Rủi ro lớn nhất ở VN không phải là thời tiết, không phải thương trường mà là chính sách. Từ chính sách tỷ giá, chính sách thuế cũng như hàng loạt các chính sách khác.
Tuần Việt Nam giới thiệu phần tiếp theo Bàn tròn Một phần tư thế kỷ VN xuất khẩu lúa gạo, với sự tham gia của các khách mời: GS.TS Võ Tòng Xuân, nhà nông học, Hiệu trưởng ĐH Tây Đô; PGS.TS Vũ Trọng Khải, chuyên gia độc lập về kinh tế nông nghiệp; ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên chủ tịch UBND tỉnh An Giang.
Quản lý thế, nông dân còn khổ dài
Có một câu hỏi nhức nhối bao lâu nay vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. Đó là, tại sao người nông dân chúng ta đã tạo nên kỳ tích từ xuất khẩu gạo, kết thúc một giai đoạn thiếu ăn; làm bà đỡ cho cả nền kinh tế đất nước vươn lên, nhưng người trồng lúa Việt Nam vẫn nghèo?
GS.TS Võ Tòng Xuân. Ảnh: DNSG |
GS.TS Võ Tòng Xuân: Quả thật đây là một nghịch lý xuất phát từ yếu kém có tính hệ thống, mà nguyên nhân sâu xa do giáo dục của ta. Ở các nước tiên tiến, những người được đào tạo đầy đủ mới làm được nông nghiệp. Còn ở nước ta thì ngược lại, vì thế mà người làm nông dễ hài lòng với kinh nghiệm "lão nông tri điền", sản xuất không theo đúng khuyến cáo khoa học, khiến giá thành sản xuất cao, chất lượng sản phẩm kém, thậm chí không an toàn vệ sinh thực phẩm.
Trong khi đó, nhiều trong số những người tham gia trong chuỗi giá trị của hạt gạo từ đồng ruộng đến bàn ăn của người tiêu dùng trong nước hoặc nước ngoài lại có đặc quyền, và sử dụng quyền của họ giành đi phần đáng lẽ để cho nông dân được lời hơn.
Tôi còn nhớ hồi mới xuất khẩu gạo, tôi được mời qua Mỹ và châu Âu, có gặp các tập đoàn kinh doanh gạo. Họ nói thẳng thắn thế này, VN mới gia nhập xuất khẩu gạo, không dễ bán như Thái Lan hay London đâu. Các công ty quốc doanh kinh doanh gạo của Việt Nam chưa được tin tưởng. Chất lượng không có cơ sở đảm bảo, mua mà không đúng chất lượng thì không kiện được. Cho nên gạo đi từ VN phải chịu phí rủi ro 40 - 50 USD/tấn. Đó là lý do lâu nay chúng ta hay nghe nói gạo VN tương đương chất lượng gạo Thái Lan mà giá bán luôn thấp hơn 40 - 50 USD/tấn là vậy.
Theo họ, tốt nhất, nên SX theo chất lượng họ đề nghị, rồi đưa qua dự trữ và bán ở châu Âu, họ chỉ lấy 2% chi phí. Khi ấy, tôi về nước, đề xuất với một cơ quan Trung ương nhưng không được chấp nhận, bởi họ yêu cầu xuất khẩu gạo ra khỏi lãnh thổ phải có hợp đồng và có L/C. Vậy là chịu.
Ông Nguyễn Minh Nhị. Ảnh: Duy Chiến |
Ông Nguyễn Minh Nhị: Theo tôi, quản lý nông nghiệp của ta chưa có một chiến lược cụ thể: Làm lúa bán cho ai? Giá nào? Ai làm? Ai bán? Người nông dân được gì qua từng năm SX, từng tấn lúa tăng thêm... Thay vào đó, ta hoàn toàn dựa vào "thị trường quen thuộc" và "thói quen làm ăn" như ông cha ta hàng trăm năm trước. Gần đây tôi có nghe nói đến "tái cơ cấu..." mà dường như chưa thấy động tĩnh gì?
Ta đã xuất khẩu gạo vào thị trường gạo cấp thấp: Indonesia, Philippines, Iran, Iraq, Syria, Lybia, Cuba... Nghĩa là xuất khẩu vào thị trường do các công ty quốc doanh kinh doanh lương thực ở đó đảm nhận, cung cấp gạo cho người nghèo. Trước đây, nhờ yếu tố độc quyền và đôi khi cả tiêu cực mà làm ăn trôi chảy, lời lãi do DN hai bên thỏa thuận chia nhau. Nông dân ta được hưởng quyền lợi rất ít, trong khi về mặt chính sách, Chính phủ "yêu cầu tối thiểu phải có lợi nhuận từ 30% cho nông dân". Riêng các nước có quan hệ tài chính - mậu dịch thuộc "phe nhà" thì có khi trời mà biết giá cả, lợi nhuận ra sao.
Từ khi các nước đó thay đổi hoặc tự đổi mới, kinh doanh kiểu ấy không còn, thì xuất khẩu gạo của ta không cạnh tranh được. Ngay những thị trường truyền thống như Philippines, Indonesi, Malaysia... cũng phải đấu thầu không còn "đấu cuội" nữa thì ta thua dài dài chớ sao?
Người ta nói "buôn có bạn". Nay "bạn" quốc doanh ở các thị trường ấy không còn hoặc đã bỏ cách làm ăn "một mình một chợ", các quốc doanh lương thực của ta mất đối tác thì làm ăn sao được?
Tất nhiên, trong hệ quả hiện nay đều có cả khoa học quản lý cấu thành. Gần suốt đời tôi ủng hộ kinh tế quốc doanh, nhất là trong kinh doanh lương thực, nhưng nay thấy cách ta làm vừa qua chỉ có nông dân và Chính phủ là thua. Cứ như vậy, từ 2013 dài dài về sau chắc sẽ chứng kiến không ít quốc doanh lương thực đổ vỡ. Tất nhiên tư doanh lương thực cũng không sướng gì, vì nó trong cái khuôn khổ cơ chế đó cả!
Nói như vậy để thấy do cách quản lý của ta là ở trên trời, không ăn nhập với thực tế. Năm 1992, tôi đi qua Đài Loan tìm hiểu, bên đó cũng có quốc doanh độc quyền kinh doanh gạo, đường, muối và rượu, bia, thuốc lá... nhưng nông dân họ sướng vô cùng.
Còn nông dân ta ngày xưa làm lúa mùa, năng suất thấp mà lời lãi còn đến trên dưới 70%, nếu đất thuê thì cũng còn trên dưới 60%. Nay làm cật lực, năng suất gấp 3 lần/ vụ, sản lượng chỉ tính 2 vụ/ năm cũng gấp 5 lần mà cũng chỉ lời lãi trên dưới 30% là may mắn lắm rồi. Nhưng không phải năm nào cũng được "may mắn" như thế đâu.
Cách quản lý SX và xuất khẩu gạo kiểu này thì nông dân còn khổ dài dài.
Vì sao doanh nhân chưa dám xông pha?
Thưa TS. Vũ Trọng Khải, những bất cập về cuộc sống của người nông dân mà chúng ta vừa nêu ra, nếu nhìn từ nguyên nhân chính sách thì có thể rút ra điều gì?
PGS.TS Vũ Trọng Khải. Ảnh: Duy Chiến |
PGS.TS Vũ Trọng Khải: Thứ nhất, 25 năm qua chúng ta xuất khẩu gạo vẫn dựa trên nền tảng nền SX nhỏ manh mún, lạc hậu chứ chưa thay đổi cơ bản về chất. Nếu có thay đổi thì chỉ là giống và kỹ thuật canh tác. Suốt 25 năm qua vẫn dựa vào nông dân SX nhỏ, quy mô kinh tế hộ là chính. Vẫn những DN chế biến và xuất khẩu thô, chưa có chế biến sâu tạo sản phẩm có giá trị gia tăng cao.
Tức là chúng ta chỉ dựa vào cái sẵn có, tiềm năng sẵn có. Khi những thứ này được khai thác và mất đi thì vị thế của VN trong cuộc cạnh tranh sẽ giảm theo.
Thậm chí những tiến bộ về khoa học kỹ thuật mà chúng ta đưa vào như giống mới, kỹ thuật canh tác mới kiểu như "3 giảm, 3 tăng" cũng khó mà phổ cập được với người nông dân quy mô SX chỉ 5 - 7 công đất.
Vì vậy, người nông dân không thể giàu có lên được trong bối cảnh đó. Chúng ta nên nhớ rằng, chính sách "cởi trói" chỉ có giá trị trong một thời gian ngắn vì nó không tạo ra nhân tố mới.
Thứ hai, chúng ta chưa nhìn ra thế giới để định vị lại mình, qua đó tổ chức lại SX cho phù hợp và khôn khéo. Tổng kim ngạch trao đổi mậu dịch về gạo hàng năm thấp hơn rất nhiều lần so với trao đổi rau quả. Chúng ta có lợi thế nhiệt đới rất lớn về rau quả mà chưa thấy hết. Gần chúng ta có những nước 6 tháng mùa đông không trồng được rau quả như Hàn Quốc, Nhật Bản, phía Bắc TQ, vùng Siberi, v.v... Đó là chưa kể châu Âu.
Ở đây còn phải nói tới vai trò của doanh nhân. Hình như chúng ta chưa có được lực lượng doanh nhân mạnh mẽ, xông pha thương trường thế giới tìm thị trường. Chẳng hạn, nhìn sang TQ, thương nhân, doanh nhân của họ "len lỏi" khắp hang cùng ngõ hẻm trên thế giới để mua nguyên liệu và bán sản phẩm của họ?
PGS.TS Vũ Trọng Khải: Thương mại hóa sản phẩm là trách nhiệm của doanh nghiệp. DN phải làm hai chức năng chế biến, chế biến sâu và tiêu thụ. Nếu ta có chính sách đầu tư đúng đắn cho DN chứ không phải chỉ dựa vào các tổng công ty nhà nước như Vinafood 1 (Tổng công ty lương thực miền Bắc), Vinafood 2 (Tổng công ty lương thực miền Nam) thì tình hình đã khác...
Thưa ông, từ trải nghiệm bản thân, nói một cách thẳng thắn, tôi thấy lực lượng DN tư nhân của chúng ta còn rất yếu. Tôi từng chứng kiến trường hợp một khách hàng nước ngoài muốn mua gạo số lượng khá lớn, tìm đến một DN tư nhân chế biến và xuất khẩu gạo có tên tuổi của VN. Thỏa thuận giá cả xong, bàn về hợp đồng để ký. Họ chấp nhận mở L/C và yêu cầu phía Việt Nam cũng phải bỏ bond (ký quỹ) để ràng buộc trách nhiệm. Nghe nói tới đây DN của chúng ta "chạy mất", vì sợ không thực hiện đúng hợp đồng thì sẽ mất số tiền ký quỹ.
Chưa hết, doanh nhân này sau đó chấp nhận làm vệ tinh cho Vinafood kiếm tiền cho chắc ăn. Thử hỏi ông, như vậy thì sao mà dám vươn ra thế giới, sao đủ sức làm ăn đàng hoàng, sòng phẳng với thiên hạ, tham gia vào thương trường thế giới?
PGS.TS Vũ Trọng Khải: Tâm lý chung của doanh nhân VN là không chấp nhận rủi ro. Tại sao? Có hai yếu tố:
Thứ nhất, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được đội ngũ doanh nhân mạnh, kể từ khi xuất hiện những tên tuổi lớn hồi đầu thế kỷ 20 như Bạch Thái Bưởi, gia đình nhạc sĩ Đoàn Chuẩn (với hãng nước mắm Vạn Vân), v.v... Đặc biệt là ông Nguyễn Sơn Hà, doanh nhân và cũng là Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước VNDCCH. Với tư cách đại biểu, ông đã đề nghị phải đưa câu "Mọi công dân Việt Nam có quyền tự do kinh doanh" vào Hiến pháp năm 1946. Chính doanh nhân Nguyễn Sơn Hà đã SX chiếc áo mưa gọn nhẹ cho bộ đội ta, thay cho chiếc áo tơi nặng nề trước đó.
Tiếc rằng chúng ta đã không duy trì được khí thế đó. Lớp doanh nhân mới lớn lên sau này nhìn vào bối cảnh thể chế kinh tế chung, thấy làm ăn lớn nhiều rủi ro quá. Rủi ro lớn nhất ở VN không phải là thời tiết, không phải thương trường mà là chính sách. Từ chính sách tỷ giá, chính sách thuế cũng như hàng loạt các chính sách khác. DN họ sợ lắm, vì nhiều "ông" đã "chết" vì những thay đổi bất thường như vậy. Rồi bộ máy còn tồn tại quan liêu, nhũng nhiễu cũng góp phần làm thui chột ý chí, khát vọng của doanh nhân.
Thứ hai, những yếu tố truyền thống lịch sử, văn hóa và cơ chế ở ta chưa khuyến khích doanh nhân mạo hiểm, chưa tạo ra được môi trường để họ dấn thân, chấp nhận rủi ro. Đã vậy ngay trong chính sách còn rơi rớt sự kỳ thị với doanh nhân, doanh nghiệp. Ví dụ như chuyện mới đây chuyện quy định không cho DN lấy tên danh nhân đặt tên gây ồn ào, v.v... Bởi vậy, phần lớn doanh nhân của ta thường chấp nhận làm ăn ở mức đủ ăn đủ sống, trên mức trung bình là được.
Tôi có tình cờ biết doanh nhân "bỏ chạy" mà anh nhắc đến. Cách đây hơn chục năm, ông giám đốc công ty đó cũng nhiệt huyết, xông xáo lắm. Công ty của ông ấy là DN đầu tiên ở VN nhập máy tách màu hiện đại nhất lúc bấy giờ. Tuy nhiên sau lần bị "bầm dập", ông ấy đã chán nản, mất nhiệt huyết.
Những vấn đề này không thể xoay chuyển một sớm một chiều. Và phải bắt đầu bằng thể chế kinh tế.
(Còn nữa)
Duy Chiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét