hết phiên
trực của mình.
Chốc nữa là đến phiên người khác, Tũn sẽ đi như chạy, chui vào
căn nhà tối thui, hôi rình và quen thuộc của mình, quờ tay ôm vợ, ôm con..
Hình như có tiếng động, cành cây gẫy ai đó vừa dẫm lên?
Anh với tay lấy
cây đèn quang ba dây treo ở đầu kèo xuống soi đường đi ra phía có tiếng động
vừa rồi.
Bất chợt có làn gió nhẹ từ phía sau lưng thổi tới. Tũn quay lại
theo phản xạ tự nhiên. Anh chưa kịp nhìn thấy gì thì cây đèn ba dây bốc hỏa.
Ánh lửa đỏ đục màu cà chua cuồn cuộn phía bên trong thông phong đèn một lúc,
đèn phụt tắt.
Tũn luống cuống chưa biết xử trí ra sao? Diêm bật lửa là thứ của
hiếm thời anh đang đứng gác. Là thứ hàng hóa hiếm, nếu không nói là xa xỉ đối
với nhiều người. Anh nào khá mới có cái bật lửa in hình chiếc xe tăng từ thời
Bảo Đại, hoặc bao diêm in hình con chim hòa bình.
Những người thường như anh chả bao giờ có được những thứ quý giá
đó. Ở nhà cứ đến bữa thổi cơm là con anh lại lấy mảnh dẻ rách quấn lại thành
cái bùi nhùi sang hàng xóm xin lửa, nếu như lửa úm mùn trong bếp bị tắt.
Ban đêm phải khêu nhỏ ngọn đèn Hoa Kỳ bằng hạt đỗ. Hoặc phải lấy
dây vải tết lại, kiểu dây cháy chậm để giữ lửa.
Mỗi lần lấy lửa như thế thật cực kỳ vất vả. Thổi mỏi cả mồm, rát
cả họng, bùi nhùi mới chịu cháy cho!
Bây giờ, ở đây, kể cả những thứ quái quỷ ấy cũng chẳng lấy đâu
ra!
Anh sợ đêm tối như người ta sợ rắn độc, sợ hố sâu. Một thứ sợ hãi
định mệnh có từ tiền kiếp. Sợ mà không hiểu vì sao phải sợ? Đã vậy, nó lại xảy
ra ngay vào lúc này. Lúc anh đang mang trên vai trách nhiệm được giao phó quá
nặng nề!
Anh định mò đi vòng qua dãy cây mít um tùm sang phía bên kia đầu
đình. Nơi ấy có một tổ khác đang trực gác ở đấy, gần ngay chỗ người ta tạm thời
nhốt giữ tôi.
Bất chợt Tũn thấy trước mặt có vật gì trăng trắng đu đưa. Hình
như có người treo cổ hay là một con ma
nào đó đang leo trèo lên ngọn cây. Tũn đứng sững lại. Mồ hôi anh túa ra lạnh
hết sống lưng. Hai chân như chì đổ lỗ không nhấc lên được.
Tũn cố sức định thần, vật trăng trắng lại càng đung đưa. Nó như
mỗi lúc tiến lại phía anh mỗi lúc một gần. Anh không nhớ mình nghĩ gì lúc ấy,
không chủ định,quăng cả đèn, cả súng, cắm đầu chạy thục mạng ra phía cánh đồng.
Nơi nước sau mấy trận mưa mênh mang, trắng xóa.
( Còn nữa..)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét