Ðạo Phật không thuộc lãnh vực nào cả ngoài một mục đích là giúp cho chúng sanh thoát mê thành ngộ, hết khổ được vui, và đưa họ thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, đạt đến chân như tịch tịnh (Niết Bàn). Con đường tu học của Ðạo Phật là Trung đạo, nghĨa là không gò bó trong khổ hạnh, không xa xỉ vô ích. Triết lý của Phật giáo bao gồm cả nhân sinh quan và vũ trụ quan; cho nên Phật giáo chứa đựng triết lẫn khoa học. Phật giáo không ở trong triết và khoa học, mà ngược lại, nói cho đầy đủ là triết học và khoa học là hai môn ở trong kho tàng vô tận của Phật giáo. Vì sự hạn hẹp về khuôn khổ của bài viết, chúng tôi chỉ trình bày một vài sơ điểm để chứng minh tại sao Phật giáo là một nền tảng bao trùm khoa học.
Như chúng ta đã biết, cách đây 25 thế kỷ, Ðức Phật đã thị hiện tại trung Ấn, nói ra những pháp vô thượng thậm thâm vi diệu mà trong thời gian đó loài người chỉ biết nương tựa, cầu phúc, bám chỉ vào các thần như thần lửa, thần gió, thần rắn, thần đá, thần núi, thần sông v.v. Khoa học vào thời đó chưa tượng hình. Một vài con số đơn sơ được nặn ra để đơn thuần tính đếm; giấy chưa có, họa chăng người ta chỉ dùng bằng vỏ lá cây. "Trời tròn, đất vuông" hoặc "Mặt trời quay chung quanh trái đất" vẫn là quan niệm cố hủ, không thay đổi của loài người cho đến thời Galileo và được sự kiểm chứng của khoa học sau này. Thế nhưng, Ðức Phật đã nói: Vũ trụ không nhỏ, có đến tam thiên đại thiên thế giới (ba ngàn đại thiên thế giới) Một ngân hà là một tiểu-thiên thế giới, một ngàn tiểu-thiên thế giới là một trung-thiên thế giới, một ngàn trung-thiên thế giới là một đại-thiên thế giới. Và, ba ngàn đại thiên thế giới như thế trong vũ trụ bao la này. Với sự giác ngộ của Ðức Phật, vũ trụ trong mắt Ngài như chúng ta nhìn một dòng chữ trên trang giấy. Sự sự vật vật không ngừng biến đổi trong chu kỳ Thành (cấu thành, sinh ra) - Trụ (tồn tại) - Hoại (hư hỏng, băng hoại) - Diệt (mất đi); bốn trạng thái này không bao giờ tách rời bất cứ một sự vật nào trong vũ trụ theo chu kỳ biến diệt của nó, chỉ có sự khác biệt là nhanh hay chậm mà thôi. Ngày 9 tháng 11, 1994, lúc 4g39 chiều, tại viện Gesellschaft fur Schwerionenforschung ở Ðức, các khoa học gia đã tìm thêm một nguyên tố mới gồm có 110 nguyên tử. Một điều đáng chú ý là nguyên tố này có đời sống vô cùng ngắn ngủi, nó chỉ tồn tại trong khoảng 1/1000 giây đồng hồ.
Hãy lấy ví dụ: một cục đá mà chúng ta cứ tưởng là nó trường tồn mãi. Không, nó không tồn tại mãi! Ban đầu, núi lửa phun lên thạch nham lỏng, gặp nhiệt độ thấp hơn tạo thành đá, rồi bị hao mòn qua những tác động của mưa, nắng, gió, bão... để thành những hạt cát. Những hạt cát này tiếp tục chịu những chi phối trên để trở thành bụi... và, những hạt bụi chỉ là sự kết hợp của các phân tử, nguyên tử, điện tử, hạt nhân, lượng tử...Sự băng hoại này đòi hỏi một thời gian dài mà mắt của chúng ta không thể nhìn thấy rõ được. Ví dụ khác nữa là nước. Vì có ba trạng thái khác nhau nên các khoa học gia gọi danh từ đúng gọn là H2O (kết hợp của Hidrogen và Oxigen). Tại nhiệt độ thấp dưới 0oC, nước ở dạng đông đặc. Với nhiệt độ từ trên 0oC đến dưới 100oC, nước ở dạng lỏng. Trên 100oC, nước ở dạng hơi. Vì vậy, sau khi dày công nghiên cứu nhiều thí nghiệm về trọng lượng hóa chất, một nhà hóa học đã kết luận: "Không có vật nào tự nhiên sinh ra và tự nhiên mất đi, mà nó chỉ biến từ dạng này sang dạng khác." Và, đó cũng là tinh ý của câu " Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc" trong Bát Nhã Tâm Kinh của Phật giáo vậy.
Suy diễn rộng thêm một chút nữa, chúng ta thấy trái đất chúng ta ở là một thực thể trong muôn vạn thực thể trong vũ trụ này, nó được cấu tạo bởi nhiều yếu tố, hóa chất và khoáng chất khác nhau. Mặc dù chúng ta không thấy nó lớn thêm lên hay nhỏ dần bớt bằng cặp mắt kiếng màu này, nhưng thực sự nó đang biến chuyển theo sự thay đổi không ngừng của từng yếu tố ti vi tạo nên nó. Những biến chuyển này không những chỉ từng giây, mà là từng phần tỉ tỉ giây; Ðức Phật gọi đó là sát-na biến chuyển hay sát-na vô thường. Sự thay đổi này bao gồm luôn cả không gian và thời gian. Con người cũng vậy, chúng ta đang sống trong sự chết chóc, hủy diệt. Từng tế bào trong cơ thể (dễ thấy nhất là tế bào da) chết đi, và tế bào khác sinh ra. Trái đất quay chung quanh mặt trời không cố định, có lúc nó đi gần mặt trời, có lúc nó đi xa hơn. Hơn nữa, các khoa học gia ước tính là quỸ đạo bầu dục của trái đất quanh mặt trời ngày càng thu hẹp lại, năng lượng mặt trời ngày càng bị giảm dần...
Giả sử khi nhân duyên không còn nữa, tất cả mọi sự vật đều tan rã để bảo hòa trở về các thành phần nguyên tố (hiện nay, các khoa học gia đã tìm ra tổng cọng là 118 nguyên tố trong bảng hóa học tuần hoàn); hoặc xa hơn nữa, chúng tự tách ra để trở thành các đơn vị nhỏ như hạt nhân, điện tử, lượng tử, không lẽ chúng ta nói là vũ trụ tận diệt hay sao? Tận diệt là do chúng ta không nhìn thấy, chứ không phải là chúng mất đi! Trong kinh Ðại Bát Nhã có nói chư pháp vốn bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm là thế.
"Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không".
Cho nên nhà bác học trứ danh Robert Eistein có nói: "Nếu có một tôn giáo nào gần gũi với khoa học, thì đó chỉ là Phật giáo mà thôi." Câu nói này đúng, nhưng không đủ; mà phải nên nói rằng: Khoa học chỉ là một môn học nhằm phục vụ, khảo nghiệm, chứng minh giáo lý của Ðạo Phật. Nếu ai đã nghiên cứu Phật giáo thì Thuyết Tiến hóa của nhà bác học Darwin cũng là một sự chứng minh trung thực cho học thuyết Nhân Duyên trong Ðạo Phật, không ai có thể chối cãi. Ðó chỉ nói về mặt Thế gian mà khoa học còn bị vướng mắc vì chưa đủ phương tiện để trả lời câu hỏi: "Có bao nhiêu hành tinh, hệ mặt trời, ngân hà trong vũ trụ? Vũ trụ rộng bao xa?" mặc dù có hệ thống Humble Telescope giúp sức; huống hồ về mặt Xuất Thế gian thì khoa học bị tắc nghẽn.
Hãy đi sâu thêm một chút nữa về sự ứng dụng của khoa học trong lãnh vực tâm linh. Trong toán học, mặt phẳng chỉ dùng để diễn tả góc cạnh, đó là hệ thống hai chiều (2-dimensional); khi diễn tả một sự vật có bề rộng, dài và cao, thì phải đưa nó vào hệ thống không gian ba chiều (3-dimensional). Ðây là hệ thống hình học cao nhất hiện có để giúp các khoa học gia nghiên cứu đồ hình không gian (hệ ba chiều dịch vị, chuyển hoán v.v.) Tuy nhiên, họ không thể nhìn thấy một thế giới khác của các sinh vật siêu hình như ma quỷ, mặc dù ma quỷ đang hiện hữu trên trái đất của chúng ta. Rõ ràng đây là thế bí của khoa học. Loài sinh vật ở thế giới siêu hình đó nhìn thấy chúng ta một cách rõ rệt. Họ có hình thể, nhưng chúng ta không thể trông thấy họ bằng mắt trần, hoặc diễn tả họ qua hệ thống hình học. Thế thì làm cách nào chúng ta giao dịch với họ? Một nhà toán học người Ðài Loan đã khởi sự nghiên cứu đưa dạng thức không gian bốn chiều (4-dimensional) vào toán học để nghiên cứu sự vật trong thế giới siêu hình này, nhưng không thành công.
Muốn nghiên cứu về thế giới siêu hình đó, thiết nghĨ nên lập hệ thống sáu chiều (6-dimensional). Ba chiều thật (real) và ba chiều ảo (imaginary). Chúng ta có tạm gọi mô hình này là "Mô hình phức". Thế nhưng, toán học biện chứng không thể phỏng dạng mô hình phức trên được, mà cần phải có một Siêu nhiên tâm học để giúp ta bước vào ngưỡng cửa của lãnh vực siêu nhiên và hòa nhập với thế giới này; đó là, mỖi một thí sinh muốn nghiên cứu phải đạt đến trình độ tu chứng, đại thông. Một điều đáng chú ý là khoa học chỉ dựa trên thực tiển và xác nhận bằng sự chứng minh qua con số. Một vũng nước trên đường nhựa trong mùa hè oi bức khi chúng ta lái xe là một ảo ảnh tựa như tấm gương; thế nhưng tấm gương này không phản chiếu sự vật như một tấm gương mà chúng ta thường dùng soi mặt. Ảo ảnh đơn thuần như thế mà khoa học còn phải đặt nhiều giả thuyết để đi đến kết luận tạm thời là do sức nóng trên đường nhựa mà tạo nên mảng kiếng, huống hồ đưa khoa học đi vào thế giới thần bí để khảo sát, tìm tòi? Thực chất, muốn đi vào thế giới huyền bí này, con người không còn phải vướng vào khoa học, mà phải vượt qua lãnh vực khoa học để đi đến vô chấp, vô ngã, hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ. Ví như qua sông thì dùng thuyền, đến bờ bên kia thì phải vứt thuyền, dùng chân để tiếp tục leo lên trên đỉnh núi. Luyến tiếc không chịu bỏ, cứ mang thuyền theo là một trở ngại lớn trên đoạn đường còn lại. Phật giáo gọi là đoạn đường khai mở trí huệ (giới - định - huệ) để đi đến trình độ vô ngại, đại thông. Khoa học muốn thực chứng được điều này thì phải buông đì những con số, cởi đi quan niệm lý luận để bước vào thế giới siêu nhiên của vũ trụ. Cũng giống như khi chúng ta nhìn bức tranh 3-chiều: bức tranh được chụp/vẽ như là cả hàng ngàn quả bóng cầu trên một tờ giấy. Khi nhìn thẳng vào bức tranh đó, chúng ta không thể phân biệt được hình gì trên bức tranh. Thế nhưng, khi chúng ta hơi nheo một con mắt, và nhìn một cách rất mơ hồ, thì chúng ta thấy một cầu thủ đang đá một bóng cầu trên sân bóng v.v.
Vậy, tu chứng trong Phật giáo là một cực điểm của khoa học nhưng không còn bị vướng mắc khoa học. Khoa học dùng "động" để quan sát điểm. Phật giáo chủ trương dùng tĩnh để quán chiếu sự vật. Khoa học thể hiện tính xô xát, tò mò. Phật giáo mang tính chất tịch lặng và giải thoát. Tâm thức không còn bị giao động thì trạng thái Chân Như hiển hiện, như bóng trăng trong ao không gợn sóng. Ví như khi chúng ta chưa bao giờ ăn một chiếc bánh bao, thành thử khi ăn, chúng ta thường tỉ mỉ để ý xem cái bành bao được làm bằng nhân gì. Khi chúng ta đã quen thuộc với thứ bánh đó rồi, thì chúng ta chỉ có việc ngấu nghiến rồi nuốt vào bụng mà thôi.
Tương tự, Ðức Phật và các vị Tổ sư đã tu đến trình độ vô ngại, thấu rõ về lý tánh của các pháp, thì không còn muốn tò mò tìm xem nhân duyên sinh diệt của các pháp đó làm gì nữa. Khi chưa tu tập thì ước mơ tìm hiểu; nhưng khi chứng ngộ rồi thì sự bám víu đó tự nhiên tiêu tan. Ðó không là trường hợp tối thượng của Phật giáo trên khoa học, thì là gì?
Trong sự cấu thành của sự vật, khoa học nói về sự xúc tác còn Ðạo Phật quan niệm về Nhân duyên. Hai thứ khí Hidrogen và Oxigen khi gặp nhiệt độ thấp sẽ trở thành nước đá, ở nhiệt độ thường sẽ thành nước lỏng. Trong Phật giáo, sự cấu thành các pháp đều do nhân duyên; nước do ba nhân duyên hợp thành (Hidrogen, Oxigen và nhiệt độ); con người do nhân duyên sinh lực của cha mẹ (noãn cầu, tinh trùng), thần thức (A-lại-Da thức, hay Vô thức, hoặc linh hồn) và tứ đại (đất, nước, gió, lửa) mà hợp thành v.v. Thiếu một trong những nhân duyên, sự vật không thể có được.
Ðó chỉ mới nói về Sự, còn bàn về Lý thì không tài nào khoa học đạt được! Hơn nữa, dùng nhân thuyết luân hồi trong Phật giáo để giải thích tại sao khi sinh ra, cùng một lứa tuổi, nhưng con người thông minh, ngu dốt, lanh lợi, đần độn, sung sướng, khổ cực v.v. khác nhau, thì rất là dễ dàng. Thế nhưng khoa học vẫn bị tắt nghẽn muôn đời, muôn kiếp...
Ðức Phật thị hiện tại chốn Sa bà này cũng vì một nhân duyên lớn: Khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến. Ðối với chúng sanh, sự ra đời của Phật giáo như là một đóa hoa đàm chỉ nở một lần trong mấy vạn năm. Sống trong thế giới uế trược, phiền não, bệnh hoạn này, Ðạo Phật là một phương thuốc vô cùng diệu dụng trị tất cả mọi căn bệnh của chúng sanh. Chúng ta, nay gặp được Ðạo Phật còn quý hơn gặp kim cương, vàng bạc. Không lo nghiên cứu, học hỏi, tu học theo phương pháp của Ðức Phật chỉ dạy, chỉ tham vọng theo tính tò mò tìm hiểu về sự tương quan giữa Phật giáo và khoa học không là một uổng phí sao? Không khác gì một người đang bị trúng tên độc, thầy thuốc hiện ở trước mặt, nhưng người bị trúng tên không cho vị y sĨ này chữa bệnh cho mình, lại không chịu rút mũi tên ra, đòi phải tìm hỏi cho ra ai đã bắn tên độc và bắn từ chỗ nào, khi đó mới chịu cho chữa bệnh. Ðợi tìm ra nguyên nhân, ông ta đã chết mất!?
Nói về nhân sinh trong Phật giáo là nói về đề tài vô tận trong triết học... " Nhân chi sơ tánh bản thiện" là Phật tánh. Con người khi mới bắt đầu được sinh ra là một con người toàn thiện, chưa bị ô nhiễm bởi thế tục. Dần dà theo thời gian khôn lớn, trưởng thành, con người chịu nhiều tác động bên ngoài (mưa, nắng, nóng, lạnh không điều hòa, ngoại thương...) và những ảnh hưởng của nội tâm (vui, buồn, giận, thương, ghét, vinh, nhục, thắng, thua, mất, được, đau ốm, gầy gụa, bệnh hoạn, chết chóc v.v.) đã tạo cho con người trở nên cau có, xảo quyệt, tính toan, thủ đoạn để vật lộn với cuộc sống, giành phần tồn sinh. Thắng thì kiêu ngạo, ngã mạn nổi lên. Thua thì chán nản rồi tìm cách trả thù. Không bằng được người thì tìm cách gian lận cướp giựt. Tham, sân, si, mạn, nghi, từ đó bộc khởi. Vô minh thêm lan tràn, Phật căn bị che lấp. Vì thích thú và yêu thương vợ con, tiền bạc, của cải quá (ái), nên tìm cách giành giựt, chiếm đoạt chúng về mình (thủ), rồi cho rằng chúng là của mình (hữu). Không hiểu rằng tiền bạc, vợ con, của cải... có được từ KHÔNG. Cho nên mới vùi đầu trong trầm luân, ái dục; để rồi trở thành "tâm tựa ác nguyên, hình vi tội tẩu". Ðó là quan niệm ái - thủ - hữu trong Phật giáo. (Một dịp nào đó, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn.)
Tóm lại, đứng về Sự, khoa học đã một phần nào chứng minh được thực tế, gần gũi với quan niệm của Phật giáo; đứng về Lý, khoa học hiện đang còn mù tịt ở phía sau. Vì, mục đích của khoa học, triết học là cầu tri kiến. Trái lại, mục đích của Phật pháp là lìa tri kiến. Triết học sở trường về lý trí, nghĩa là dùng lý trí để đi đến chân lý. Mặt khác, Phật học xem lý trí là "tri sở chướng" trên con đường tu đạo giải thoát. Triết học dùng lời nói, sách vở; Phật học chủ trương xa lìa ngôn ngữ: "chánh pháp nhãn tàng, Niết bàn diệu âm, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật". Dùng văn tự, đồ thị, ngôn ngữ, công thức để biểu thị chân lý thì tạm được; nhưng dùng để đạt đến chân lý tuyệt đối thì không thể nào, cũng như dùng ngón tay để chỉ mặt trăng. Ðó là khuyết điểm của ngành triết học và khoa học vậy. Triết lý của Triết học tùy theo thời gian và hoàn cảnh để thay đổi cho phù hợp với nhân sinh. Phật học là chân lý, sự thật, tuyệt đối, muôn đời bất di, bất dịch, tồn tại vĩnh viễn, siêu việt với không gian và thời gian. Trải qua vô số kiếp từ thời Ðức Phật A-Di-Ðà, và cách đây hơn 2500 năm kể từ khi Ðức Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Ðề, giáo lý của Ngài vẫn muôn một y nhất, không bao giờ thay đổi. Chưa bao giờ có cựu ước Phật học hay tân ước Phật học... Khoa học chỉ tạo cho chúng ta thêm tính tò mò, mang thêm gánh nặng trên quãng đường tu học giải thoát mà thôi! Ðó là lý do tại sao Ðức Phật chú trọng về nhân sinh hơn vũ trụ. Mục đích của đạo Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn (tự độ mình, rồi độ chúng sanh hoàn toàn thành tựu rốt ráo). Do đó, đừng mong cầu sở học của khoa-triết để nghiên cứu Phật giáo trên con đường tu học giải thoát, mà nên dùng vô ngại tâm để đạt đến Niết Bàn. Nếu hiểu được rằng dùng Khoa học cho môi sinh trong cuộc sống làm người tạm bợ hiện tại của mình; dùng Phật giáo, không phải vì tính hiếu kỳ, mà cho sự tu học, khai mở trí huệ, thực chứng, thoát sinh tử luân hồi là con đường chân chính. Ðó mới là không phụ ân đức của Ðấng Từ Phụ đã vì khổ đau của chúng sanh mà nhập thế.
Phật giáo không phải là Thần giáo. Vì, thần giáo là một giáo phái mà trong đó tín đồ phải tôn thờ và phục tùng vị giáo chủ của mình. Tín đồ dù có tu tập cách mấy cũng không bao giờ đạt đến địa vị ngang hàng với vị giáo chủ, và phải chịu sự chi phối, thưởng, phạt của vị giáo chủ ấy. Khác hẳn điều trên, trong Phật giáo, Ðức Phật không chiếm địa vị độc tôn. Ngài nói: "Ta là Phật đã thành, các con là Phật sẽ thành". Nội câu nói đó đã đủ thể hiện tinh thần bình đẳng của Phật giáo. Lạy Phật, niệm Phật, phúng tụng kinh chú trong nghi lễ Phật giáo chỉ là phương tiện bồi bổ, trợ duyên, cách thức nhiếp tâm trên con đường tu học để trở thành chánh đẳng, chánh giác; chứ không phải tin Phật, tụng kinh là mong cầu Ðức Phật ban phước, cứu độ...
Niên niên đồng trụ khai hoa dị.
Nhất thất nhân thân vạn kiếp nan (phục).
Ðó là lời thúc giục chúng ta hãy nên mau mau tu học kẻo "một phút sẩy chân ngàn đời ân hận, quay đầu trở lại chín suối ngậm ngùi."
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét