Rộng dài tổ quốc..
Ký của Hồng Giang
Đã
lâu tôi không còn thói quen ghi chép dọc đường, dù là chuyến đi dài hay ngắn,
thú vị hay nhàm chán, có ấn tượng tốt hay không.
Không phải do lười biếng hay ngần ngại dửng
dưng, chỉ đơn giản bởi hai lẽ : Một là dọc đường luôn bận quay phim, chụp ảnh,
cố gắng ghi lại những khuôn hình không phải khi nào cũng có thể có để ghi nhớ
lại. Hai là muốn qua trực giác của mình lọc lại những gì mình ấn tượng nhất,
những gì nhạt nhẽo tự nhiên sẽ được bỏ qua.
Ghi
chép nhiều khi cũng tốt, nó tỷ mỷ, chính xác, đỡ mất công lần mò trí nhớ khi
cần ghi lại.
Nhưng cũng có cái dở là bộn bề sự kiện, dễ làm
người ta rối, khi muốn thể hiện một điều gì đó.
Vả
lại từ lâu tôi đã tự nhủ với mình là không chạy theo lối săn tin, vồ vập của
nghề làm báo. Sự kiện không là cái gì với những nguyên nhân sâu xa nằm sâu
trong cái vỏ bề ngoài luôn hỗn tạp và bề bộn của đời sống.
Nếu
một chuyến đi có ý nghĩa, tự nhiên sự lôi cuốn của những ám ảnh, ấn tượng sẽ
thôi thúc nên viết như thế nào, còn không thì thôi.
Thú
thật không phải không có những chuyến đi như thế. Nó để cho ta cái cảm giác
nặng nề, muốn quên đi, không thích nhắc tới, chứ chưa nói đến việc cần ghi chép
lại, dù là ở thể loại nào..
Chính
vì thế mãi cho đến hôm nay, đã qua mấy ngày tôi mới ngồi một mình lặng lẽ viết
những dòng này.
Có
thể, tôi sẽ không theo trình tự thời gian như nhiều người vẫn làm từ xưa đến
giờ, mà sẽ theo trình tự tâm trạng và những suy nghĩ của tôi.
Nếu
chia sẻ được với bạn bè được chừng nào tốt chừng nấy, còn không cũng là để
không quên những kỷ niệm về chuyến đi này, một chuyến đi sau cả mấy chục năm
trời mới thực hiện được.
Cách
đây hai năm cũng có một chuyến đi các
tỉnh miền trung, hành trình dừng lại ở cố đô Huế rồi trở ra. Nguyện vọng của
nhiều người muốn thăm phố cổ Hội An không thực hiện được vì kinh phí có hạn,
một phần nhà văn, tác giả "Ma làng" có vấn đề sức khoẻ, anh em có tự
nguyện góp tiền để thực hiện chuyến đi "Cơi nới" ngoài kế hoạch cũng
không tiện lắm.
Khi
đó tôi có ý định một mình vào Sài Gòn, nơi một thời mình đã từng sống, từng có
những bạn bè, những địa chỉ đã ăn sâu vào trí não, máu thịt của mình.
Năm đó mẹ tôi không được khoẻ, nhận được tin
tôi trở ra bắc theo đoàn. Một thời gian ngắn sau cụ qua đời. Thật hú hồn, nếu
tôi đi chuyến đó, tôi sẽ phải ân hận suốt đời, khi mẹ nhắm mắt xuôi tay, đứa
con duy nhất là tôi lại vắng mặt. Tôi thầm cảm ơn tác giả "Ma làng"
khi anh bảo : " Đã đi đến nơi, phải về đến chốn". Ngẫu nhiên, may mắn
đó đã tránh cho tôi niềm ân hận không sao làm lại được về đạo hiếu làm làm
người !
Có
lẽ thôi không nên nói nhiều về chuyện riêng của mình. Ái, ố, hỉ, nộ ai mà chẳng
có ? Không ít thì nhiều trong cõi "Thất tình", "lục dục"
của mình, ai cũng có những chuyện muốn nói, muốn chia sẻ cho vơi đi chút tâm
trạng để dễ bề nhẹ gánh tâm tư ..
Nhưng
đấy là vào dịp khác.
Hôm
nay tôi muốn chia sẻ đôi điều về những cái, xem qua, như thể ở xung quanh ta,
bên ngoài ta. Mà thực ra nó gắn bó với số phận mình bằng mối liên hệ khi thường
rất khó nhận ra.
Mối
liên hệ ấy lớn đến nỗi nó liên quan mật thiết đến vui, buồn, hạnh phúc hay đau
khổ của cả các tập đoàn người, như cá ở trong nước vậy ..
Bởi
vậy những ai vô tình cùng thế sự, chẳng chú ý gì đến những diễn biến diễn ra
hàng ngày là kẻ vô tâm, thậm chí là độc ác nữa !
Trong
điều kiện thời gian eo hẹp với tôi như lúc này, tôi sẽ cố gắng ở mức có thể, kể
lại đôi điều tai nghe mắt thấy, những suy nghĩ, cảm nhận của mình trong khoảng
thời gian ngắn ngủi, gọi là "Cưỡi ngựa xem hoa" trong chuyến hành
trình Xuyên Việt. Điều tôi chú trọng là làm sao thể hiện cho thật khách quan,
tránh được cái tật dễ mắc của người viết, hoặc nương theo ý một ai đó, một kiểu
cách khiên cưỡng nào đó..
Nếu
không, có viết cũng chẳng để làm gì.
Chúng
ta đã có quá nhiều, báo in, báo ảnh, báo nói, rồi ngay cả trên mạng intenet
nữa, bao nhiêu thứ vớ vẩn, giả tạo..
Thực
ra nó vô hại, nhưng về lâu về dài nó gây nên sự thờ ơ, nhàm chán và cuối cùng
là thiếu tin cậy của người yêu mến những sản phẩm tinh thần.
Làm
được chuyện đó là việc cực kỳ khó, không phải cứ muốn mà được. Nó phụ thuộc rất
nhiều vào khả năng, trình độ, cái "Tâm", cái "Tầm" của mỗi
người.
Quan trọng nữa nó cũng phải có
"Duyên" ! Có biết bao nhiêu cái HAY, cái PHẢI từng bị oan uổng, có
khi mấy chục năm, thậm chí hàng trăm năm người ta mới nhận ra nó chỉ vì sự xuất
hiện của nó vào lúc ấy chưa hội đủ DUYÊN !
Biết
là vậy, không dễ gì, nhưng cứ coi như một phép thử, để tự kiểm tra mình hay dở,
biết được tới đâu ?
Phải không ạ ?
Rất
mong được chỉ giáo cho những kém cỏi, chủ quan của người viết từ phía các bạn.
*
QUA MIỀN TRUNG MÙA LŨ..
Có
đi mới biết.. Thực ra nước Việt mình chẳng dài rộng gì. Đi từ đầu nước tới cuối
nước, vừa đi vừa nghỉ bằng ô tô loại thông thường cũng chưa hết tuần trời. Ấy
là nói chiều dài từ Mục Nam Quan đến mũi Cà mau. Còn bề rộng như nơi ngang qua
Quảng Trị chưa đủ hai giờ chạy bằng xe gắn máy. Còn như đi bằng tàu bay từ bắc
vào nam cũng chưa hết hai giờ đồng hồ !
Vậy
mà một thời chúng ta cứ véo von : " Đất quê ta mênh mông", cái
"Mênh mông của thời đi bằng xe "Căng hải", đi bằng những con
đường mòn, lội suối trèo non có khi mất hàng tháng trời.
Ai
đã từng hành quân từ Ba Thá, Miếu Môn của tỉnh Hoà Bình băng Trường Sơn những
năm chiến tranh hẳn chưa quên cái cảm giác xa xôi, cách trở, dằng dặc núi sông
.
Thấy
đất nước sao mà gian nan, điệp trùng khổ ải, hiểm nguy lại thường trực từng giờ..
Cái đích đến sao mỏi mòn, trường kỳ quá đỗi.. Bởi khi ấy ngoài đôi chân của
mình và sức lực của đôi vai bé nhỏ của người Việt mình, cuộc trường chinh ấy
thật là quá sức tưởng tượng.
Một
ngày dừng chân ở "Km số không" chỗ Tân Kỳ, đoạn đầu đường "Hồ
Chí Minh" đi Lộc Ninh, nhìn ngắm ngược xuôi tự nhủ :" Thì ra đấy với
đây cũng chẳng phải lấy gì làm xa xôi lắm, ngoại trừ cái giá máu xương phải trả
để có được con đường..Một thời phải đi đằng đẵng mấy chục năm trời mới đến được
cái đích cuối cùng !..
Nếu
thời tiết thuận lợi, không gió bão, lũ lụt xe chạy không mấy là hết chặng
đường. Nước non ngàn dặm cũng chỉ trong tầm mắt, trong cái nhìn của cuộc hành
trình ngắn ngủi.
Chỉ
có cái vô biên của nỗi khổ ải của dân tộc mình là không thể tính được. Chưa kể
đến ngàn năm bắc thuộc, trăm năm mất nước, chỉ tính đến thiên tai giặc dã từ
bao đời nay, cái đói, cái lạnh, lũ lụt hàng năm đã có bao nhiêu mồ hôi, nước
mắt ?
Nếu gom lại có thể lòng sông Gianh, sông Bến
Hải cũng không sao chứa hết.
Mà
nơi chịu đựng nhiều nhất, đau thương nhất không đâu khác chính là miền trung
"Dằng dặc niềm đau, nỗi thống khổ và thương nhớ" này !
Tổ
quốc hình chữ S, gầy guộc quằn lưng, tạo thành khúc ruột miền trung, mỗi năm gồng
mình hứng chịu không dưới mười trận bão kinh hoàng thốc từ biển Đông thổi vào.
Dãy
Trường Sơn lại như bức tường thành chặn lại, một trận bão xé ra hàng trăm ngàn
cơn lốc cuồng phong, hàng ngàn con thác lũ.. Hỏi làm sao mảnh đất ấy mỡ màu,
bình yên cho được ?
Có
anh bạn đồng hành hỏi tôi : " Sao trong này không thấy người ta làm nhà
vườn, xây nhà kiên cố, cao tầng nhiều như ở ngoài mình ? ".
Câu
hỏi đúng, không sai.
Chỉ
lấy làm lạ sao anh là nhà thơ, đã viết bao nhiêu bài thơ hay về đất nước, rất
nhiều bài được phổ nhạc được phát trên đài, in trên nhiều tờ báo lại hỏi tôi
điều này ?
Tôi im lặng.
Tôi
muốn anh tự tìm câu trả lời.
Bởi trong thâm tâm tôi nghĩ câu hỏi ấy từ lâu
đã có lời giải, nói thêm nữa đâm thừa. Mà cái gì thừa ra cũng vô ích, vô vị và
nực cười . Nếu anh là người ngoại quốc thì chẳng nói làm gì. Anh là người Việt,
ăn cơm Việt, nói tiếng Việt, đã từng đi đó đi đây, sao lại hỏi vậy ?
Hay
là hỏi cho có chuyện ? Để khỏi phải nói những câu chuyện khác, đứng đắn, nhưng mà
"nhạy cảm" về mảnh đất chúng tôi đang qua ?
Tôi
im lặng ghi nhớ trong tâm thức mình những căn nhà bé nhỏ, thậm chí tồi tàn, lụp
sụp núp dưới hàng cây cụt ngọn. Rất ít cây cối xanh tươi, cây cổ thụ lại càng
hiếm hoi trên mảnh đất này. Ngoại trừ những công trình công cộng, xây dập khuôn
một kiểu đơn điệu, hầu hết nhà ở nơi dân cư đều như thế. Nó như sự phô bày cảnh
thiếu thốn, gian nan của con người trên đất đai cằn khô, lại rất nghiệt ngã
này.
Nếu
như không có nhà cửa, quán hàng dọc theo hai bên con đường quốc lộ thì khung
cảnh thật hoang tàn. Càng đi sâu vào phía nam, cảnh vật càng thê thảm. Mấy đợt
lũ vừa tràn qua, bốn bề đồng trắng nước trong, mênh mang như biển .
Lênh
đênh vài con thuyền nhỏ bé, cũ nát chèo chống trên đồng không mông quạnh.
Bóng
người nông dân lặng lờ khoác tấm ni lông rách cũ, mệt mỏi chống đẩy con thuyền
nghiêng ngả.
Chẳng
biết anh hay chị ấy tìm kiếm gì giữa bốn bề trắng xoá, vô vọng ấy ? Họ đã quá
mệt mỏi vì biết bao trận mưa dữ dằn, những cơn bão tố lồng lộn..
Có thể nhiều ngày qua chỉ cầm hơi bằng miếng
mì tôm khô khốc và chai nước lạnh cứu trợ của đồng bào cả nước ? Cũng có thể từ
sớm tới giờ bụng dạ chay tịnh chưa có hạt sống người vì sự sơ xuất, thiếu sót
nào đó, khẩu phần hạn chế chưa được đến tay mình ?
Nhìn
cảnh con nước mênh mang, không ai bảo ai đều biết cảnh thiếu thốn gian truân
của cư dân suốt dải miền trung này. Bao giờ mới hết lũ ? Bao giờ nước mới rút
hết, để cánh đồng hoang nước ngập cấy được lúa, trồng được khoai ? Bao giờ làng
xóm vợi đi màu chết chóc tang thương, thấy lại bóng dáng con người, vợi đi nỗi
đau, vẻ sầu muộn hằn sâu nơi khoé mắt ? Bao giờ những con bò sống sót qua trận
lũ lại ung dung gặm cỏ, xóm thôn lại eo óc tiếng gà ? Bao giờ ? Bao giờ ?
Cả
nước xót thương, cả nước ngậm ngùi và san sẻ và cho dù có cố gắng đến đâu sự
cứu trợ đối với miền trung cũng chỉ như muối bỏ bể, vì sự mất mát to lớn và
khủng khiếp quá, lại ở khắp cả một vùng núi non hiểm trở, giao thông bị gián
đoạn nhiều nơi, nhiều vùng.
Đi
dọc đường, thỉnh thoảng chúng tôi bắt gặp những chiếc xe trưng băng rôn "
Cứu trợ miền Trung". Những chiếc xe lầm lũi đi trong mưa, lẻ tẻ âm thầm.
Trông nó cực kỳ nhỏ nhoi, so với thiên tai nghiệt ngã, trải dài suốt dải miền
trung.
Qua
màn gió mưa mờ mịt, chỉ thấy cánh đồng nước ngập trắng lẫn vào đám mây màu chì
u uẩn. Lác đác, loi thoi dấu vết của những thôn làng phía mờ xa lóp thóp vài
cụm ngọn tre nhô lên như bàn tay vẫy
gọi. Không biết giờ này cư dân của những thôn làng ấy đi đâu ? Ở đâu ? Nơi mái
nhà chưa đổ, hay trên các bè chuối lênh đênh ? Hay được chiếc xuồng cứu hộ nào
đấy đưa về nhà trạm xá hay hội trường uỷ ban nào đấy?
Chúng
tôi không phải đang đi chơi, có công có việc hẳn hoi, nhưng cứ có cái cảm giác
như người có lỗi. Chỉ trông thấy, nghe thấy mà chẳng làm được điều gì để chia
sẻ với đồng bào nơi đây.
Cũng có thể chính chúng tôi cũng sẽ là nạn nhân của đợt lũ lụt này. Không
điều gì không thể xảy ra. Đã từng có những chuyến xe bị lũ xô đẩy, cuốn theo
dòng lũ. Sinh mạng con người chẳng bao giờ lại nhỏ nhoi, bất lực đến thế !
Ở nhà chốc chốc điện thoại lại hỏi : " Đi
đến đâu rồi ? Có bị tắc đường hay xảy ra sự cố gì không ? " Có lẽ người
thân đang nóng lòng cho chúng tôi từng bước. Không lo sao được khi hàng ngày
các phương tiện thông tin đại chúng đưa hết tin này đến tin khác về thảm hoạ
miền trung !
May mà suốt chuyến đi như có Phật, Trời che
chở, không xảy ra chuyện gì. Có quãng chỉ cần chậm chân hai tiếng đồng hồ là
ngập đường, tắc lối, đi cũng dở mà ở cũng không xong !
Trước lúc đi đã có cuộc họp giao ban nói về
tình hình đường xá, thời tiết bất thường, dự báo tình huống xấu có thể xảy ra,
nên ai nấy đều hồi hộp. Không phải đến lúc đi mới xảy ra lũ. Nó đã hành hoành,
tàn phá miền trung cả mấy ngày rồi.
Các tỉnh từ Thanh Hoá trở vào đã từng ngập
nhiều ngày trong lũ. Chỉ hy vọng lũ giảm bớt cường độ như trận đầu, chúng tôi
tranh thủ vượt qua miền trung theo đường "Hồ Chí Minh" vì khả năng
quốc lộ I tình hình này đi lại khó khăn, lại thêm mật độ xe chạy quá đông. Đi
lại trên đường này, tốc độ đi đường chậm chạp đã đành, còn dễ xảy ra tai nạn.
Nhưng mà người tính không bằng trời tính ! Mới
vào đến địa phận Hà Tĩnh đã có tin điện khẩn cấp. Ở nhà cho biết đường Hồ Chí
Minh quãng ngang qua Quảng Bình vừa bị
sạt lở, tắc đường, hiện tai chưa có thể khai thông, đang chờ tiếp viện từ phía
bắc vào giải cứu thông đường !
Vậy là đến Hồng Lĩnh, xe chúng tôi lại gội gió
mưa mờ mịt rẽ xuống con đường ban đầu muốn tránh không đi qua ..
Có ý kiến cho rằng, cố gắng vượt qua mưa lũ để
tránh bị tắc lại giữa đường. Nhưng lái xe có vẻ ngần ngại. Khô ráo đi không
sao, mưa lũ thế này đi đường không đảm bảo an toàn. Mà khi lái xe đã có ý đó
thì không ai dám đòi hỏi nữa. Mặc dù người ta phụ thuộc mình, nhưng trực giác
của lái xe chớ nên coi thường, kinh nghiệm đã là như vậy. Hơn nữa trong đoàn có
vài vị cao niên, đang ở hội " Người cao tuổi", lỡ xảy ra việc gì đêm
hôm khuya khoắt dọc đường thì sao ?
Chúng tôi đành nghỉ lại dọc đường. Không biết
trận bão vừa rồi ghê ghớm đến đâu mà dấu vết vẫn còn. Gọi là nhà nghỉ mà dột từ
trong nhà ra tới mái hiên. Bốn tầng lầu, tầng nào cầu thang và nền nhà cũng ướt
sũng nước, đi lại cứ nhóp nha, nhóp nhép.
Bữa cơm cực kỳ đắt mà xem ra cũng không có gì
ngoài món dưa bèo nấu với lòng bò, vài miếng cá nhỏ để trong tủ lạnh lâu ngày.
Điện thì chợp chờn, ti vi mở mãi cũng chỉ duy
nhất một kênh. Mấy cô gái nhỏ xem chừng chưa hết tuổi học trò, đi lại nhớn
nhác, có vẻ lúng túng vì mới vào tập việc. Có thể các em vừa bỏ học hôm qua,
hôm kia vì nạn lũ, mới xin vào đây làm việc, cốt qua ngày và có thêm chút đỉnh
phụ giúp gia đình vào lúc này ..
THỬ TÌM NGUYÊN NHÂN VÀ LỜI GIẢI ..
Nếu một trong hai lá phổi của bạn bị hư tổn,
viêm nhiễm, bạn sẽ rất lo lắng. Có thể nó sẽ làm sức khoẻ của bạn giảm sút, bạn
sẽ bị triền miên đau ốm, thậm chí tử vong ! Ở Việt nam mình cũng có hai lá phổi
như vậy. Một là vùng núi phía bắc, và hai là dải Trừờng sơn ở phía nam đất nước
này. Nói thế để thấy rừng Việt Nam
quan hệ mật thiết đến thiên nhiên, xã hội Việt Nam như thế nào. Nó không phải cái
gì xa lắc xa lơ, mơ hồ đến nỗi chúng ta khó nhận ra. Nó cấp thiết, kề cận đến
cuộc sống của mỗi chúng ta. Vậy mà chúng ta đã đối xử với rừng Việt Nam nói chung
và với rừng Tây Nguyên thế nào ?
Trên đường đi, khi qua những cánh rừng trơ
trụi, tan hoang, chỉ thấy lóp ngóp vạt cây non mới trồng, nhà văn PN bất giác
thở dài và buột miệng : "Cơ bản chúng ta đã hoàn thành công việc phá tan
rừng !" Ông vốn là người thận trọng, chúng tôi vẫn gọi ông là " Nhà
văn chính uỷ", rất ít khi đả động đến những chuyện "nhạy cảm",
những câu chuyện dính dáng ít nhiều về "chủ trương đường lối", và có
nói điều gì thì chủ đích chính vẫn là tuyên truyền, vận động là chính, không
thích thắc mắc, hoài nghi.. Vậy mà phải thốt lên như vậy. Vẫn biết câu nói này
không phải của ông phát xuất ra. Nó gần như câu thành ngữ nhiều người đã nói.
Nhưng ông thốt ra như vậy chứng tỏ trong thâm tâm ông nó đến đường đột vì khung
cảnh phơi ra hiển nhiên trước mặt, khó có thể cầm lòng !
Chưa nói đến vị trí và tầm quan trọng của Tây
Nguyên về mặt văn hoá, xã hội, về an ninh chính trị, hay về quân sự. Những cái
đó đã có nhiều học giả, nhà khoa học, các tướng lĩnh đã nói đến khá nhiều.
Không những đối với riêng Việt Nam
ta mà cả khu vực Đông Dương, vì hiển nhiên Tây Nguyên là mái nhà chung của nhóm
quốc gia này. Tồn tại của nó là sự sống còn của một phần bán đảo Đông Nam Á .
Lịch sử đã chứng minh ai nắm được Tây Nguyên là nắm được vận mệnh của dải đất
phía nam nước Việt, nói xa hơn có nhiều lợi thế trên cả phần phía Đông Nam Châu
Á..
Ở đây chỉ nói riêng về tác động và vai trò của
nó với môi trường tự nhiên thôi, đã to lớn đến tầm cỡ nào ?
Còn nhớ sau năm 1975, Tây Nguyên vẫn là rừng
đại ngàn. Trừ một số vùng xảy ra chiến sự bị ảnh hưởng, còn đa phần Tây Nguyên
vẫn là rừng núi hoang sơ. Thiên nhiên đã tích góp hàng vạn năm, hàng nghìn năm
làm món quà tặng vô cùng quý giá mà ta không biết trân trọng, đón nhận và giữ
lấy..
Chúng ta đã từng có những cánh rừng đẹp tuyệt
vời với thảm thực và động vật vô cùng phong phú. Bạt ngàn cây cổ thụ to lớn cả
mấy vòng tay ôm không xiết. Chim muông, thú rừng phong phú không sao kể hết.
Những dòng suối trong vắt chảy qua những buôn làng âm vang tiếng cồng chiêng,
tiếng chày giã gạo. Vào rừng, người ta còn lo gặp hổ báo, voi rừng.. Những thác
nước đẹp như mơ ầm ào đổ nước trắng xoá vào những đêm trăng rừng lộng lẫy và
huyền bí. .
Ngày ấy chưa xa mà cứ như đang kể câu chuyện cổ
tích về rừng !
Suốt miền trung hai dải núi như hai bàn tay che
chở cho con người và mảnh đất nơi đây. Dải phía tây giáp nước bạn Lào núi non
hiểm trở, dải phía đông ăn lấn dần ra biển. Nói là hai bàn tay hẳn là cách ví
von chưa đúng, chưa sát với công ích của rừng Trường Sơn. Phải gọi đó là hai
bức trường thành, che chắn cho cả miền trung. Những đợt bão do áp thấp nhiệt
đới từ lục địa Trung Hoa thổi qua biển đông, dồn mưa lũ từ biển vào bờ tới đây
sẽ gặp hai cánh rừng chặn lại và làm suy yếu đi rất nhiều. Rừng Trường Sơn như
cỗ máy điều hoà sẽ vô hiệu hoá chúng, giữ lại lượng nước vừa đủ cho những cánh
rừng, những dòng sông, con suối rì rào quanh năm.
Con người dựa vào thiên nhiên, sống dựa vào
rừng. Mâu thuẫn giữa con người với tự nhiên chưa thành áp lực ghê ghớm như ngày
nay..
Đó là sự chung sống hài hoà và ổn định..
Vậy chúng ta đã làm gì để ra nông nỗi như ngày
nay ?
Bây giờ chưa phải là lúc để lên án hay đả kích
một ai cả, nhưng quả thật chúng ta đã làm quá nhiều việc sai lầm. Chúng ta có
tội với Trường Sơn, có lỗi với rừng và các thế hệ mai sau. Nhìn những cánh rừng
èo uột, xác xơ không ai không cảm thấy bùi ngùi. Một cảm giác lo âu, bồn chồn
khi chúng ta biết rằng sắp tới đây những biến đổi khí hậu ghê ghớm sẽ xảy ra.
Nó sẽ hợp lực với thực tại rừng bị tàn phá này để gây nên hậu quả khó lường !
Bắt đầu bằng những chủ trương về xã hội và kinh
tế được làm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc và hết sức vội vã. Chúng ta nôn
nóng, muốn mười năm , mười lăm năm, hai mươi năm đuổi kịp một số nước nào đó
một cách rất chủ quan. Chúng ta không nhớ rằng ở các quốc gia đó, họ đã chuẩn
bị nền móng khác hẳn mình. Họ có những cơ cấu xã hội, có tiềm lực kinh tế và bề
dày lịch sử, về kinh nghiệm và văn hoá khác hẳn ta .
Những cuộc di dân ồ ạt từ miền bắc, những đợt
định cư người thành phố ở phía nam lên cao nguyên như những đợt lũ làm xáo trộn
xã hội và sinh thái rừng. Những dự án trồng cà phê, trồng cây công nghiệp biến
những cánh rừng trở nên trơ trọi. Môi trường sống bị xáo trộn phát sinh những
biến động về trật tự xã hội, mất cân bằng về sinh thái.
Chưa hết, lại tiếp đến những công trình thuỷ
điện, giao thông chỉ lấy cái lợi trước mắt làm mục tiêu mà thiếu cân nhắc đến
mức độ ảnh hưởng của nó tới tự nhiên.
Ai cũng biết, điện khí hoá là cần thiết cho sự
phát triển đất nước. Nhưng làm như thế nào lại là chuyện khác. Hậu quả là chúng
ta biến Trường Sơn thành một "đaị công trường xây dựng". Đâu đâu cũng
thấy dự án này, dự án kia. Còn chưa kể đến việc khai thác tài nguyên bừa bãi
khiến rừng chảy máu và ô nhiễm môi trường.
Còn chưa kể đến những phong trào khai thác lâm
sản làm một cách ồ ạt. Nạn cưa cây, hầm than kể như nơi nào cũng có mà sự kiểm
soát theo cách thức mấy chục năm vừa rồi kể như chưa thực sự kết quả lắm. Nhiều
nơi lực lượng bảo vệ rừng cấu kết với "lâm tặc" gây nên nạn phá rừng
bừa bãi.
Đừng đổ lỗi tất cả việc mất rừng là do dân
nghèo vì kế sinh nhai mà tàn phá rừng. Chính các "đại gia", các ông
to bà lớn, có chức có quyền không tròn
bổn phận, lợi dụng cương vị của mình, mới có cơ hội, có điều kiện, mới là thủ
phạm tệ hại nhất gây nên chuyện này ! Chỉ có họ mới có khả năng phá hoại đến
mức ấy !
Thật lòng mà nói, ai cũng cũng cảm thấy buồn.
Nhiệt tình một thiếu kiến thức chả khác gì kẻ phá hoại. Cố ý mưu lợi riêng lại
càng đáng căm phẫn và lên án !
Dù sao việc đã rồi ! Có nói nữa cũng chẳng giải
quyết thêm được điều gì. Đúng sai thì bây giờ cũng rõ như ban ngày cả rồi .
Vấn đề là tới đây, cần phải làm gì ? Làm như
thế nào để rừng hồi sinh trở lại ? Làm thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất hậu
quả lũ lụt mà không năm nào không xảy ra đối với miền trung ?
***
Một
đêm nghỉ lại Hồng Lĩnh, ẩm thấp, ngột ngạt và đầy mộng mị. Nhà văn Trần Huy Vân
( Tác giả Tiểu thuyết "Tuổi trăng đầy", không hiểu vì lý do gì, ngay
khi sách chưa kịp phát hành đã có tin bị thu hồi. Cho đến nay lý do vẫn chưa
được giải thích, vẫn chìm trong sương khói của sự hoài nghi ), ông ở cùng phòng
với tôi. Ông xuất thân là nhà giáo, dạy văn cấp III. Thực tế bức xúc khiến ông
luôn day dứt :" Vai trò của chủ nghĩa hiện thực trong thời buổi này như
thế nào ?" Theo ông cho đến nay vẫn có những vùng cấm kỵ, không dễ thể
hiện trong sáng tác. Thực ra vấn đề này đã có lời giải tự lâu rồi, từ thời bắt
đầu "Đổi mới". Người ta nói
khá nhiều đến "cởi trói", tự do sáng tác. Nguyễn Minh Châu đã có bài
viết rất hay " Ai điếu cho một nền
văn chương minh hoạ". Văn học mạng lại càng ồn ào, mở đầu cho những sáng
tác mới mạnh bạo và thoáng hơn về tư tưởng. Vai trò của văn học trong thời buổi
gọi là "Quá độ" này đang có cuộc tranh cãi quyết liệt. Người thì bảo
" Văn chương đã không còn vai trò hướng đạo, dẫn dắt tư tưởng, giờ đây
thiên về giải trí là chính". Ông ta dẫn chứng cụ thể các chương trình của truyền
hình, các lễ hội rồi các sản phẩm âm nhạc gần đây chứng minh điều đó ! Kẻ lại
nói " Tách văn chương và tư tưởng thành hai thực thể riêng biệt chẳng khác
nào tách phần xác ra khỏi phần hồn, bởi thực ra văn chương là hình thái cao hơn
những gì mà tư tưởng muốn thể hiện" ! Bên nào cũng có cái lý của nó. Đúng
hay sai chỉ có thời gian mới trả lời được. Còn vì sao mà nói thế này hay thế
khác còn tuỳ thuộc ở cái tài, cái tâm và cái tạng của mỗi người. Có người nói
vì mục đích không hẳn đã vì tiến bộ của văn chương. Nói vì chỗ ngồi, vị trí
đang có, hoặc muốn có..
Riêng
tôi, tôi không thích tranh luận. Một là các cuộc tranh luận thường không có hồi
kết thúc. Nếu không thông cảm dễ nảy sinh mâu thuẫn. Hơn nữa đã tranh luận phải
có "Chuẩn" để biết đúng sai.
Trong
tình cảnh hiện nay, nhiều việc rất mơ hồ, thật giả lẫn lộn. Nhiều chủ thuyết
không còn đủ sức thuyết phục. Vậy thì tranh luận sẽ đi tới đâu ? Cách tốt nhất là lao động cho nghiêm chỉnh,
trong quá trình trải nghiệm ấy mình sẽ tự nhận thức và ngộ ra nhiều điều, đúng
sai, hay dở thế nào chỉ có cuộc sống là người thầy sáng suốt và minh bạch nhất !
Nên
khi nhà giáo, nhà văn đưa vấn đề ra, tôi bèn tìm cách chuyển câu chuyện sang
hướng khác. Một là để tránh phức tạp hoá vấn đề vốn đã phức tạp. Hai là nó
không phù hợp vào lúc này, khi chúng tôi đang đi dần vào rốn lũ, bão có thể ập
đến bất cứ lúc nào. Cả một vùng đang kêu cứu do bão lũ hoành hành, lẽ nào chúng
tôi ngồi đây để bàn cãi những việc "Bể Sở, mây Tần" ấy ?
Nhà
văn lúc đầu có ý không bằng lòng vì tôi chưa đồng tình với ý nghĩ và mối quan
tâm của ông, có chút gượng gạo khi tôi chuyển câu chuyện sang hướng khác.
Sau
rồi câu chuyện của tôi không biết vì cách nào đó, đã cuốn hút ông. Ông lại rất
mặn mà với câu chuyện : GIẢI PHÁP NÀO CHO MIỀN TRUNG ?..
**
Bạn
đã từng một lần đứng bên bờ sông Gianh, nơi hàng trăm năm trước đã từng là nơi
gianh giới, tranh chấp của hai thế lực (Trịnh & Nguyễn) đều nhân danh
"Phò Lê" mở cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn kéo dài suốt 250 năm ?
Bạn nghĩ gì trước những dấu vết của luỹ thành còn xót lại ?
Mới thấy cái gọi là "chính danh" của
hai nhóm thế lực ấy đều là chuyện tầm phào. Chỉ có máu xương của bao nhiêu thế
hệ người Việt Nam
mình mới là nỗi đau có thật . Máu xương trăm họ rốt cuộc chỉ bị lợi dụng cho
những mưu đồ quyền bá và lợi ích của một nhóm người.
Đứng
trên đèo ngang, bâng khuâng về ngày tháng đã qua, mới thấy số phận dân tộc mình
thật ngặt nghèo. Trước mặt là biển cả mênh mông, sau lưng là núi non hiểm trở,
thấy mình thật may mắn đã còn tồn tại đến ngày hôm nay. Chúng ta là con cháu
còn sót lại của một quốc gia có tên là ĐẠI VIỆT, từng có lịch sử huy hoàng, đất
đai rộng lớn. Ngày nay các nhà sử học đang dốc sức lần tìm nền văn minh một
thủa đã từng bị bao đợt ngoại bang chà sát, làm lu mờ, hòng tiêu diệt, mà không
thể thực hiện nổi. Chúng ta có quyền hãnh diện về một dân tộc bất khuất, trường
tồn.
Song
chúng ta không khỏi bùi ngùi trước hiện tình trước mắt. Nước ta còn quá nghèo,
quá lạc hậu, dân ta còn quá khổ sở, thiếu thốn. Không nơi nào trên đất nước
mình thể hiện rõ nhất nỗi cơ cực ấy bằng dải đất miền trung.
Không
cần nhắc lại, mấy cuộc chiến tranh vừa qua, miền trung hy sinh và chịu đựng như
thế nào. Miền trung có quyền đòi hỏi và quan tâm là lẽ đương nhiên.
Mười
năm qua, thực trạng ấy đã biến chuyển khá nhiều, bộ mặt non sông đã đổi khác.
Nhưng
nỗi buồn lo vẫn còn rất nặng nề. Cũng không ở đâu cần sự bù đắp chăm nom như ở
miền trung. Đi suốt miền đất hằng năm oằn mình chống lũ, đất đai lúc lại quá
cằn khô mới thấy nỗi lo ấy là có thật.
Người
ta nói nhiều về những biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiều vùng đồng bằng sông Cửu
Long và đồng bằng sông Hồng sẽ biến mất, hoặc chìm sâu nước mặn. Đã có những
phương án cho những vùng đất này. Người dân sẽ sống ra sao ? Trồng cây gì, con
gì để bảo toàn đời sống ? Kinh tế, xã hội sẽ phát triển theo hướng nào cho phù
hợp ?
Nhưng
chưa nghe nói, hoặc nói có bảo đảm cho dự án nào cho miền trung và Tây Nguyên.
Chúng ta mới chỉ đối phó một cách thụ động khi ta hoạ xảy ra. Chưa có một
phương án tổng thể, toàn diện cho cả một vùng. Ngay việc đơn giản nhất với khoa
học dự báo khí hậu, thời tiết ngày nay ta vẫn làm chưa chính xác. Dự báo thường
là chậm, ứng phó lại không kịp thời. Từ đó các công trình xây dựng, đường xá
đều chưa thích hợp cho vùng có bão lũ dữ dội.
Sao
chưa thành lập những trung tâm phòng chống lũ ngay tại chỗ ? Sao chưa thấy các
kho dự trữ lương thực, thực phẩm phòng khi lũ lụt xảy ra ?
Ở
các nước người ta đã từng thực tập ứng phó khi xảy ra thiên tai, ta đã có lần
nào làm việc này chưa ? Cần quy hoạch khu dân cư thế nào trước những diễn biến
khí hậu phức tạp như hiện nay ? Cụ thể
hơn cần có mô hình nhà ở như thế nào cho cư dân vùng ngập lũ ? ( Việc này đã có
kinh nghiệm ở vùng nước nổi đồng bằng sông Cửu Long rồi kia mà ?)
Công
bằng mà nói, miền trung đã được đầu tư và chú ý đến phát triển kinh tế, văn hoá
xã hội. Nhưng kết quả chưa được như mong muốn. Còn rất nhiều việc phải làm.
Một
vài khu công nghiệp mới, một số đập thuỷ điện, hồ chứa nước chưa giải quyết
được bao nhiêu.. Thậm chí đôi khi lại mâu thuẫn với mục đích đề ra ban đầu,
phản tác dụng..
Câu
chuyện của chúng tôi có thêm một vài người nữa trong đoàn. Thì ra tâm trạng ai
cũng như ai. Chỉ có điều ý kiến mỗi người một khác.
Người
thì bảo :
-
Trước mắt, tiềm lực kinh tế của ta chưa thể làm được chừng ấy việc !
Kẻ
cãi lại :
-
Chỉ cần có số vốn có thể huy động được để làm "Đường cao tốc Bắc
Nam", hay số tiền Vinasin thất thoát là làm khoẻ re !
Tôi
ngồi im lặng, nghe và nghĩ ngợi. Thực ra không phải việc khó quá không làm
được. Nói ra lại e người ta bảo :"Gái goá lo việc triều đình". Mình
tài sức được bao nhiêu mà dám cả gan đụng đến những việc to lớn ấy ? Nhưng
không nói thì cứ ấm ức trong lòng. Chả nhẽ mình là thường dân lại không dám ý
kiến gì ư ? Thế thì còn gọi là công dân, dân lương thiện làm cái quái gì nữa ?
Thì
ra thời nào, kẻ có chút chữ nghĩa thường hay cả lo. Chỉ qua cuộc trao đổi nhỏ
của một nhóm nhỏ tầm thường như chúng tôi đã hé lộ đôi điều về : GIẢ PHÁP NÀO
CHO MIỀN TRUNG ?
Chỉ
có điều nỗi lo lắng đó nhỏ nhoi quá, không biết có thấu đến thiên đình không ?
Quảng Trị một lần và
mãi mãi ..
Tạm
biệt Quảng Bình vào một buổi sáng mưa giăng đầy trời, xe chỉ chạy không quá hai
mươi cây số một giờ vì tầm nhìn hạn chế. Chỉ nhìn thấp thoáng Đồng Hới nhoà
trong mưa, những đoàn thuyền nhỏ nhoi sơn màu xanh đỏ nằm thu mình trong các
cảng cá ven bờ. Thoáng chút nhớ về một đêm trăng năm nào nằm ở nhà nghỉ Công Đoàn.
Hôm đó không hiểu phát khởi thế nào anh bạn họ Vũ của tôi một mình qua cầu Đồng
Hới lần xuống bãi biển. Không có rượu để say, nhưng men của gió của biển làm Vũ
ngay ngất, nửa đêm mới chịu mò về. Khi về phòng quần áo anh ướt sũng, lại cứ
đứng giữa nhà hát như người lên đồng. Hết " Vĩnh linh, Quảng Bình"
lại đến " Mẹ Suốt".. Những bài ca được hát phổ biến rầm rộ những năm
bảy mươi. Lúc đầu chúng tôi cảm thấy vui vui vì tình yêu nghệ thuật quá đỗi hồn
nhiên của anh. Về sau phát hoảng, sợ anh trúng gió phải cảm, bảo thế nào cũng
không được. Vũ cứ hát cho đến lúc nền nhà ướt nhèm rồi tự khô đi. Dỗ mãi Vũ mới
chịu vào toalet thay đồ. Cả đêm cho đến sáng mấy anh em phòng bên cứ lục đục
không sao ngủ lại được vì quá giấc.
Có
người lúc đó bực mình, lẩm bẩm " Đồ dở hơi !" . Tôi tuy không thích
lắm cử chỉ của Vũ lúc ấy, nhưng quý anh ở nết chân thành, thẳng thắn và khí
khái nên tìm cách hoà giải. Cuối cùng mọi việc cũng được bỏ qua. Chuyến đi này
không có Vũ, tự nhiên lại thấy nhớ. Lần trước trăng thanh gió mát, bao nhiêu là
chuyện vui ( Duy có sự cố ở Huế, xin kể ở phần sau) . Lần này thực là đi trong
gió trong mưa, lo ngay ngáy dọc đường, mặc dù trên xe chuẩn bị nước uống lương
khô đủ cả. Lo là bị kẹt lại dọc đường, lỡ lộ trình còn rất dài và rất xa ở phía
trước. Nếu có Vũ trong chuyến đi này, có lẽ trưởng đoàn sẽ yên tâm hơn. Ông
luôn khuyến khích anh em nói chuyện thật vui, chuyện tiếu lâm cũng được miễn là
tránh được cơn buồn ngủ cho lái xe. Các bạn biết rồi đấy, đường trường mà lái
xe ngủ gật thì thôi rồi.
Hết
Quảng Bình, trời giảm mưa, tự nhiên có nắng ửng lên. Đến cầu Hiền Lương phong
cảnh khô ráo hẳn như chưa từng có bão lũ qua đây.
Người
Quảng Trị thường nói với nhau : " Ở đâu gió bão tơi bời gió Lào rát bỏng,
có nhiều nghĩa trang liệt sĩ, ở đó chính là quê mình" ! Với tôi Quảng Trị
còn có những dòng sông không thể nào quên : Sông bến Hải hai mươi năm trời là nỗi đau chia cắt Bắc Nam . Một thời
họ Ngô hô hào " lấp sông Bên Hải, vượt sóng cửa Tùng, bắc tiến"
Thế
rồi năm tháng đi qua, chẳng ai lấp được sông này, cuối cùng bắc nam vẫn về một
mối. Chỉ còn sót lại cặp loa to tướng làm di vật ghi nhớ cuộc đấu khẩu kỳ lạ
nhấtcủa cả hai phía. Còn cái tháp canh đen đúa và trơ trẽn đứng vô công rồi
nghề bên dòng sông nhỏ hằn vết đau quá khứ.
Là
sông Thạch Hãn mỗi lần qua lại khẽ rùng mình bởi nhớ lại câu thơ :
"
Đò qua sông hãy bơi thật khẽ
Dưới
đáy sông còn đó, bạn tôi nằm .."
Là
con sông Sê Pôn dữ dội, bắt nguồn từ nước Việt nhưng lại chảy sang Lào theo
hướng tây, khác hẳn xu hướng của những con sông khác, thường theo hướng đông.
Là
đảo Cồn Cỏ một thời sắt thép rải đầy mặt đất
Là
Thành Cổ có từ thời vua Minh Mạng.
Là
Lâm ấp, tiểu quốc một thời của người dân Quảng Trị tự phát chống quân Hán xâm
lược. Nơi một thời Ngọc Hân công chúa quên tình riêng vì đại nghĩa dân tộc.
Rồi
Thành cổ thấm đẫm máu xương của đồng bào đồng chí và cả những người lính ở phía
bên kia. Sắt thép vô tình, đâu có phân biệt bên nào với bên nào ? Máu xương của
họ hoà quyện vào nhau trong nỗi đau quá khứ.
Mục
tiêu hoà hợp dân tộc, phát triển đất nước, hơn lúc nào hết cần thận trọng khi
chạm vào vết thương quá khứ.
Suy
cho cùng cũng là máu đỏ da vàng, là con cháu Rồng Tiên bất luận ở bên nào chiến
tuyến.
Đã
đến lúc người Việt Nam
cùng xiết chặt tay nhau để gây dựng cơ đồ, bỏ qua mọi bất đồng về chính kiến để
xây dựng non sông. Một non sông gấm vóc nhưng cũng đầy nguy cơ và thử thách
rình rập từng ngày.
Trước
mối lo lớn, mọi toan tính thật là bé nhỏ..
Nhìn
lên bản đồ tổ quốc, Quảng Trị có hình thù của một ngôi sao năm cánh. Như là
trời đất vô tình đã cho ta hình dáng để nhắc nhớ một sự nằm lòng, không thể nào
quên về quá khứ mỗi lúc ta hào hứng nghĩ cho ngày mai.
Đến
Quảng Trị lần này, lại vào giữa mùa bão lũ, tự nhiên tôi cứ nghĩ miên man như
thế. Có thể một ai đó không đồng tình. Nhưng mà không sao, tôi nghĩ trước hết
là cho tôi, cho những ai đồng điệu với mình, phải không các bạn ?
Tôi có người bạn người Đông Hà, cô là giáo viên
của một trường trung học phổ thông. Hơn ai hết bạn hiểu về mảnh đất con người ở
đây. Mảnh đất đầy cam go, dữ dội, chồng chất khó khăn tạo nên tính cách con
người quyết đoán nhưng cũng rất đằm thắm tình người. Ngay bữa sớm điểm tâm một
ngày đã lâu, tôi đã nhận ra điều đó. Cô bán hàng ân cần, giọng Quảng Trị nghe
thương lắm, mang đến cho chúng tôi những bát hủ tíu nước dùng rất trong và
ngọt. Ở nơi khác thịt gà, thịt lợn chỉ thái sêu sêu, mỏng dính phủ làm hàng lên
trên. Ở Quảng Trị "Miềng" thì không ! Cả một miếng thịt nửa nạc, nửa
mỡ to lối nửa bàn tay, đầy đặn để lên trên trông rất ngon lành. Tôi nghĩ ngay
đến tính cách vùng miền khác hẳn mọi nơi của Người Quảng Trị. Ăn thật, nói
thật, yêu ghét rõ ràng. Không có lối làm hàng, màu mè khách sáo, hay lối kiểu
cách giả tạo của người ở phố.
Sinh
thời chả biết lý do gì đó, mẹ tôi rất mặc cảm, mẹ tôi bảo : "Chơi với
người phố phường, nên thận trọng con ạ!" Đã "Phố lại
còn"Phường" !
Nghe
thì có vẻ thô lậu, không thuận lỗ tai của người ở quê, trong Nam hay nhại
"Lúa" nọ "Lúa" kia .Cách nói có phần mặc cảm của người ở
đồng ruộng, thôn quê . Nhưng thực tế đời sống có phần minh chứng cho kinh
nghiệm của những người già. Cái cách phản ứng có phần thái quá trước cái nhìn
xem thường của ít người nào đó coi rẻ những người chân đất, quê mùa.
Người
Quảng Trị, cho dù ở phố cũng không mảy may nhận ra tính cách đó.
Khi
viết bài này, tôi gọi điện cho cô bạn, sợ mình chủ quan sơ xuất gì chăng ? bạn
tôi nói:
-
Anh viết còn chung chung quá, chưa nêu được con người và mảnh đất Quảng Trị
đâu..
Thoạt
tiên tôi cũng cảm thấy buồn. Mình chưa làm được điều mình muốn. Dù sao tôi cũng
là người đất khách, chỉ ghé qua Quảng Trị vài đôi lần, dù có cố công thế nào
cũng không hiểu đụơc sâu xa về mảnh đất và con người ở đây. Cũng như người ta
nói : " Cưỡi ngựa xem hoa" thôi mà !
Nhưng
ngay từ phần đầu bài viết này, tôi đã nói : Tôi sẽ không ghi chép theo kiểu
thông thường xưa nay, không theo trình tự thời gian, mô tả sự kiện, sự việc cụ
thể, chi tiết. Tôi chỉ ghi lại những gì bằng trực cảm để lại ấn tượng trong
tôi, những ám ảnh và suy nghĩ của tôi .
Nhưng
dù sao cũng cảm ơn bạn đã chân thành góp ý. Tôi sợ nhất lối xã giao cốt để vừa
lòng, cách mà khi chưa thực thông cảm, người ta hay dùng cho nhau !
Nếu
không vì bão lũ rình rập sau lưng, có thể tôi sẽ dừng lại ở Đông Hà, tới thăm
người bạn tuy chỉ quen biết nhau qua những bài viết, lời commen nhưng có
thể nói là tin cậy và rất quý trọng
nhau. Con người ta có khi sống cả đời gần gũi có khi vẫn dửng dưng, vô cảm,
nhưng chỉ một ánh mắt, cái nhìn, một lời nói có thể đã cảm thấy thân thương.
Cái đó ngày nay người ta gọi là " Sự liên kết tâm linh", không nhìn
thấy, không chứng minh bằng vật chất được, nhưng hoàn toàn có thật. Ngày xưa các
cụ gọi nôm na là cái "Duyên kỳ ngộ". Kỳ lạ thật, nhưng mà rất đáng
tin !
Ngoài ra còn một số bạn văn tôi từng gặp, được
các anh chị đón tiếp thật thân tình, chu đáo, như người ruột thịt lâu ngày gặp
lại. Để lại trong tôi những tình cảm thật khó quên.
Nhưng
tất cả những dự định ấy đều không thực hiện được. Vì an toàn của chuyến đi
trong hoàn cảnh đặc biệt như lúc này, trưởng đoàn không chấp nhận bất cứ lời đề
nghị nào tương tự như vậy. Nên đành chịu, định bụng sẽ thực hiện ý định đó khi
trở ra. Nhưng cho đến lúc đó, cũng chỉ là dự định, bởi khi ra, tình hình không
sáng sủa hơn, lũ đang rượt sau lưng, tin báo thời tiết mỗi lúc mỗi nặng nề, mỗi
xấu !
Thôi,
biết làm sao ? Con người không phải con chim, muốn thì vù một cái là được. Con
người vốn yếu đuối, nặng nề và kém cỏi, chẳng làm chi cho khác được.
Về
đến bắc mà còn áy náy trong lòng..
Một thoáng Đông Hà
*
Có một câu chuyện mà tôi định bụng không kể, vì sợ mất đi sự nghiêm túc của bài
viết này.
Ấy
là lúc trở ra, chúng tôi dừng chân ở chợ Đông Hà, nơi vào những năm sau chiến
tranh người ta hay dừng chân ghé vào mua áo thun và dép xốp Lào, những thứ hàng
từ Thái Lan qua đường tiểu ngạch, chủ yếu bằng con đường buôn lậu qua cửa khẩu Cầu
Mây vào Quảng Trị. Lúc đó mọi thứ hàng đều khan hiếm, từ cái bàn chải đánh
răng, đến cái hộp quẹt cũng còn phải phân phối. Chiếc áo thun, đôi tông Lào
mang ra chợ Đồng Xuân có thể bán lãi gấp đôi, thậm chí gấp ba tiền. Phương tiện
đi lại cực kỳ khó khăn,
nên
ai có điều kiện ngang qua đây nếu có thể đều không bỏ qua cơ hội này.
Bây
giờ thì khác rồi, hàng hoá bày la liệt, trong nam ngoài bắc, hang cùng ngõ hẻm
đâu cũng như đâu, giá cả gần như bão hoà cả rồi. Chẳng ai dại gì tay xách nách
mang cho nặng người. Trước lúc đi mọi người đã thầm quán triệt là trừ những món đồ nhỏ gọn làm lưu niệm, đừng
ai mua linh tinh như những chuyến trước. Có thứ còn đắt hơn ở nhà vì mình là
khách lạ, không khéo mua phải hàng nhái hàng rởm nữa. Giá cả hàng họ ở những
khu du lịch hay các tụ điểm giao thông đường dài thường là "giá trên
trời". Vừa chiếm mất khoảng không gian hạn chế trong xe, vừa mất tiền.
Hàng hải sản gói bọc không kỹ lại bốc mùi khó ngửi nữa !
Vì
thế khi xe dừng, một số vào chợ, chủ yếu là vì tò mò, phần vì thư thái cho đôi
chân gò bó trên xe khá lâu.
Tôi tha thẩn một mình nơi gần quảng trường nhỏ
ngay kề quốc lộ. Có lẽ do ảnh hưởng lũ lụt, phần vì có mưa nho nhỏ, Đông Hà làm
như vắng vẻ. Bức tượng bêton của tổng bí thư Lê Duẩn đứng một mình, quay mặt ra
đường. Tôi để ý không có bó hoa nào đặt dưới chân tượng. Có lẽ hôm nay là ngày
bình thường, không lễ lạt gì nên không có hoa chăng ?
Từ
đây về Triệu Phong chừng mươi cây số nữa là khu nhà tưởng niệm của ông. Có lẽ
phong thổ, tập quán của người Quảng Trị tạo nên phong cách đặc biệt của nhà
lãnh đạo này. Một ý chí sắt thép, quyết tâm có lúc gần như cực đoan. Ông đã góp
phần quan trọng vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Đã tỏ ra bất khuất kiên cường trong công cuộc bảo toàn lãnh thổ khi xảy ra hai cuộc
chiến tranh : Biên giới phía Nam
và biên giới phía bắc tổ quốc. Nếu sau năm bảy mươi lăm, không phải vì nóng vội
đề ra chính sách " Cải tạo công thương nghiệp" " Cải tạo văn hoá
xã hội", giá lương tiền, khu kinh tế mới ..vv Có thể sự nghiệp của ông có thêm
đỉnh rất cao sáng chói !
Nhưng
con người ta, dù là bậc thiên tài, cũng là người trần mắt thịt, một lần da tới thịt,
tới xương, Sao ta cứ đòi hỏi ở một người nhiều đến vậy ? Mà không nghĩ đến hạn
chế lịch sử mà bất kỳ ai cũng không vượt thoát, nhất là trong hoàn cảnh ngặt
nghèo về kinh tế, chính trị khi đó ?
Tôi
nghĩ vậy, dù đã từng chứng kiến người ta thực hiện " Văn hoá văn
minh" ở thủ đô Hà Nội ngày ấy như thế nào ? Lúc bấy giờ mà ăn mặc và ca
hát như lớp trẻ đầu xanh, đầu đỏ bây giờ, chuyện gì sẽ xảy ra ? Thiết nghĩ cũng
không cần nhắc lại thời cả nước nhai "Bom bo" ấy nữa..
Lịch
sử vốn công bằng, "Châu lại về hợp phố", cái gì của Xê Ra sẽ trả lại
Xê Ra !
Có
những luận điệu cho rằng " Ở các nước cộng sản, chuyện về các lãnh tụ là
bí mật quốc gia". Tôi nghĩ không phải thế, đó là dụng ý xấu. Không ai cấm
hãm viết về họ. Có điều phải là những nhận xét, đánh giá khoa học, công bằng và
thật khách quan. Còn chuyện nói xấu, bôi nhọ lại là chuyện khác. Có lẽ không vị
tổng thống hay một nguyên thủ quốc gia nào cho phép nói xấu và bôi nhọ mình cả,
thời nào cũng là như vậy..
**
Tôi đang nghĩ vẩn vơ như thế, bỗng có người gọi giật sau lưng :
-
Có cái này hay lắm, có mua không ?
Một
anh bạn trong đoàn, nhà biên kịch XĐ, theo sau một cô gái đang đi lại phía tôi.
Cô gái chỉ mang theo mình một túi xách nho nhỏ, có gì đâu mà mua ? Người quen
của XĐ, hay người bán loại hàng gì đặc biệt, nhỏ gọn chưa thể nhìn thấy ngay ?
Để
các bạn theo dõi tiếp câu chuyện, xin có mấy dòng phác hoạ như sau :
XĐ chơi với tôi khá thân. Anh có bề ngoài bẽn
lẽn, e dè như sợ một cái gì đấy vô hình, vô ảnh. Mãi về sau tôi mới khám ra cử
chỉ bề ngoài ấy là có nguyên do. Một là do một lần XĐ có một kịch bản ra đời
chưa đúng lúc, một sự vô ý làm hại anh. Hai là trong cuộc sống vợ chồng, anh luôn
yếu thế, luôn không đáp ứng được đòi hỏi của vợ trong chuyện chăn gối. Tình
trạng thất bại lâu ngày đã biến anh từ một chàng trai cứng cỏi, đầy nghị lực và
bản lĩnh trở nên kẻ dút dát, hay e ngại, cả nể. Dù là một tác giả kịch cỡ trung
bình, nghĩa là không tài cũng không hèn lắm.
Tốt nghiệp trường điện ảnh sân khấu, ra trường
XĐ làm đạo diễn cho một đoàn nghệ thuật tỉnh Q, đó là biên chế chính thức trong
cơ cấu hành chính của đoàn. Còn việc chính của anh là viết kịch, bạn bè vẫn gọi
đùa là "Kịch tác hại", có ý diễu nhại cái mỹ từ "Kịch tác gia
" của anh.
Sở dĩ có cái biệt danh khác thường ấy là vì
cách nay hơn mười năm XĐ gặp tai nạn nghề nghiệp, do việc viết lách của mình
gây ra.
Người ta đình chỉ tác phẩm của anh, không đoàn
nào được dựng. Không có văn bản nào chính thức về việc này. Chỉ nghe nói một
cái "lệnh miệng" của một quý ông lãnh đạo nào đấy.
XĐ được bố trí cho theo đoàn chiếu phim lưu
động. Hồi đó mới có phim Vidio, thường được chiếu rộng rãi các địa phương trong
tỉnh. Có dư luận anh còn bị thẩm vấn,
điều tra lý lịch. May mà ba đời gia đình anh đều theo cách mạng, ông cha không
có vấn đề gì, nên XĐ không bị cho thôi việc.
Bây giờ xem lại vở kịch thấy cũng chẳng có gì
sai. Anh đả phá thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền..Mầm mống của tham nhũng,
tiêu cực. Điều này không có gì sai với chủ trương, đường lối. Cái tội của anh
là đặt tên nhân vật na na với với tên của lãnh đạo tỉnh. Người ta gán cho anh:
"Ám chỉ bôi nhọ" lãnh đạo ! Một
tên "Trần Bất Hạnh" vớ vẩn nào đấy, mà lúc ấy u mê thế nào XĐ không
nhớ ra đó là một huý kị chết người ! ( Tên cái ông ra lệnh miệng nêu ở phần
trên ).
Các lãnh đạo thường thì trăm công nghìn việc.
Ít ông nào có thời gian để đọc sách báo, hay xem kịch cọt. Sở dĩ ông biết việc
này là do có kẻ làm thầy dùi. Tên này đang nhăm nhe chân chánh văn phòng của
một ông nghấp nghé về hưu. XĐ tự nhiên làm
con dê tế thần.
Tên đó được như ý ! Còn anh bao nhiêu nỗi ấm ức
mười mấy năm trời, cho đến khi vị kia vì nhiều tai tiếng phải mất chức, đến lúc
ấy XĐ mới ngửng mặt lên được.
Anh trở về nghề cũ, có nhiều vở mới, được công
chúng hâm mộ, lãnh đạo cấp trên hài lòng. Nên chuyến này đi về phương nam với
anh là một ân sủng nhờ những thành công gần đây.
XĐ dạo này hay cười, nhưng vẫn chỉ cười bẽn
lẽn. Chỉ khi có tý men vào, cao hứng anh mới dám cao giọng. Lúc thường cứ rù rì
như đàn bà, con gái.
Riêng cái khoản "Ta" kia của anh,
chưa có cách gì khắc phục, thường luôn ở tình cảnh " Chưa đi đến chợ đã bị
hết tiền". Đến nhà anh , cứ xem cách vợ anh nói năng với chồng, người tinh
ý biết ngay chuyện phòng the của hai người không được xuôi chèo, mát mái. Hễ vợ
hơi cau mặt là mặt anh biến sắc, nom đần hẳn đi. Sao mà ở đời người ta lắm cái
phải sợ hãi đến thế ? Cấp trên không bằng lòng : Sợ. Vợ không ưng ý cũng : Sợ !
Nỗi sợ như con quỷ vô hình, như bóng đen che
phủ bao nhiêu phận người !
Một quãng hốt hãi, sợ sệt lâu ngày thành thói
quen..
Nên khi thấy XĐ oang oang gọi tôi giữa chợ tôi
có phần không khỏi ngạc nhiên. Chắc chắn không phải do rượu, vì làm gì có đủ
thời gian từ lúc vào chợ đến giờ, mới vài phút thôi ?
Phải là cái gì lý thú lắm XĐ mới phởn lên, lớn
tiếng thế chứ ?
Người ta đồn rằng ở Quảng Trị có một đại lý là
chỗ bà con của "ông già tám mươi voi", tám mươi tuổi vẫn sinh con
nhỏ. Đó là loại thuốc lá và rễ cây mà đêm nghỉ tại Buôn Mê Thuật nhiều người
trong chúng tôi đi tìm mà không thấy. Lạ nước lạ cái, có người mất cả trăm ngàn
tiền xe ôm mà không gặp ông già có tên là A Ma Kông kỳ lạ này. Đúng là thuốc
quý bao giờ cũng hiếm, rất khó tìm ! Mua thuốc chỉ là cái cớ, chủ yếu là vì tò mò,
cái bệnh của loại người hay đi "Trinh sát cuộc đời" !
XĐ có duyên kỳ ngộ nên đã được gặp người bà con
của vị tiên dược đó chăng ?
Chưa có tài liệu khoa học nào công bố công dụng
của thứ thuốc lạ đời như người ta đồn thổi. Nhưng một dạo báo chí rùm beng, rồi
người đời thêm thắt, đến nỗi gần như cả nước biết tên tuổi con người đã từng
bắt sống gần trăm con voi, lấy vợ kém mình tới năm chục tuổi, sinh con đàng
hoàng như một chàng trai khoẻ mạnh, có tới năm bà vợ, vợ nào cũng tha thiết hết
lòng. Người ta bảo ông được như vậy là
nhờ một số lá và rễ cây chỉ ở núi rừng Tây Nguyên mới có. Đến nay đã ngót trăm
tuổi rồi mà mắt vẫn sáng, tóc vẫn đen, đặc biệt gân cốt vẫn còn dẻo dai, săn
chắc.
Chỉ có tin tốt lành về con người ấy mới có thể
khiến con người luôn ý tứ, cẩn trọng như XĐ kia mới hớn hở thế !
Còn như "Cao lá Vẳng", thứ thuốc lá
đặc sản của Đông Hà này chắc anh không mừng đến vậy đâu ?
Tôi biết một trong những mối quan tâm nhất
trong chuyến đi này của XĐ, nên nghĩ bụng như vậy..
Lại gần hoá ra không phải !
Cô gái nói ở trên kia chừng ngoài ba mươi tuổi,
dáng vẻ đầy đặn của người đã từng sinh con, vẻ mặn mà, duyên dáng. Đôi mắt
sáng, cái miệng tươi, có hai núm đồng tiền rất gợi. Cô đang cầm trên tay mấy
hộp con con như loại thuốc đau mắt có những dòng chữ tiếng Anh và tiếng Thái.
Đã có
mấy người vây lấy cô hỏi han. Nhà văn họ Triệu giả giọng Quảng Trị :
- O bán cái chi rứa ?
- Dạ thuốc kéo dài ạ !
- Kéo dài làm răng ?
- Dạ, dùng biết liền !
- Làm sao biết ?
- Cái ni thì tụi em chịu, nỏ biết mô !
- Giá bao nhiêu tiền một hộp o à ?
- Rẻ thôi à, chỉ có trăm ngàn thôi, anh lấy mấy
cái ?
- Mắc quá, tưởng chỉ vài chục mua chơi mấy cái.
Mắc quá đành chịu thôi o hè !
Rồi o lấy trong túi ra mấy hộp kỳ lạ nữa, nhìn
quanh dáng chừng tìm kiếm xem có ai ở phía phái đẹp không ? O nói luôn :
- Còn đây là hộp bao gai, dùng cho các bà, các
o, mấy chú mấy anh mua về làm quà ! Nói thiệt "thuốc kéo dài" này an
toàn, hiệu quả không có phản ứng phụ như Vegagera mô!
Mặc cả qua lại một hồi, rồi cũng có người mua.
Ngoài XĐ còn có nhạc sĩ Q nữa là người trong đoàn.
Thực ra những trò này không có gì lạ. Ngoài Hà
Nội, trong Sài Gòn và ngay cả ở Vũng tàu tôi cũng từng thấy người ta mua bán
thứ hàng quái quỷ này. Chỉ có điều những nơi đó người ta mua bán kín đáo hơn,
không lộ liễu như ở đây, ngay cổng chợ Đông Hà này !
Một vùng lũ lụt vừa tràn qua, đời sống còn
nhiều khó khăn, lấy đâu ra người mua những thứ chỉ dành riêng cho các vị có máu
sống hưởng thụ, thực dụng và sẵn tiền. Dân nghèo có khó khăn về chuyện
"Ấy" cũng đành chịu chứ mua những thứ ma toi ấy làm gì ? Lại bán thứ
sản phẩm sinh hoạt vớ vẩn ấy ngay trên mảnh đất Quảng Trị giàu truyền thống anh
hùng, quê hương Lê Duẩn này mới càng khó hiểu ?
Điều ấy khiến tôi tò mò. Nhưng thắc mắc ấy được
một vị đi cùng giải thích ngay. Tôi kiểm chứng, quả nhiên có thế :
- Người bán hàng thực ra là người Hưng yên, cô
thường lén bán thứ hàng lậu này cho khách du lịch ngang qua Đông Hà. Người ta
tin người Đông Hà bộc trực, thẳng thắn và không nói thách nên dễ bán hàng.
Ôi là cái thời, bất cứ cái gì có thể lợi dụng
được, người ta cũng thương mại hoá nó hết ! Đã từng có "Rượu Minh
Mạng", "Trà Minh Mạng" thì việc có thêm tình tiết như vừa kể thì
có gì lạ đâu ?
Chẳng qua đã lâu mình không qua lại nơi này nên
chưa biết, chuyện thay đổi từng ngày từng giờ, tốt có xấu có, nơi nào chả vậy ?
Lên xe XĐ còn bị cả đoàn trêu tròng. Anh thản
nhiên như không : " Biết thế bảo cho thử cái cho chắc ăn !".
Đúng là giọng điệu của nhà viết kịch, giải
quyết mọi sự cứ nhẹ như không !!
Những điều chưa kể ..
Dừng
lại ở Quảng Trị khá lâu, như bạn tôi nói mới chỉ là câu chuyện vu vơ, không đâu
vào đâu, còn rất chung chung. Điều muốn nói vẫn chưa nói được. Tỷ dụ như chuyện
" Một trăm ngày thành cổ", người ta vẫn nói một cách khá cụ thể là
" 81 ngày đêm máu lửa". Thực ra từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc trận
đánh kéo dài cả trăm ngày.Có lẽ con số một trăm là con số thiêng với người Việt
mình, nên nói chệch đi đó chăng ?
Toà
thành được vua Minh Mạng cho xây với quy
mô kiên cố vào thời đó, sau cuộc đọ sức của hai bên chỉ còn là đống gạch vụn.
Mỗi nắm đất trong và ngoài thành cổ đều trộn lẫn thịt, xương, thấm đẫm máu của cả
đôi bên. Ai đã một lần vào thăm bảo tàng thành cổ chắc chắn không khỏi bàng
hoàng, xúc động khi tận mắt chứng kiến những di vật còn sót lại. Không quên bức
thư của người lính miền bắc viết thư về cho mẹ khi biết trước sau trận đánh
ngày mai, mình sẽ không trở về, nhắn nhủ đôi lời cho người ở lại. Đó là bức thư
của anh sinh viên đại học Bách Khoa chỉ còn vài tháng là học xong chương trình
và làm luận án tốt nghiệp, có người yêu là một cô giáo trẻ dạy học gần nhà.. Dù
là người khô khan tình cảm, hay có ý chí mạnh mẽ tới đâu cũng không khỏi ứa
nước mắt khi đọc lá thư này. Không biết làm cách nào đó người ta vẫn giữ được
lá thư hầu như còn nguyên vẹn ở nơi không ngọn cỏ nào được lành lặn ? Chỉ có
nét chữ với thời gian có hơi mờ đi, có chữ bị nhoè, nhưng vẫn còn đọc được .
Mỗi
ngày một đaị đội vào tăng viện cho thành cổ mà giờ đây người ta ân hận là đã
không còn giữ được danh sách, phiên hiệu của những đơn vị một đi không trở lại
để giữ thành. Một trong những nước cờ quan trọng, vị trí chiến lược quyết định
vị thế trên bàn hội nghị 1972 của hoà
đàm Ba Lê có đại diện bốn bên thời đó !
Chưa
có công bố chính thức con số thương vong ở mặt trận này. Nhưng trong tâm khảm
ai cũng nghĩ đó là con số không ai muốn tin là có.
Cũng
thật khó quên một ngày lên đường 9 thăm nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Thấm
thía cái giá máu xương phải trả cho cuộc chiến vừa qua. Bạt ngàn Trường Sơn
trắng nhoà bia mộ, có mộ có tên có tuổi, có cả những môi mộ vô danh. Những
người con của đất Việt, có không thiếu một tỉnh thành nào trong cả nước. Mỗi
tỉnh là một khu vực riêng có đài liệt sĩ xây theo biểu tượng mang tính cách
riêng của địa phương mình.
Tôi
tìm thấy mộ một liệt sĩ có người thân hiện nay ở gần nhà mình, bèn lấy giấy bút
ra ghi tỷ mỉ vị trí ngôi mộ, có chụp ảnh hẳn hoi. Vì từng được nghe nói gia
đình liệt sĩ đã đi tìm mà chưa biết liệt sĩ hy sinh và được mai táng ở đâu ?
Định
bụng khi về sẽ tìm gặp, báo cho người thân của anh để đỡ tốn công của tìm vu vơ
các nơi khác.
Thật
buồn, khi về gặp gia đình liệt sĩ thì mẹ già anh vừa mới qua đời. Nếu cụ còn
sống, cụ có thể nhờ bà con đi tìm giúp đứa con liệt sĩ để đưa về quê hương.
Khi đi bộ đội, anh mới mười tám tuổi nên chưa
vợ, chưa con. Chỉ còn người anh trai duy nhất lại ốm bệnh mất trước lúc mẹ anh
qua đời vài tháng. Người chị dâu nay đau, mai yếu, mấy mẹ con sống ở vùng thuần
nông, khó khăn về đồng tiền, làm sao có thể đi tìm em ?
Ngay
sau buổi thăm nghĩa trang về, tối hôm đó có cuộc giao lưu với anh chị em văn
nghệ Quảng Trị. Nhà Thơ Cao Hạnh chủ tịch hội thết đãi chúng tôi rất thân tình.
Mọi người trình bày những ca khúc mới, những bài thơ chưa công bố.. Không khí
rất ấm cúng, sao vẫn có điều gì đó áy náy trong lòng..
Tôi không sao quên được câu chuyện của người
gác nghĩa trang. Anh bảo có đêm trăng sáng thấy thấp thoáng từng đoàn người đi
lặng lẽ trong rừng thông quanh khu vực nghĩa trang. Có lúc nghe thấy tiếng rì
rầm như họ đang trò chuyện, lại có lúc ồn ào như đang cãi vã. Cả những lúc chỉ
thấy thoáng mỗi mình một cô gái ngồi bên gốc cây thút thít. Cứ tưởng mình mơ
ngủ, dụi mắt hoá ra không phải. Nhất là những đêm có mưa phùn vào dịp đầu xuân,
đom đóm ra nhiều vô kể. Con nào cũng lớn khác thường, bay từng đoàn trên các
ngọn cây. Chịu không biết giải thích thế nào, chỉ biết lầm thầm cầu nguyện cho
linh hồn các liệt sĩ phù hộ cho mình được mạnh giỏi, để làm tròn bổn phận được
giao.
Qua Huế ngày mưa, lan
man quên nhớ ..
Xe
chúng tôi đã đi vào vùng đất mà hơn bảy trăm năm trước còn là châu Ô, châu Rí.
Đây là vùng đất thủa xa xưa đói nghèo cực khổ vì khí hậu nghiệt ngã, đất đai
khô cằn. Nằm giữa quãng non nước hiểm trở, chia cắt bởi đèo Ngang và đèo Hải
Vân. Bão lụt, gió Lào ngay từ thời trước đó đã luôn hành hạ vùng này, biến nó
xác xơ mà Chế Mân, vua nước Chiêm Thành chẳng mấy tha thiết.
Sau
bao nhiêu năm rắp tâm mở rộng bờ cõi về phương nam tốn không ít máu xương, cuối
cùng Trần Anh Tông đã tiếp nhận vùng đất này đặt làm châu Thuận, châu Hoá bằng
cuộc đổi chác kỳ lạ, hiếm hoi trong lịch sử nước nhà.
Đấy
là thủa mà các bậc vua chúa còn được tuỳ tiện đổi chác cả một vùng lãnh thổ để
có được một nàng công chúa ! (Nếu như không có Huyền Trân, nước Việt chưa chắc
có được vùng lãnh thổ dài rộng như ngày nay ?)
Ngồi trên xe giữa ngày mưa, lũ lụt đuổi phía
sau mà cuộc tranh cãi về lịch sử và cái tên gọi của vùng đất này khá rôm rả..
Đại tá nhà văn họ Đỗ cứ ta thán mãi về ông vua
xứ Chiêm Thành. Làm vua thời đó quả là sướng thật, muốn sao nên vậy, chúng dân
chỉ như con sâu cái kiến. Đang là lương dân của nước này, thoắt cái trở thành
ngoại nhân của nước kia !
Nhà thơ họ Nguyễn lại đang ráo riết tranh luận
với nhạc sĩ Q.M.
Có bàn cãi mới biết, các ngài nhạc sĩ chủ yếu
chú trọng cảm xúc, ca từ nhiều hơn là kiến thức về sử học !
Nhà thơ bảo rằng sở dĩ Huế có địa danh như ngày
nay là do gọi chệch đi để tránh tên của chúa Nguyễn ( Nguyễn Nạp Hoá, cháu sáu
đời của Nguyễn Bặc ). Nhạc sĩ cố cãi rằng không phải thế. Sở dĩ có tên như vậy,
ông cũng đồng tình là do cách gọi chệch đi để tránh huý kị, nhưng không phải
như ý kiến nhà thơ.
Theo ông có tên như vậy là do chính cung của
vua Minh Mạng có tên là Hoa. Tiếng vùng này Hoa hay Hoá cũng na ná giống nhau,
nên mới gọi là Huế như bây giờ để tránh phạm huý .
Ai cũng cho ý kiến của mình là đúng, chỉ riêng nhà
văn, cử nhân sử học P.N là cứ tủm tỉm cười.
Cho đến khi xe qua hầm đèo Hải Vân ông mới rỉ tai người ngồi bên cạnh :
"Cả hai ý ấy cũng đều có thể cho là đúng cả, đều là nghi vấn chưa ngã ngũ,
ai đúng ai sai chỉ có trời mới biết !" !
Riêng tôi chuyện đúng sai ấy cũng không có gì
quan trọng. Nói về Huế mà chỉ bàn những chuyện này có khác gì bàn cãi rồng có
bao nhiêu chân ?
Đằng thằng, trời không có mưa, đêm nay chúng
tôi sẽ nghỉ lại Huế một đêm. Nhưng lái xe đề nghị cố gắng qua đèo Hải Vân, chạy
về Phú Yên hãy nghỉ vì rất có thế đường bị chia cắt bởi ngập lụt.
Thế là dự định khi nghỉ ở Huế thăm vài người
bạn đành lỡ dịp.
Đợt trước chúng tôi mới có dịp ở đây vài ngày,
bên kia đèo Hải Vân vẫn là một ước muốn chưa thực hiện được.
Nhưng ít ngày đó đã để lại trong tôi nhiều ấn
tượng. Vẫn muốn viết cái gì đấy về mảnh đất con người nơi đây mà chưa viết nổi.
Nhiều cảm xúc mâu thuẫn, trái chiều cứ lổn nhổn
nỗi ám ảnh rất khó thể hiện. Mà viết là cách trải lòng mình chân thật, trái với
nó thì đâu còn hứng thú gì để viết ?
Nếu Hà Nội là một ông lão già khú đế có nghìn
năm tuổi, thì Huế mới là đứa trẻ lên ba. Đấy là so sánh về tuổi tác, chứ về
tính cách, về bề dày văn hoá, Huế già dặn hơn nhiều. Có cái gì đó thâm trầm sâu
lắng bên trong, cốt cách nho nhã, thanh lịch bên ngoài của mỗi người dân Huế.
Đây là nói những người Huế kỳ cựu, chứ không phải Huế tân thời mới di cư đến về
sau này.
Không gì Huế cũng đã là kinh đô, đất thần kinh
của cả nước một thời. Cũng là nơi ra đời bộ luật đầu tiên, đánh dấu bước tiến
lịch sử của dân tộc. Nó chấm dứt thể chế tập quyền tuỳ tiện của thể chế phong
kiến cực quyền trước đó. Mở đầu cho xu hướng xã hội dân sự còn ở bước sơ khai.
Cho đến nay, vai trò của nhà Nguyễn đã dần dần
được nhìn nhận lại, không còn như mấy chục năm trước, các tư liệu lịch sử, thậm
chí cả các sản phẩm văn hoá đều coi triều đại này là triều đại " Rước voi
về giày mồ", "bán nước hại dân". Người ta đổ lỗi cho việc thực
dân Pháp đô hộ ngót một trăm năm là do vai trò và trách nhiệm của triều đình
nhà Nguyễn.
Thực ra đó là cục diện chung của cả khu vực.
Trừ Nhật Bản và Thái Lan còn hầu hết đều là thuộc địa và nửa thuộc địa của
các nước tư bản phương tây. Đó là cuộc tấn công của nền văn minh cơ khí với
những lợi thế của nó về mặt kinh tế, chính trị, xã hội nhằm vào nền văn minh
nông nghiệp đã quá trì trệ, có sẵn những mâu thuẫn không giải quyết được từ bên
trong. Đó là cuộc xâm lăng của nền văn hoá này với nền văn hoá khác, khi
mà xứ sở còn chìm trong tăm tối, lạc hậu và quá nghèo.. Mất nước gần như một
tất yếu ! Công bằng mà nói, trong hai mươi năm kháng chiến chống ngoại xâm, nhà
Nguyễn đã gắng giữ gìn độc lập dân tộc. Nhưng những sa sút, đổ vỡ từ trong lòng
chế độ đã vô hình chung "biến tổ quốc thành miếng mồi ngon cho tư bản nước
ngoài" như một số ý kiến trước những năm bảy mươi của các nhà sử học ở cả
hai miền nam, bắc. Đó cũng là xu hướng chung của nhiều chế độ, của nhiều triều
đại : Khả năng xâm lấn từ bên ngoài thường ít hơn là sự "Tự sụp đổ"từ
bên trong. Yếu tố bên ngoài chỉ như chất xúc tác làm cho quá trình đó diễn ra
nhanh hơn mà thôi !
Cũng
có ý kiến cho rằng Nhà Thanh bên Trung Quốc không khi nào từ bỏ ý đồ bành
trướng về phương nam, Việt Nam ta là cản trở lớn nhất của họ. Nhà Nguyễn chấp
nhận sự đô hộ của người Pháp chỉ là do tình thế bắt buộc. Một đối trọng đối với
sự xâm lấn từ bắc phương.
Dẫu
sao một thời kỳ lịch sử cũng đã qua..
Còn
lại một kinh đô Huế do những mặc cảm sai lầm, một thời gian dài bị bỏ mặc, gần
như hoang phế.
Gần
đây kinh thành cổ đã được tu bổ. Sử sách chính thống chưa công khai nhìn nhận
một cách khách quan về vương triều Nguyễn, nhưng mặc nhiên, người ta cũng hiểu
chính sử thực ra là như thế nào ?
Lịch
sử là khoa học, mọi tác động của các thể chế chính trị chỉ có tính nhất thời.
Lịch sử có cách làm riêng của nó .
Tôi cứ
nghĩ lan man khi ngang qua Huế vào một chiều mưa. Đêm nay chúng tôi sẽ không
nghỉ lại dọc đường. Có thể phải thức trắng đêm vì tình hình lũ lụt mỗi lúc nguy
cơ đe doạ càng lớn.
Nước
có chỗ đã ngập mấp mé đường, khả năng bị kẹt lại là rất có thể..
Lan man tình đất, tình người ..
Tôi
không tin lắm chuyện tử vi, lý số. Đó là môn khoa học huyền bí chưa có lời giải
thích kỹ càng bằng thực nghiệm. Lại bị lợi dụng làm cho biến tướng, sai lạc đi.
Nó là phương tiện kiếm cơm của thày bói, cô đồng.. Sai đúng còn tuỳ đối tượng
và hoàn cảnh của người quan tâm.
Nhưng
quả thực năm Nhâm Tý đối với tôi thật có nhiều ý nghĩa. Đó là năm tôi xuôi
ngược cũng nhiều, gặp bè bạn khá đông. Chuyện vui buồn không sao nhớ hết được.
Ngay
từ đầu năm, sáng mồng ba tết đã có chuyện vui. Kiến trúc sư Thái Thành Vân và
mấy người bạn đến chơi nhà. Trong lúc đợi tôi sắp mâm uống rượu vì nhà đi vắng,
chẳng có ai, anh lấy giấy bút ra ngồi bên bàn đặt góc nhà hý hoáy viết cái gì
đó. Lúc ấy tôi vội nên cũng không để ý.
Trước
lúc ngồi vào mâm, anh bảo đưa cho mình mấy cái đinh nhỏ. Hỏi để làm gì ? Anh
chỉ nháy mắt cười "Khắc biết !" Quay ra quay vào đã thấy anh ghim bức
tranh vẽ thuốc nước lên tường. Một bức tranh biếm hài có ghi tặng tôi và ký tên
tác giả.
Bức
tranh vẽ một "thi sĩ chuột", vai đeo túi thơ, có cuốn tiểu thuyết dày
cộp thò ra ở miệng túi. Mọi chuyện chỉ như vô tình. Không ngờ nó lại như một
điềm báo trước. Năm đó tôi Viết xong cuốn tiểu thuyết gần bảy trăm trang in (
Đương nhiên yếu tố chất lượng và giá trị sách không phụ thuộc vào số trang, mà
là vấn đề viết cái gì ? và như thế nào ? ) Cuốn sách sau này được nhà xuất bản
HNV ấn hành và được tý giải thưởng vào năm sau ( 2009) .
Chúng
ta đang nói chuyện với nhau về những ngày chưa xa ở Huế, khiến tôi nhớ lại mấy
việc trên. Những sự kiện tưởng chừng như rời rạc, chẳng liên quan gì với nhau,
nhưng thực ra có mạch liên kết ngầm nào đó, mà khả năng nhận thức thế giới xung
quanh của ta bị hạn chế chưa thể nhận ra.
Tháng
hai năm đó, tôi may mắn được thăm một phòng tranh của Hoạ Sĩ chủ tịch hội VHNT
Thừa Thiên Huế, Đặng Mậu Tựu.
Phòng
tranh đặt ở tư gia, có tiệm cà phê, thôn Vĩ Dạ, chính nơi gợi cảm hứng cho Hàn
Mặc Tử viết bài thơ bất hủ ngày nào. Bên bờ sông Hương, phía xa nữa là làng Kim
Long nghe nói ngày trước là nơi nhà vua dành cho các cung nữ mới tuyển từ khắp
nơi trong nước về. Ở đó họ sẽ được chỉ dạy cách che nồng, ấp lạnh ra sao, đi
đứng thế nào, thưa bẩm ăn nói cho hợp phép tắc triều đình. Có người sau đó được
tuyển vào cung vì tài sắc vẹn toàn. Có người bị khiếm khuyết nào đấy, hoặc
chẳng sai lỗi gì, chỉ là không có duyên, suốt đời chung kiếp đợi chờ, chẳng bao
giờ được đấng quân vương vời đến ! Đến lúc già chết, vẫn còn trong trắng, trinh
nguyên..
Người
ta chửi phong kiến thối nát kể ra cũng có lý.
Thật
là phí của giời ! Vua không dùng thì thôi, để cho người ta có người khác chứ ?
Thế mới biết sự ích kỷ của bậc vua chúa đáng ghét đến chừng nào. Thật là cá
treo mà bao nhiêu mèo nhịn đói. Bao kẻ có tâm có tài, vì lỡ đường công danh vẫn chịu cảnh cô phòng vì không
quyền bính và tiền của, không có may mắn chễm trệ ngai vàng !
Trở
lại phòng tranh, chẳng biết hoạ sĩ có dụng ý gì mà vẽ về họ "Thử"
nhiều đến thế.
Ngay
trước cửa, đã có một chàng chuột cao lớn, mặc áo đuôi tôm, đội mũ phớt thổi
kèn. Với dòng thư pháp của đôi câu đối, ngụ ý rất xa xôi, rất gợi mà chịu không
cắt nghĩa được rành mạch. Vào đến trong phòng, gần trăm bức tranh, chuột lớn,
chuột nhỏ đủ các cỡ : Chuột quan, chuột dân, công nương, khanh tướng, con buôn,
thằng hề, chuột nhà thơ, học giả..Đủ cả.
Về hội
hoạ tôi là kẻ ngoại đạo, lối tư duy hình tượng với tôi, thật khác nào chim
chích lạc rừng. Tôi chỉ mang máng nhận ra rằng : với hiện tình tham nhũng tràn
lan, kéo bè kéo cánh như ngày nay, hoạ sĩ muốn gưỉ một thông điệp của mình với
bàn dân thiên hạ.
Hãy dè
chừng khi chuột lên ngôi, chuột lộng hành và đang nháo nhâng nhảy múa!
Giữa
tôi và một người bạn nữa trong đoàn suýt xảy ra mâu thuẫn. Theo anh, hoạ sĩ vẽ
chỉ do ngẫu hứng về năm chuột chợt đến, chứ không có ý "Đen tối" như
tôi tưởng. Cách đặt vấn đề của bạn làm tôi vừa bực mình, vừa thất vọng. Nếu hoạ
sĩ vẽ chỉ như ý nghĩ của anh thì còn đâu là nghệ thuật nữa ? Nghệ thuật chính
là cái gì đó khó nói cụ thể, không rành mạch nhưng lại rất chính xác khi người
ta cảm nhận. Cũng có thể nói như khi ta đọc một cuốn sách, "Ý tại ngôn
ngoại" mới chính là cố gắng, sự thành công hay thất bại của tác giả .
**
Chuyến ấy chúng tôi đến Huế là vào mùa xuân. Cây cỏ trong vườn tượng bên bờ
sông Hương xanh mướt. Huế lóng lánh trong làn mưa bụi mỏng . Nhìn lên núi Ngự Bình
thoang thoáng mây vờn. Sông Hương xanh đến nao lòng. Những chiếc thuyền rồng
gắn máy nhẹ lướt ngang qua dãy nhà hàng nổi, bỏ lại tiếng xênh ca lưu luyến
theo dòng. Một cảm giác yên bình thư thái sau một chuyến đi dài, vừa lạ vừa
quen, như ở nhà, mà vẫn là khách vãng lai ..
Kế
hoạch thăm thú đề ra lúc ban đầu rất nhiều, nhưng rồi đi chẳng được mấy..
Ở đất văn vật này còn biết bao nhiêu địa chỉ
cần phải đến, gói gọn trong năm ngày trời ở lại, thì thăm sao xuể ?
Trước
hết là thăm người còn sống. Nhà văn Hoàng phủ Ngọc Tường, nhà văn Nguyễn Quang
Hà, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.. Chỉ duy nhất có gia đình nhà văn Nguyễn Quang Hà
chúng tôi được gặp đủ cả vợ lẫn chồng. Ông là người Bắc Giang chính hiệu. Tôi
biết ông từ hồi hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang còn gọi chung là Hà Bắc. Ở đấy tôi
có một số người bạn, sau này họ đều là hội viên hội nhà văn, đều nổi tiếng cả.
Riêng Nguyễn Quang Hà, ông cũng rất nổi tiếng, nhất là thời kỳ ông làm tổng
biên tập tạp chí Sông Hương. Một trong hai tạp chí có những cách tân mới mẻ,
những sáng tác táo bạo, luồng tư tưởng cởi mở sau nhiều năm văn nghệ kiên trì
đi theo "Hiện thực XHCN", gây nhiều dư luận và cũng không ít rủi ro.
Với
riêng mình, ông còn có chuyện riêng thật đau lòng, quê hương không phải chùm
khế ngọt mà là kỷ niệm xót buốt, cuộc hôn nhân đầu đời giống như một tai nạn.
Ông rời quê hương, trở thành công dân của Huế từ độ ấy.
Từ nhà
đặng Mậu Tựu tới nhà ông cũng không bao xa. Nhưng theo thói thường thứ bậc,
chúng tôi đến nhà Hoàng Phủ Ngọc Tường, sau đó mới tới thăm ông.
Đến nhà Nguyễn Quang Hà, tôi rất mừng khi thấy
cảnh ấm cúng của gia đình nhà văn. Vợ ông khá trẻ so với tuổi của ông, lại rất
xinh đẹp. ( Thực ra tài sắc thời nào cũng không dùng tuổi tác làm thước đo để
so sánh ) Chị đang dạy trường Quốc Học, một trường nổi tiếng từ xưa của Huế.
Ngoài việc dạy học, chị còn là một hoạ sĩ nữa.
Trong gian phòng giản dị không lấy gì làm rộng, treo rất nhiều tranh của
chị. Cả hai người muốn chúng tôi lưu lại ăn cơm với gia đình. Nhưng vì thời
gian eo hẹp chúng tôi không ở lại được, đành hẹn mời anh chị vào ngày hôm sau,
chúng tôi có tiệc mời anh chị em ở Huế. Rất tiếc là khi đến chỉ có mỗi nhà văn,
còn vợ ông vì lý do gì đó không đến được.
Ở nhà
Hoàng Phủ Ngọc Tường, chị Lâm Thị Mỹ Dạ, nhà thơ kiêm chức làm vợ của ông đi
vắng. Chỉ có hai người nữ giúp việc, một già một trẻ tiếp chúng tôi, đưa lên
gác thăm ông. Từ sau trận tai biến não, ông phải ngồi xe lăn, nói năng cũng có
vẻ khó khăn. Ông rất thích khi có ai đó nhắc đến truyện ký "Miền gái
đẹp" của mình. Ông bảo : "Dạ dạo này bận nhiều việc, đi suốt, không
mấy khi ở nhà, chưa bao giờ mình thèm nói chuyện như bây giờ. Các cậu đến tớ
mừng lắm"
Khi
anh cán bộ văn phòng hội Thừa Thiên Huế gọi điện cho nhà thơ Nguyễn Khoa điềm,
nghe nói ông đang ở ngoài Quảng Ninh, dự hội thảo với Hội Đồng Phê bình văn học
nghệ thuật trung ương. Gần đây nghe nói vai trò của ông với cơ quan hội có khá
hơn kể từ ngày "Treo ấn từ quan" về ở ẩn thôn Vĩ Dạ.
Cuộc
thăm viếng trọn một ngày, chiều tối có vị giám đốc công an thành phố là bạn của
nhà văn họ Đỗ mời ăn nhà hàng nổi có cái tên Sao Vàng hay Sao Mai gì đó, tôi
cũng không nhớ nữa..
Công
nhận là có anh đi cùng, bọn tôi cũng được thơm lây. Dọc đường đi, do lái xe còn
bỡ ngỡ, vào miền trong lần đầu, hai lần xe bị bắn tốc độ. Rất may nhà văn đại
tá có nhiều người quen dọc đường nên chẳng những không bị phạt mà còn được
chiêu đãi.
Thẻ
nhà văn, nhà báo chả là gì với các ông quan coi lục lộ. Nhưng chỉ một cú điện
thoại là đâu vào đấy ngay, bắt tay xin lỗi đàng hoàng !
Riêng
thành nội cùng các lăng tẩm quanh khu Hoàng thành đã mất trọn một ngày thứ hai.
Đấy mới chỉ xem lướt qua, không có thời gian ghi chép hay hỏi han tỷ mỷ. Một ngày
nữa thăm chàu Thiên Mụ, xuôi dòng sông Hương.
Chỉ
còn hai ngày cuối chúng tôi quyết định phải tới thăm những người đã khuất.
Những danh nhân, vĩ nhân của xứ sở không thể bỏ qua.
Thực
ra thiết kế chương trình như vậy, thật không đúng phép. Việc cần làm trước lại
để đến sau cùng. Đáng lẽ phải đến viếng cụ Phan Bội Châu, Nguyễn Tri Phương,
Đặng Huy Trứ.. Xong rồi đi đâu mới đi.
Nhưng
thói quen công sở của nhà văn trưởng đoàn đã bố trí như thế. Chúng tôi là bọn
đi theo, biết làm sao được ?
Các cụ
có linh thiêng xin được đánh bài đại xá cho chúng tôi, lớp tiểu nhân, hậu sinh
ngu muội và vô phép tắc !
Huế
còn nhiều văn nhân, nghệ sĩ kẻ đã mất người còn mà trong phạm vi của bài viết
này tôi không sao kể hết. Mặc dù rất áy náy trong lòng. Nếu có thể tôi đã tới
thăm nơi xưa kia gia đình cố nhạc sĩ Ưng Lang đã từng sinh sống. Cụ là thân phụ
của hoạ sĩ Ái Lan người đã giúp tôi minh hoạ bìa cuốn tiểu thuyết đầu tay của
mình ra mắt công chúng một cách vô tư. Bây giờ Công tằng tôn nữ đã rời về Sài
Gòn mở xưởng vẽ tranh, nhưng hẳn ở nơi sinh ra này, chị vẫn còn ghi dấu nhiều
kỷ niệm. Rồi nơi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng sống một thời trai trẻ với
những ca khúc mà tôi rất ngưỡng mộ..
Còn nhiều người nữa. Nếu như một lúc vô tình
nào đó có anh chị nào đọc những dòng này, tôi xin được các anh chị lượng thứ vì
đã không nhắc đến một người nào đó.
Không
phải tôi vô tình, không nhớ. Chỉ là sợ lan man, sợ quá phạm vi của bài ký đã
quá dài dòng vì đã kể nhiều chuyện rông rài.
Căn
bản nữa, người viết nào cũng vậy, vốn liếng phải để dành, không dám dốc hầu
bao. Xin hẹn nói nhiều hơn vào một dịp khác !
Đêm
ở Phú Yên, mà chưa yên giấc ..
Chúng tôi đã qua Quảng Nam "Hay cãi", thường là cãi rất
hay, rất có lý. Vùng đất có những nhân vật kỳ tài, những học giả, nhà văn nổi
tiếng, những nhà chính trị tên tuổi..
Qua Quảng Ngãi "Hay co". Vùng đất trong lịch sử là nơi
giằng co của nhiều thế lực chính trị, trở thành cái tên của vùng này hơn là người ta bảo "Người Quảng
Ngãi hay "đôi co", không chịu ai, nếu chưa thấu lý đạt tình.
Qua Bình Định "Hay lo" nỗi lo thời thế từ thời nhà Tây
Sơn thất thủ, bị nhà Nguyễn trả thù. Con cháu Hoàng đế Quang Trung phải mai
danh, ẩn tích, thay tên đổi họ để tránh cái hoạ đào mồ cuốc mả, không nương tay
với cả người đã chết, thì người sống làm sao thoát voi dày, ngựa xé ?
Nơi vị anh hùng áo vải đã
làm rạng rỡ non sông, gây dựng nghiệp lớn.
Đương thời nhà Thanh còn phải tính chuyện cầu thân để yên bờ cõi.
Nếu ông không đột ngột qua đời, biết đâu nước Việt đã đòi lại một phần đất đai
rộng lớn bị phương bắc chiếm đoạt ?
Nhưng sự nghiệp của nhà Tây Sơn cho đến nay, còn nhiều ý kiến
chưa thống nhất. Vẫn có người cho rằng sau những chiến công hiển hách của mình,
Quang Trung chưa có được một nhà nước có cơ chế thích hợp ? Cái hoạ phân ly vẫn
còn âm ỷ gây chia rẽ vương triều. Chưa có được chính sách cải cách bộ máy cai
trị thích hợp cho thời bình và chính sách phát triển đất nước. Nhất là việc đối
ngoại vẫn còn mang nặng óc chủ quan, bảo
thủ nói như thời bây giờ :"Chưa tìm ra cơ hội hội nhập" với bên ngoài
?
Nhưng con người ta, với giới hạn của một đời người khó có ai trọn
vẹn. Giá như ông sống thêm năm mười năm nữa, biết đâu mọi chuyện sẽ khác ?
Dù sao hậu thế cũng không thể quên những gì ông làm cho dân tộc,
tổ quốc mình. Ông vẫn là hình tượng đẹp nhất trong lịch sử dân tộc của một thời
kỳ có nhiều biến động, báo hiệu sự cáo chung của một thời đại phong kiến cũ kỹ
theo kiểu lãnh chúa suy tàn.
Rất tiếc là không được lưu lại Bình Định, một tỉnh trù phú vào
bậc nhất của miền trung. Nơi có thành Đồ Bàn cổ kính còn in dấu. Và bao nhiêu
câu chuyện về Bình Định đến bây giờ còn chưa biết một cách đầy đủ..
Thời nào cũng vậy, Bình Định là đất "hay lo". Không chỉ
đơn thuần nỗi lo cơm áo, người Bình Định còn mang nặng nỗi lo đời, lo cho số
phận của non sông. Trước khi đi lần này, tôi đã gặp và chuyện trò với nhiều
người của vùng đất này. Bất kể họ là đàn ông hay đàn bà, chưa thấy ai dửng dưng
chuyện thế sự, nhân tình.
Họ thường suy nghĩ sâu xa
và thường có những ý nghĩ bất ngờ nhưng thật xác đáng về thế sự.
Đêm cuối cùng nghỉ lại Tuy Hoà, thủ phủ của tỉnh Phú yên, một
tỉnh chưa có được một triệu dân nhưng lại có đến hơn ba mươi dân tộc. Một tỉnh
có nhiều tiềm năng vì vị trí địa lý của mình. Ít có tỉnh nào vừa có rừng, có
biển, giao thông thuỷ bộ, đường sắt, đường hàng không như ở đây.
Ngay cái tên ngày xưa Nguyễn Hoàng đặt cho vùng đất này đã như
thể cách gọi thực tế và rất lãng mạn, một sự mong ước giàu đẹp và yên bình.
Nhiều người chưa quên huyền thoại về kho báu trời cho nằm kề bãi
biển mà con người vì lòng tham, óc thiển cận, bảo thủ đã biến nó thành bãi đá.
Những thỏi vàng, khay bạc giờ thành bãi đá xám , đá xanh, đá nhiều màu chồng
chất lên nhau cho sóng biển đêm ngày mài nhẵn.
Ai đã qua hồ sông Hinh, vườn quốc gia Krông- Trai mới cảm nhận
được vẻ giàu đẹp, khung cảnh lộng lẫy khác thường của một dải đất nằm bên sườn
phía đông Trường Sơn này.
Nhưng Phú Yên cũng là vùng đất khắc nghiệt, nhiều thử thách và đe
doạ về thiên tai. Đêm nghỉ lại thành phố Tuy Hoà lại là đêm có sự cố về điện,
mặc dù thuỷ điện sông Hinh không cách xa nơi này là mấy.
Do ảnh hưởng của mấy đợt lũ liên tiếp, người Phú yên đang gồng
mình chống chọi với thiên tai. Cái ăn, cái uống, những nhu yếu phẩm tối thiểu còn
thiếu nghiêm trọng thì thiếu điện là cái gì ??
Bà chủ khách sạn nơi chúng tôi dừng chân là một người cứng tuổi,
vóc người đậm, gò má cao, môi dầy, dáng vẻ lầm lỳ. Ngoại hình như thể mâu thuẫn
với việc maketinh, ngưng lại rất nhiệt tình.
** Chỉ khổ một nỗi điện đóm không có, cái khách sạn rộng rinh và
vắng tanh như chùa bà Đanh của bà tối thui chả khác chi cái hang động thời tiền
sử. Nó lạnh lẽo và thiếu thân thiện sau chặng đường dài. Ngay cả những vị hay
nói hay cười, tếu táo dọc đường nhiều nhất như nhà thơ NH lúc này cũng im như thóc.
Đã nhiều ngày nay, chỗ này vắng khách vì không phải mùa du lịch,
lại liên tiếp mưa lũ, gió bão từ ngoài biển quật vào, nên hầu như chẳng có ai
vào ra nơi này. Trừ chúng tôi, những kẻ lữ hành bất đắc dĩ cứ nhè vào những lúc
gió bão mùa này thăm thú nơi nọ, nơi kia. Ngoài mục đích công việc còn có một ý
nghĩa thực dụng nữa là thuê được phòng
nghỉ rẻ ! Tiền của nhà nước không phải lá mít, của dân đóng góp, chúng tôi biết
vậy, và chưa từng phàn nàn, mặc dù nhiều chuyến đi khác đã từng xảy ra như thế.
Ngoại trừ năm 2008, chuyến vô xứ Huế vào mùa xuân, có cảnh sắc tươi thắm và đẹp
trời.
Khách sạn của bà chủ to béo này không có nhân viên, chỉ có ba mẹ
con bà làm trọn gói mọi việc, từ lễ tân đến phục vụ. Bà tự khoe chồng bà đang
làm việc ở công an tỉnh, hình như đang đi chống lũ trên đầu nguồn sông Cầu. Mấy
ngày nay do tình hình khẩn trương ông không về. Cậu con trai trông như người
không thật tính, nói cà lăm, chân tay lóng ngóng châm mãi mà không xong mấy cây
đèn cầy thắp tạm cho các phòng. Cô con gái thì cao lêu đêu dắt vội chiếc xe máy
ra cửa đi kêu người sửa chiếc máy phát dự phòng. Máy để lâu ngày không dùng
đến, không rõ hỏng bugi hay chế hoà khí, khởi động mãi không nổ. Tôi vốn hay tó
mó máy móc, nhưng lúc này cũng hết cả hứng thú vì mệt mỏi.
Không đói, vì chúng tôi trước khi vào thành phố đã ăn cơm ngoài
ngoại ô. Cậu lái xe có vẻ thông thạo giải thích cho ông đoàn trưởng là dọc
đường hễ chỗ nào quán ăn có nhiều xe tải đỗ trước cửa thì táp vào. Nơi đó món
ăn ngon, giá cả phải chăng, thực phẩm tươi và ít bị chặt chém. Quả nhiên có thế
thật, cánh xế đường dài luôn kinh nghiệm đầy mình. Riêng cái khoản ăn chơi dọc
đường họ hơn hẳn bọn có tý chữ mà thực ra lớ ngớ ngoài đường, ngoài chợ, dễ làm
con thịt.
Chỉ thèm ngủ một giấc cho lại sức, mai còn cả chặng đường dài qua
Khánh Hoà, Bình Dương đến cửa ngõ của miền đông là tỉnh Bà Rịa để tới Vũng
Tàu..
Tưởng là nằm xuống một tý là ngủ được ngay, không dè trằn trọc
mãi mà không ngủ được. Có lẽ cảnh tượng
non nước dọc đưòng để lại nhiều ám ảnh. Quê tôi vùng bãi sông Hồng năm nào
người dân cũng lo hộ đê, chống lũ. Tháng sáu tháng bảy đêm nào đèn đóm cũng
sáng rực ngoài điếm canh, tiếng trống giục thôi thúc, tiếng chân người chạy,
tiếng gọi nhau vang rộn gần như hết đêm vào những ngày đỉnh lũ tràn về. Cảnh tượng đã tưởng đâu bối
rối lòng người.. Nhưng có tận mắt chứng kiến cảnh lụt lội ở miền trung này mới
thấy cảnh chạy lụt ở quê nhà chỉ như trò trẻ con chơi, đã có gì để gọi là
nghiêm trọng ?
Đài báo nói quá đủ rồi,
tôi không muốn mất thời giờ để mô tả lại những cảnh ngộ hãi hùng và đau lòng
khi lũ qua miền trung gian khó này nữa . Tôi chỉ muốn nói lên đôi chút những
suy nghĩ của mình. Nói theo cách người ta nói, thì còn đến nói để làm gì?
Nửa đêm, nhà nghỉ mới sửa được máy phát điện, thôi thế cũng tốt,
đỡ ảm đạm lạnh lẽo lúc xa nhà.
Mỗi phòng hai người, nhưng thường chỉ vào lúc đi ngủ. Trước chín
giờ các nhóm hay tụ tập với nhau. Chuyện trên trời dưới bể. Có khi cũng chẳng
chuyện gì, nhâm nhi bên ấm trà nhìn nhau, hặc lơ đãng nhìn ra ngoài.. Ấy là lúc
gặp điều khó nói. Mà thời buổi bây giờ sao mà nhiều chuyện khó nói thế không
biết ?
Mấy anh em đang tranh luận với nhau : Tiếng "Nẫu" ở
vùng này để chỉ người nơi khác đến có
xuất xứ như thế nào ? Có phải từ cảnh tang thương của hàng trăm năm trước của chiến cuộc tương tàn
giữa nhà Tây Sơn với nhà Nguyễn, thiệt hàng vạn sinh mạng ngay trên đất Phú Yên
này thủa ấy ?
Mỗi khi có người lạ từ nơi
khác đến đều mang đến tai hoạ, "Nẫu" ruột, nẫu gan ? Hay chỉ là cách
nói, kiểu nói của địa phương mà cách giải thích trên chỉ là áp đặt, vô lý và
gượng gạo. Cuộc tranh luận theo kiểu cào cào, châu chấu con nào đầu tày, con
nào đầu nhọn, mãi không đi tơí đâu.
Đột nhiên thành phố lại có điện. Tôi rất muốn ra ngoài ngó
nghiêng một chút nơi thành phố này, những lúc khác chỉ ngang qua, chưa dừng lại
lâu như bây giờ. Nhưng ra đường vào giờ này thật vô lối, đành ra cửa mà trông.
Ở tầng lầu thứ tư nên tầm nhìn nếu không bị mưa che mờ có thể nhìn thấy khá xa.
Tuy Hoà vừa qua trận lũ lịch sử, nhưng vẫn còn nhiều dấu tích
giống như mọi nơi. Phố phường ở ta dường như đâu cũng như đâu, nặng về hình
thức. Cờ treo, biểu ngữ quá nhiều. Lại thêm vô vàn các biển hiệu quảng cáo, đủ
mọi thương hiệu kích cỡ, che choán mỹ quan.
Có lẽ số tiền nhà nước và nhân dân bỏ ra chi vào quảng cáo trong
cả nước là số tiền không nhỏ. Nó có thể đủ xây một vài bệnh viện, và trường đại
học. Bao giờ mới hết bệnh thành tích, bệnh hình thức, trên phương diện quốc gia
chứ không chỉ một ngành, một bộ nào đó ?
Có sao nói vậy..
Tôi có hẹn ở đầu ký sự này là kể hai câu chuyện nhỏ ở Huế. Một là
những chuyện xung quanh hai nhà thơ có cỡ của xứ này, những chuyện chỉ một số
người biết. Chuyện hai bác cháu đều là nhà thơ có tên tuổi, hơn kém nhau chẳng
bao nhiêu, sau hồi bãi biển, nương dâu gặp nhau nói chuyện gì ? Trọng và không
trọng nhau về nhân cách và cư xử với nhau ra sao ? Họ từng là những bậc đại
công thần, danh tài che khuất cả một khoảng thời gian, không gian của văn đàn
nước nhà.
Chuyện được nghe chính người Huế kể : Đại quan sau ngày thất sủng
vẫn chưa hết thói quen luôn có kẻ tháp tùng lo lắng mọi sinh hoạt của ngài.
Ngài ăn cơm quán, ăn nhà hàng, nhiều lần dùng xong cứ thế lững thững ra xe (
Trước là xe ô tô con, còn bây giờ là xe đạp ). Người ta kêu ngài đứng lại, ngài
mới chợt nhớ là chính mình phải rút hầu bao ra trả tiền chứ không ai trả cho
ngài nữa. Nhà hàng đâu phải nhà chùa ? Đón tiếp lịch sự niềm nở thật đấy, nhưng
tiền không trả thì đã có dao phay !
Nói là nói vậy ! Người ta không đến nỗi thô thiển đến mức ấy,
nhưng khi nào cũng có mấy chàng to khoẻ làm bảo kê, võ nghệ đầy người. Lôi thôi
họ chỉ búng nhẹ một cái, ai chứ quan văn như ngài có thể ốm vài tháng.
Kể lại chuyện này tôi muốn nhắc nhẹ các vị nào đang có chỗ, chưa
bị lộ thì ráng mà giữ lấy, đừng có để nhầm nhọt gì để mắc phải cảnh ngộ này thì
đau lòng lắm. Còn bọn thường dân chúng tôi lâu nay sướng khổ mãi, quen rồi.
Những vụ như vậy không thể nào xảy ra. Không có tiền thì cho cái tăm vào miệng,
giở tờ báo ra đọc. Anh nào có mời rơi theo lối khách sáo thì " Vô phép,
nhà em dùng rồi ạ. Cảm ơn, cảm ơn !".
Chuyện thứ hai là về anh chàng Vũ. Cái anh say trăng trên cầu
Đồng hới đến gần sáng mới tỉnh, đứng hát ướt hết sàn nhà. Nghe nói Huế mộng,
Huế mơ, người Huế thâm trầm và rất nặng tình. Điều này hẳn nhiên là có. Nhưng
trên đời này, ngọc còn có vết, huống chi cả một vùng ? Ngoài những vùng sáng
ra, ngoài bao nhiêu là tốt đẹp ra, còn có những khiếm khuyết, những khoảng tối.
Thậm chí tệ hại nữa. Đừng bảo Hà Nội ngàn năm tuổi là toàn những chuyện thơm
tho và Huế cố đô, đất tài tử giai nhân, toàn chuyện ngọt ngào. Chúng ta sẽ phải
ân hận về cách nghĩ chủ quan của mình. Đời luôn nhiều cạm bẫy, không ít thì
nhiều, ở đâu cũng có..
Sau cái bữa được đãi tiệc
do một vị chức sắc cao của thành phố khoản đãi, Vũ rủ tôi lò mò đi trinh sát
cuộc đời. ( Bạn tôi nủa đùa nửa thật :" Tớ toàn con gái, nếu thuận lợi xem
có chỗ nào gửi thằng cu, sau này vào tìm"). Phải khi bình tĩnh tôi đã can
ngăn bạn.
Lần đó cả hai suýt chết. Chuyện dài dòng lắm, mà cũng không nên
kể, chỉ xin vắn tắt là nhờ may mắn và một chút bản lĩnh chúng tôi mới thoát
được động quỷ, hang ma. Người không bị xây xát gì, nhưng bây giờ nghĩ lại vẫn
còn đổ mồ hôi trộm !
Hai chuyện này không phải tôi quên, hay sợ nó nhạy cảm mà không
viết ra. Chỉ nghĩ nó quá cũ, không cần thiết nữa, như cô bạn tôi nói :"
Chuyện thường ngày ở huyện". Thế thì nói ra làm gì cho tốn giấy mực ?
Đang có nhiều chuyện bỏng rẫy, mới toanh và cấp thiết hơn nhiều.
Như lúc này đây, khi tôi đang viết những dòng này trong căn nhà
mùa đông rất lạnh của xứ bắc, thì bão lũ đang hoành hành các tỉnh phía nam
trung bộ. Liên tiếp mấy đợt cao áp lạnh tràn từ Hoa lục, từ biển đông tạo thành
bão dữ dội đổ mưa lớn vào các tỉnh Quang Ngãi, Phú Yên.. Khúc ruột miền trung lại quặn thắt trong cơn
hồng thuỷ tai vạ giáng xuống từ trời.
Có tin ngư dân đánh cá bị chìm tàu được biên phòng biển cứu hộ,
sống được ngưòi còn thuyền bè mất hết. Hai con tàu một hỏng, một đi cứu nạn
đang lạc gần quần đảo Hoàng Sa hiện chưa có tin tức. Biển đông mênh mông còn
bao nhiêu tàu thuyền bé nhỏ lênh đênh trong cơn sóng to, bão lớn ?
Thảm hoạ thiên nhiên đang hoành hành nhiều nơi trên thế giới.
Biến đổi khí hậu không còn là nguy cơ mà đã là tai nạn đến ngay trước mặt. Cả
hành tinh đang nhức nhối về chuyện này. Từ hội nghị Kyôđô, Copenhagen đến nay,
các hội nghị bàn về biện pháp đối phó với tình hình hành tinh đang nóng
lên đã làm được những gì ? Hay vẫn chỉ
là các cuộc đấu khẩu đổ lẫn trách nhiệm giữa các quốc gia ? Nước Mỹ và nước Tàu
đã làm gì, khi chính họ là những thủ phạm gây nên tình trạng tồi tệ này nghiêm
trọng nhất.
Lịch sử thế kỷ hai mươi là lịch sử của các cuộc chơi do các cường
quốc tạo nên, cả biến động xã hội cũng như khí hậu toàn cầu. Sang thế kỷ mới
này, các trò chơi ấy vẫn chưa kết thúc. Mọi chuyện rồi sẽ ra sao ?
Thật là ngạc nhiên, vào lúc tình thế chung như thế này, hai miền
Triều Tiên lại đang chuẩn bị đánh nhau. Ai đúng ai sai, chưa bàn đến, chỉ tính
chi phí cho cuộc xung đột đó số tiền không phải nhỏ. Ai đứng sau các diễn biến
căng thẳng đó ? Nếu như số tiền đó dành cho việc đối phó với thiên tai, cứu trợ
xã hội thì hay biết bao ?
Đừng nghĩ tai hoạ không xảy ra với mình. Bất cứ ở đâu, lúc nào
bất chợt nó sẽ đến.
Loài người vẫn tự hào về nền văn minh của mình. Lẽ nào một điều
đơn giản ấy lại không nghĩ ra ?
Chính đêm hôm nghỉ ở Phú Yên, mấy anh em tôi có tranh cãi với
nhau về chuyện biến đổi khí hậu. Khi tôi nói suy nghĩ, thắc mắc vừa kể trên có ông còn cười
vào mũi tôi :
- Cậu không phải nhà khoa học, chưa một lần được mặc áo chính
khách, nói những chuyện ấy khác nào gái goá bàn chuyện triều đình, kiến lo cho
voi phỏng có nghĩa gì?
Câu nói như cứa vào gan ruột, ức mà không nói gì thêm được. Ừ
phận mình con sâu cái kiến, những chuyện ấy thật xa vời.. Nhưng các vị ở trên
tót vời có nghĩ đến không? Hay còn bận tiệc tùng, nhảy nhót, ăn nhậu ? Còn bận
đi du hí nơi nọ, nơi kia? Dăm bảy triệu họ ăn tiêu chẳng là gì, khi mà bây giờ,
ở miền trung các em học sinh bị lũ cuốn sạch không còn sách vở ? Các cụ già
đang cần chai nước sạch để uống ? Chưa nói đến những người bệnh hiểm, chữa chạy
thế nào trong cơn lũ lụt ngập trời ? vv
Tôi ra cửa đứng, nghĩ một mình. Liệu còn tai hoạ nào nữa do biến
đổi tự nhiên mang lại ? Nhiệt độ thay đổi, có nghĩa là các cuộc hoá sinh của
môi trường thay đổi, vi lượng trong thức ăn, trong khí trời thay đổi. Những cái
đó tác động đến cá tính, tâm hồn con người như thế nào ? Theo chiều hướng tốt
hay xấu ? Và rồi kết cục sẽ ra sao..
Toàn những thứ chả liên quan gì đến mình !
Hay là mình có vấn đề về tinh thần thật rồi chăng ?
Nghĩ mà sợ, đêm ở Phú Yên mà chưa yên giấc..
Ngày và đêm Bình Thuận..
Có những vùng đất không
cần nhìn bằng mắt, chỉ cần nghe bằng tai, cảm nhận bằng các giác quan khác là
đã biết mình đang ở đâu rồi. Suốt cuộc hành trình dọc miền trung mênh mang nước
lụt, gió bão rình rập, làm chúng tôi mệt nhoài. Quả thật gần đến được Bình
Thuận từ lúc nào cả đoàn, đủ một tiểu đội chúng tôi gật gù ngủ gần hết. Trừ nhà
sử học và chàng lái xe là còn thức, họ cần nhận đường và lái xe. Nếu họ cũng
ngủ nốt có khi chúng tôi tới thiên đường chứ chưa chắc đến nơi định đến! Những
bộ óc khôi hài , những cái miệng hay nói giờ này cũng ở chế độ turnoff. Chỉ có
tiếng bản nhạc êm dịu phát ra từ đĩa nhạc trên xe. Tiếng nhạc như đưa ta vào
giấc ngủ sâu hơn sau bao ngày mỏi mệt.. Chợt tất cả bừng thức, có một mùi vị
rất đặc biệt chan trong gió biển. Mùi của nước mắm Phan Thiết ! Nghe rõ tiếng
sóng biển ào ạt gần hơn, có cả mùi nắng mới lên trên các tiểu xa mạc của xứ
này. Người ta thường mô tả mùi nước hoa các loại, mà ít ai tả mùi nước mắm bao
giờ. Nhưng nước mắm Phan Thiết thì khác, nó có thương hiệu vượt ra ngoài khuôn
khổ quốc gia. Cùng với nước khoáng "Hảo Hảo" làm vinh dự vùng đất này. Lúc này chưa ai ngửi thấy nước
khoáng mùi như thế nào, nhưng ngay từ khi chuẩn bị đi ở nhà, trên xe đã có mấy
thùng nước khoáng đóng chai của Bình Thuận rồi. Thiên nhiên đã ban tặng cho
vùng đất này nhiều nắng, nhiều gió, cả những vi lượng đặc biệt hiếm hoi làm cho
nước mắm thì "thơm thiệt thơm thà", không cần chất phụ gia nào để
kích hoạt hương vị, ngửi thì ngon mà lại có hại cho bộ máy tiêu hoá của người
ta . Qua đây không ai không mua dăm chai nước mắm về làm quà. Hàng thứ thiệt,
mua tận gốc không sợ hàng nhái, hàng giả.
Nước khoáng Vĩnh Hảo và Đa
Kao có thể khai thác mỗi năm 300 triệu lít . Nguồn nước còn có công dụng chữa
bệnh. Xưa kia, vua của người Chăm là Chế
Mân đã được Huyền Trân công chúa chữa cho khỏi bệnh phong nhờ nguồn nước này.
Bình thuận là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, có những bãi
biển sạch chưa bị ô nhiễm nặng nề như ở Đồ Sơn. Có bãi đá Cổ Thạch nhiều màu kỳ
dị, như thể trò chơi của người khổng lồ hành tinh khác đến chơi để lại.
Bình Thuận cũng là nơi trồng nhiều Thanh Long nhất, chất lượng
tốt nhất trong cả nước. Hiện nay Thanh Long của Bình Thuận xuất khẩu nhiều nước
trên thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Tôi không muốn liệt kê lên đây tất cả những tiềm năng du lịch và
sản vật độc đáo của tỉnh này. Nhưng công bằng mà nói, đến Bình Thuận không ghé
thăm 100 bộ xương cá voi không biết có từ bao giờ ở đền thờ cá voi Vạn Thuỷ Tú,
không thăm ngọn hải đăng hoàn toàn xây bằng đá cao 100m ở Hàm Thuận Nam thì
chưa phải là đã qua Bình Thuận. Chưa kể đến tháp nước do Hoàng thân Xu pha nu
vông thiết kế từ năm 1928, xây xong vào năm 1934.. Nhiều chùa cổ, rừng già, hồ
nước .. Đi cho khắp lượt phải cả tháng trời.
Với tôi còn có một kỷ niệm khó quên một năm đã lâu rồi ở ga Mường
Mán. Đợt ấy cũng mưa lũ tương đối ác chiến, tôi bị kẹt trên tàu Thống Nhất gần
một tuần trời ngang đường vì tàu bị trật bánh.
Hàng trăm con người cơ nhỡ ngang đường, giữa nơi không có chợ búa, hàng
quán . Phải mua cả nước uống, khoai lang, ngô luộc do những người dân ven đường
đột xuất làm dịch vụ mang về bán. Về đến Hà Nội sụt mấy cân, hốc hác như vừa ở
khám Chí Hoà hay trại Bố Lá ra. Chuyện xưa nhớ lại thấy ngày nay còn may mắn
hơn nhiều. Nếu có sự cố dọc đường, lập tức có xe đò tăng bo ngay tức thì. Không
làm gì có chuyện nằm bụi, ăn khoai lang như thủa chưa xa !
Đến được Bình Thuận như cái tên của nó, là Bình Yên rồi. Cũng là
tỉnh ven biển nhưng ảnh hưởng của bão lũ giảm đi đã nhiều. Cũng như Tuyên Quang
tỉnh phía bắc kết nghĩa với Bình Thuận, nơi này được thiên nhiên ưu đãi khá
nhiều.
Buổi tối xem truyền hình ở đây đã có rất nhiều kênh, không như ở
Nghệ Tĩnh, Phú Yên.. Khách sạn mà ti vi chỉ nhõn một kênh, hoặc không có kênh
nào!
Thành phố Phan Thiết không lớn lắm, nhưng ban đêm rất đẹp.. Khí
hậu ở đây không chênh lệch hai mùa mưa nắng như nhiều vùng lãnh thổ khác. Ban
đêm trời rất quang mây. Nơi có lượng mưa
hàng năm vừa phải. Những bãi biển lộng gió còn nhiều vẻ khoáng đạt, chưa có sự
can thiệp thô bạo của con người. Cái vẻ bề ngoài còn sơ sài, không lộng lẫy như
Nha Trang, Vũng Tàu.. Tuy vậy nó có cái thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc
giải phóng mặt bằng, hoặc chuyển đổi , thay thế khi phải quy hoạch lại. Nhất là
không phải đau đầu bởi các dự án đền bù vì mức đền bù không quá cao như thể
nhiều nơi.
Tôi và QK lững thững thả bộ qua phố Tuyên Quang. Mùi mực nướng về
đêm thơm ngào ngạt. Những quán sò bày bán bên đường, những quán bia, món ăn hải
sản gợi cho người ta cái cảm giác thân gần như không phải mình là khách vãng
lai. Đường phố không tấp nập, nhưng có vẻ thật yên bình. Khung cảnh có cái gì
đó giống như đi qua khu chợ Bình Thuận ở thành phố Tuyên Quang khi màn đêm
buông xuống. Chỉ hơi khác là có gió biển tanh nồng và mùi nước mắm rất đậm tan
vào khí trời.
Bình Thuận là quê hương người ta có thể cảm nhận bằng tất cả giác
quan, bằng tất cả tấm lòng.
Một vài suy nghĩ
Vậy là sau bốn ngày ba đêm
chúng tôi qua cuộc hành hình từ cực bắc tổ quốc, đến Bình Thuận này, đã
là đi hết miền trung. Sở dĩ cuộc hành trình kéo dài như vậy là do hai lý do :
Một là qua dải đất "Thắt lưng buộc bụng" trong mùa mưa bão, gặp không
ít trắc trở dọc đường, may mà chưa xảy ra sự cố gì nghiêm trọng. Hai là do bản
tính hay la cà của những anh có chút máu "nghệ" trong người. Nếu
người ta muốn tốc hành, thực ra hành trình có thể rút ngắn được một nửa. Chỉ
cần hai ngày hai đêm thôi có thể qua chặng đường này..
Bốn ngày thực là quá ít ỏi để cảm nhận đủ chiều dài, bề sâu của
dải đất miền trung. Nơi ngực và cánh tay tổ quốc vươn ra biển đông thời hội
nhập. Chúng tôi biết ngoài xa kia còn có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa dù chưa
tới đó một lần, nhưng vô cùng thân thiết vì đó là máu thịt tổ quốc, là một phần
thân thể của nước Việt Nam mình.
Thật là có lỗi nếu tôi không nói ra điều này, cho dù vào lúc này
người ta thường hay né nó như sợ chạm vào chỗ đau. Tôi nghĩ những người cầm bút
chân chính mà lại không nói gì đến việc hệ trọng, sống còn của đất nước mình
thì anh ta viết cái gì ? Nói những điều vu vơ, vớ vẩn ư ? Hay uốn éo một giọng
sến mùi mẫm mô tả các phòng trà, những vũ trường, những tình cảm sướt mướt lãng
mạn xa cách đời sống nhân dân và thực trạng xã hội ?
Nhưng nói như thế nào ? Vì sao, vì cái gì mà nói ? Không phải với
giọng điệu quá khích để rối thêm tình hình vốn đã nóng lên hiện nay. Cũng không
phải xoa dịu để rồi lãng quên trách nhiệm công dân đối với đất nước mình. Đây
là câu hỏi khó, không phải ai cũng có thể làm được. Nếu anh nghe chưa thủng,
nhìn chưa thấy, hoặc không đủ can đảm, tốt nhất "Im lặng là vàng" !
T.H.V là người kín đáo. Ông thường ít tham gia các cuộc tranh
luận và nhất là khi nó thuộc vào lãnh vực chính trị. Ông từng nói với tôi một
lần khi hai anh em đàm đạo vào một đêm trăng trên núi Tam Đảo : " Chính
trị là chuyện của mỗi thời, văn chương là chuyện của muôn năm. Bần cùng phải
bàn chính trị, nhà văn chỉ nên nói trong tác phẩm của mình qua các hình tượng
nhân vật. Chả nên chính luận, hay lý luận lôi thôi làm gì". Kể ra ý kiến của
ông cũng rất đúng. Nhưng tôi lại nghĩ, đôi khi "chính luận" nó cũng
giống như ngôi nhà tạm, một cái lều chẳng hạn, khi ta chưa kịp xây xong nhà,
cần chỗ ở tam ngay cấp kỳ. Tôi chỉ nghĩ thế thôi, chứ lúc đó đầu óc còn đang để
vào việc khác, nên không nói gì.
Đột nhiên hôm nay ông lại hỏi tôi :
- Cậu nghĩ thế nào về vai trò và vị trí của miền trung trong việc
thống nhất, ổn định và phát triển đất nước ?
Tôi không nghĩ là ông muốn kiểm tra kiến thức của mình. Nhưng quả
thật đây là câu hỏi quá lớn, ngay một lúc khó trả lời rành rẽ được.
Tôi chỉ nói với ông rằng : Miền trung đã từng có lịch sử hàng
trăm năm đớn đau chia cắt đất nước của nhiều thế lực và các triều đại. Sông
Gianh, sông Bến Hải còn chưa nguôi mối hận phan ly. Đèo Cả, Đèo Ngang vẫn còn
di tích máu xương của bao thế hệ người Việt Nam. Cũng là nơi ngày xưa ông cha ta làm nhịp cầu
đầu tiên mở mang bờ cõi về phương nam. Không phải ngẫu nhiên mà Nhà Nguyễn chọn
kinh đô Huế.. Những điều đó dường như ai cũng biết..
Đó là khi giao thương với bên ngoài còn hết sức hạn chế. Chỉ một
nhóm người Hoa, người Ấn theo đường biển
vào xâm nhập và cư trú gần những cửa sông, cửa biển vùng này. Những diễn biến
lớn và biến động thường chỉ xảy ra trên bờ biển đông.
Còn ngày nay mọi sự đã khác. Khi người ta nhận ra tiềm năng của
biển không chỉ đơn thuần là việc đánh bắt hải sản, giao thông đi lại, còn có cả
nguồn lợi lớn về dầu khí, nguồn lợi của các cửa biển thông ra bên ngoài. Một
đất nước có hơn ba ngàn cây số bờ biển ( 3200Km ), là một đất nước có rất nhiều
thuận lợi. Các cảng biển sẽ là nguồn lợi lớn về nhiều mặt.
Nhưng thuận lợi bao giờ cũng đi cùng thử thách. Chưa bao giờ miền
trung phải đối đầu với nhiều tai hoạ và thử thách như ngày nay. Đúng là biển "bạc"
thật, nhưng biển cũng mang đổ về sóng to, bão lớn. Biển là tác nhân của những trận lũ kinh hoàng như vừa rồi .
Ngoài biển không chỉ có cá,
có dầu.. Lúc này đây ngoài biển còn rình
rập nhiều tai hoạ, âm mưu và bao điều bất nghĩa,vô lý mà người dân bên bờ biển
đông này đang phải hứng chịu từng giờ.
Bao nhiêu ngư dân lạc trôi trên biển mỗi năm ? Những tàu cá
"Đánh bắt xa bờ" của ngư dân bây giờ dùng vào việc gì khi biển không
còn là biển xanh êm ả nữa ?
Bao nhiêu câu hỏi, còn khó trả lời.
Tôi bảo ông đi ngủ, trời đã khuya rồi.
Ngoài cửa sổ trăng lên tự lúc nào. Ở thành phố người ta ít để ý
đến trăng vì lối sống công nghệ tác động nặng nề.
Chỉ khi người ta một đêm nào đó cô đơn, có ít bạn, người ta mới
thấy là trăng vẫn còn và rất đẹp..
Bà Rịa Vùng Tàu, Trời biển, con người và đất..
Chúng tôi đến Vũng Tàu vào
cuối mùa mưa, đầu mùa khô, là lúc giao mùa của vùng đất này. Nhưng thỉnh thoảng
mặt biển đã có sóng lừng dấu hiệu bắt đầu mùa gió chướng. Ngoài khơi biển còn
rất trong xanh, bằng mắt thường có thể nhìn rõ những tàu dầu đậu ở ngoài xa.
Những tàu đánh cá, tàu chở hàng qua lại. Nhìn về phía tây bắc thấy dải Trường
Sơn xanh mơ ngủ dưới chân mây. Trời và biển không thể phân biệt được lằn ranh
giới. Thỉnh thoảng một chiếc trực thăng
bay đi, bay về kết nối các giàn khoan ngoài biển với đất liền, như những chiếc
thuyền biết bay trong truyện cổ tích của nước Nga xa xôi. Không phải ngẫu nhiên
người ta lại có cái liên tưởng như vậy. Ngay từ hôm đầu đến đây chúng tôi chúng
tôi đã gặp những người Nga trên bãi biển Vũng tàu. Vợ chồng con cái họ chiều
nào cũng ra tắm biển. Họ lặng lẽ, hoặc chỉ nói rất khẽ với nhau, ít ồn ào mỗi
khi ngang qua chỗ chúng tôi. Đây có phải là tính cách Nga, hay mới chỉ là thói
quen của người Nga từ ngày Liên Xô tan rã ?
Phải công nhận là Nhà sáng tác của bộ văn hoá được thiết kế rất
đẹp, một nét đẹp thanh nhã mà khoẻ khoắn, nhìn xa giống như một con tàu buồm
đang chuyển bị ra khơi. Đứng ở ban công của tầng năm có thể thấy gần như toàn
cảnh Vũng Tàu : Bãi trước, bãi sau, núi lớn, núi nhỏ.. Nhưng rõ nhất là mặt
biển khơi mỗi khi bình minh và hoàng hôn xuất hiện.
Nhìn rõ tượng chúa Ki Tô cao ngất trên đỉnh núi, ngài đang dang
tay ra với biển, quay lưng về phía đất liền. Thấy cả ngôi chùa trên một hòn đảo
nhỏ gần bờ. Hình như nơi đây có cuộc cạnh tranh ngấm ngầm giữa hai tôn giáo lớn
này. Một có nguồn gốc từ phương đông hàng ngàn năm, một từ phương tây mới du
nhập vào xứ sở vài trăm năm nay. Nhưng đó là cuộc đua tranh ôn hoà, lặng lẽ chứ
không khốc liệt ngạt mùi thuốc súng, khói bom như các cuộc chiến tranh, xung
đột nhiều nơi trên thế giới. Ngay như Thái Lan ở gần ta, vương quốc của hoà
bình, thịnh vượng gần đây cũng đã xảy ra các vụ đổ máu, mà nguyên nhân chính là
các phe phái đối lập, kình chống nhau, lợi dụng tôn giáo, xúi giục tạo nên các cuộc
xung đột.
Khi đã có thời gian thăm thú một vài nơi, chúng tôi còn được tận
mắt chứng kiến các đỉnh cao các đỉnh núi trong vùng đều được dùng vào việc biểu
dương tôn giáo của cả hai bên. Những chỗ
ấy đều có biểu tượng của đạo Phật và đạo thiên chúa, không bên nào chịu bên
nào.
Tôn giáo nào thì cũng đều có sự thiêng liêng cao cả và sức lôi
cuốn riêng của nó. Nhưng nó cũng đều bị tình cảm, sự ngộ nhận thái quá của con
người làm biến tướng. Thực ra để đề cao vinh danh tôn giáo mình, con người
không nhất thiết phải chạy đua về độ cao như vậy.
Đức chúa trời, Đức Phật ở
nơi thiêng liêng, trong sáng nhất là
trái tim con người..
Vũng Tàu là một thành phố còn rất trẻ, với dân số còn khiêm tốn
là ba vạn người, tuy không phải là thủ phủ của tỉnh Bà Rịa nhưng có quy mô xây
dựng và đầu tư lớn hơn thị xã Bà Rịa. Đặc biệt là về du lịch. Dọc hai bên bờ
của bán đảo nhoai ra biển cỡ chừng non mười lăm cây số, san sát nhà hàng, bãi
tắm, các dịch vụ du lịch đủ loại. Có lẽ ít có nơi nào hội đủ nhiều thuận lợi
cho du lịch như ở nơi này. Có cả rừng và
biển, nhiệt độ trung bình hàng năm 27- C, hầu như quanh năm rất ít bão, còn như
gió mùa đông bắc chỉ thoảng qua .
Phòng chúng tôi ở và làm việc đều có gắn máy điều hoà, nhưng rất
ít khi phải dùng đến. Không có gì bằng gió trời pha hương vị của biển, lành lặn
và khoẻ người. Chả ai dại gì dùng thứ gió nhân tạo, dễ gây dị ứng, nhất là với
một số ít người phổi không được khoẻ !
Chuyện chỉ có ở Bà Rịa Vũng Tàu..
Tôi sẽ kể bạn nghe một vài chuyện mà trong vòng hai tuần lễ ở đây
tôi gom nhặt được. Chuyện về những người giàu có nổi tiếng, của những danh nhân
đã từng qua lại hoặc ở hẳn đất này. Chuyện về những người mới nổi và cả chuyện
những người nghèo, cuộc sống còn nhiều lận đận nơi đây. Có một câu chuyện có
một không hai về mối tình lãng mạn của một nhà viết kịch lừng danh khi ông đã
89 tuổi với một cô giáo đã ngoài bốn mươi. Họ hơn kém nhau gần nửa thế kỷ ! Ông
là người Hà Nội vào viết ở nhà sáng tác Vũng Tàu, nơi trước cửa có tấm biển đề
" Quán Nghệ sĩ" Trên đường Thuỳ Vân, trông ra một trong những bãi tắm
biển đẹp nhất vùng này. Trước khi về Hà Nội, trong buổi gặp mặt với anh chị em
nghệ sĩ của Bà Rịa, tình cờ ông quen một người. Trong cái khoảnh khắc định mệnh
ấy, ông cảm thấy mình có duyên nợ với một người. Ra đến Hà Nội ông vội vàng
viết thư vào. Thời ấy chưa có điện thoại di động để buôn dưa lê hàng tiếng đồng
hồ thật thoải mái như ngày nay. Chưa có in tenet để chát chít như bây giờ. (Giả
dụ lúc bấy giờ nếu có phương tiện này, ở cái tuổi ấy, cụ nhà văn kia chưa chắc
đã biết sử dụng. Ngay bây giờ một số đông các nhà văn ở nước mình vẫn coi
intenet là thứ xa lạ, mất thì giờ. Khái niệm "văn học mạng" chỉ dùng
cho một số người có óc tò mò và hay nói chuyện phức tạp, những chuyện đôi khi
không nói được trong luồng, trong dòng chảy chính thống ). Lá thư ấy vẫn còn
như là một di sản được lưu giữ lại ở
phòng lưu niệm nhà sáng tác. Giám đốc Vũ Mão hôm đưa cho tôi xem ông còn nói :
" Coi đây như một quốc bảo, ông nhà văn con trai tác giả bức thư này hôm
vào đây cứ khẩn khoản xin tôi bức thư này về làm kỷ niệm gia đình, vì bây giờ
cụ nhà văn đã về cõi vĩnh hằng. Cụ đang đi tìm mô hình chủ thuyết suốt đời cụ
theo duổi và hết lòng ca ngợi. Nhưng tôi nói cái này bây giờ không thuộc về
riêng tôi và ông nữa, nó đã là tài sản quốc gia rồi ..". Đó là lá thư viết
tay bằng nét mực xanh, trên giấy pơluya màu hồng, loại giấy những năm tám mươi
các tình nhân hay viết gửi cho nhau.. Có thể ông giám đốc nói quá lên, bức thư
chỉ là tư liệu về đời tư của một nhà văn, chưa thể coi là "Quốc bảo "
được. Nói vậy thành to chuyện quá. Nhưng cũng có thể coi là trường hợp có một,
không hai của cuộc tình lãng mạn, một tình yêu không có giới hạn về tuổi tác,
về không gian và thời gian. Phải là người có trái tim, khối óc thế nào mới có
thể khi gần kề miệng lỗ mà hãy còn yêu ?
Nhưng trước khi kể những chuyện ấy, tôi muốn bạn cùng tôi lần tìm
về năm trăm năm trước, khi vùng này còn là đất đai của tiểu vương quốc Chân
Lạp, nước láng giềng của Chiêm Thành xa xưa. Hồi bấy giờ vùng này còn rất hoang
vắng, chỉ có những con đường nhỏ ra ven biển. Dân cư chủ yếu sống nhờ hái lượm
và săn bắn, chăn nuôi và trồng trọt chưa phải là nghề chính ở đây. Cá tôm, hải
sản ven bờ rất nhiều. Rừng còn đủ loại thú, chim chóc ong rừng đủ loại. Con
người chả phải dụng công bao nhiêu cũng có đủ cái ăn. Tất nhiên nhu cầu sống
bấy giờ đơn giản, không phức tạp và đòi hỏi cao như bây giờ.
Có một người đàn bà trẻ mang theo đàn con đến xứ này..
Bạn thông cảm với tôi khi lịch sử nước nhà nhiều trang chỉ là
huyền sử, mang dáng dấp huyền thoại, nên không có cách gì để nói rõ hơn về thân
thế của người khai mở vùng này. Ngay cả những năm tháng gần đây nhiều cái cũng
còn rất mơ hồ, thì chuyện cách đây hàng trăm năm làm sao tỏ tường hết được
? Chỉ biết người phụ nữ ấy có tên là
Rịa, bà Rịa sau thành địa danh của mảnh đất này. Bà cấy lúa, trồng khoai, cưu
mang những kẻ thất cơ lỡ vận từ nơi khác đến, để lại truyền thống thương yêu,
đùm bọc con người, bất luận lai lịch, xuất xứ thế nào, miễn là ở đây hiền
lương, chân thực.
Khi họ Nguyễn thất thế bởi các cuộc đánh dẹp của nhà Tây Sơn,
được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ lối, về sau dãy Hoàng Sơn lập nghiệp,
các chúa Nguyễn lần lượt thôn tính Chiêm Thành, Chân Lạp. Đương nhiên các cuộc
chinh chiến ấy kéo dài hàng chục năm trời. Mãi đến năm 1658 Nguyễn Phúc Tần mới
hạ được thành MÔ Xoài, bắt được vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân. Từ đó Bà Rịa
thuộc về sự cai quản của nhà Nguyễn.
Ở Bà Rịa có câu : "Không đi không biết Vũng Tàu, bởi chưng
luôn bị nhập vào tách ra".
Dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, vùng này thuộc tiểu khu Phước Tuy, trực thuộc phủ tổng thống.
Sau năm 1975 nhiều lần sát nhập vào các tỉnh lân cận, mãi đến năm
1991 mới chính thức thành lập thành tỉnh như ngày nay.
Bà Rịa Vũng Tàu hiện nay
là tỉnh có thu nhập bình quân đầu người vào loại nhất nhì cả nước ( Vào khoảng
từ 11 đến 15.000 USD/ người ). Là nơi phát triển công nghiệp và du lịch có vốn
đầu tư rất lớn và đang phát triển. Nhất là sau khi có quyết định chuyển các
cảng trên sông Sài Gòn ra ngoài thành phố, Vũng Tàu sẽ là cảng chính để ra vào
thành phố Sài Gòn.
Một tương lai đang chờ ở phía trước, đồng thời cũng nhiều thử
thách nếu Bà Rịa Vũng Tàu chệch hướng trong việc bảo vệ môi trường, giải quyết
các vấn đề xã hội, nhất là điều tiết và giảm khoảng cách giàu nghèo.
Là một tỉnh rất trẻ, sắp tới đây sẽ làm lễ 20 năm thành lập, nhưng
có truyền thống lịch sử lâu đời. Đến bất cứ đâu bạn cũng có thể tìm thấy những
dấu tích qua các thời kỳ để lại. Từ nơi ăn ở xa hoa của cựu hoàng Bảo Đại trên
núi lớn đến người Ngư Phủ đầu tiên là ông Trần ở làng đảo Long Sơn. Gọi là ông
Trần không phải tên hay họ, chỉ là sinh thời ông hay cởi trần không mặc áo. Tên
họ đầy đủ của ông là : Lê văn Mưu, người gốc Hà Tiên có mặt ở Long Sơn từ năm
1900. Ông để lại một gia tài rất độc đáo mang đậm tính chất văn hoá của người
Việt xưa. Từ các dụng cụ lâu đời để trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt hải sản đến
những vật dụng, đồ thờ cúng lâu đời. Đặc biệt có chiếc ngai của vua Thành Thái
từng ngồi. Bây giờ cơ ngơi của ông đã trở thành di tích văn hoá được nhà nước
công nhận. Nó trở thành tài sản chung không chỉ của dòng họ Lê của ông nữa.
Thế kỷ mười chín là thế kỷ nhiều biến loạn. Lưu dân lưu lạc nhiều
đổ nơi về. Ông Trần như một Mạnh Thường Quân trên hòn đảo hoang, ai đói thì cho
ăn, thiếu áo cho mặc, cấp gạo, cấp tiền cho người ta làm ăn, gây dựng hòn đảo
hoang vu thành ấp thôn, thành nơi trú thân cho bao cảnh đời cơ nhỡ. Ngày giỗ
của ông trở thành ngày hội của cả vùng này. Bạn có đến đồn biên phòng Long Sơn,
hay ra nhà hàng nổi thưởng thức món sò huyết trứ danh, bạn sẽ đi qua nhà con
người nổi tiếng nhân đức này.
Ngày nay ra xã đảo Long Sơn đã có cầu nối với đất liền. Việc đi
lại chỉ trong tầm tay nếu bạn muốn .
Người ở Vũng Tàu
Có lẽ nên bắt đầu câu chuyện về người Vũng Tàu bằng một nhân vật
khá đặc biệt, một vị quan chức hồi hưu có vẻ bề ngoài bí ẩn. Tôi chọn câu
chuyện về ông không có nghĩa là tôi xuất phát từ thói xấu hay "nịnh"
quan, mà chỉ đơn thuần ông là người cao tuổi nhất tôi thường xuyên gặp trong
suốt những ngày lưu ở quán "Nghệ sĩ". Đó chẳng phải phù hợp với đạo
đức của người Việt mình kính trọng người già, quan tâm tới các mầm non của thế
giới cực lạc hay sao ?
Một phần nữa ông là nhân vật thường xuyên có mặt ở đây, gần như
24/24 giờ trong ngày. Ông chọn chỗ ngồi một mình bên chiếc bàn kê gần cửa ra
vào, nhưng hơi khuất. Chỗ đó có thể không mấy người nhìn thấy ông, nhưng ông
lại nhìn thấy tất cả. Ông không hút thuốc, chỉ dùng cà phê đen. Dáng người ông
còn nhanh nhẹn, tóc đã bạc trắng đầu. Đặc biệt ông có hàm răng đều và trắng
bong. Để ý kỹ mới biết đó là bộ răng giả, nhưng vào loại đắt tiền. Suốt ngày
ông ngồi trầm ngâm, đôi mắt ướt mờ nhìn vô định, như không nhìn vào nơi nào cụ
thể..
Thoạt đầu tôi cứ ngỡ ông cũng là người ở chung ngôi nhà có cái
dáng du thuyền chuẩn bị ra khơi, tìm chân trời sáng tạo như hầu hết những người
ở đây. Nhưng không phải. Ông không là nhà văn, không phải hoạ sĩ, nhạc sĩ cũng
không phải nốt. Ông không nằm trong nhóm người tiền bạc ít mà nhiều cao vọng,
hay sĩ diện và nhiều tự ái ấy.
Ông là con người hoàn toàn khác.
Suốt ngày ông ngồi im lặng, chẳng nói câu nào. Nếu không nhìn vu
vơ ra đường thì lại mân mê mấy cái nhẫn vàng to tướng có khảm đá quý trên mấy
ngón tay. Đừng tưởng ông thờ ơ với xung quanh, nếu có ai đó nói chuyện gì khang
khác là đôi mắt lờ mờ của ông như sáng lại hẳn. Đôi tai to và dày hình như
những lúc đó hơi nhúc nhích. Tôi có kinh nghiệm về động thái này. Phàm những
người có thể cử động bằng tai được đều là những người không bình thường. Ở họ
có một khả năng đặc biệt mà người khác không có. Họ rất giỏi trong việc phát
hiện thông tin và có những phán đoán, phản ứng mau lẹ. Những người như thế
thường rất thành công trong cuộc đời. Đó là mẫu người "Luôn luôn lắng
nghe, luôn luôn thấu hiểu" Như cách thể hiện trong quảng cáo của thế kỷ
này.
Không phải thấy ông đeo vàng đầy người, thỉnh thoảng rút một cục
toàn tiền có mệnh giá lớn để trả tiền cà phê sáng mà tôi muốn làm quen. Thấy
sang bắt quàng làm họ, thấy giàu có lân la là cách nghĩ và lối sống sai lầm.
Xưa nay chỉ cá lớn nuốt cá bé, chứ con nào nhỏ ăn nổi cá to bao giờ đâu ?
Thường là người nghèo lại cung phụng người giàu để cầu thân, chứ mấy khi anh
nhà giàu nhìn đến họ ? Người thường đã nghĩ và biết như thế, kẻ sĩ càng không
nên ứng xử sai lầm.
Tôi muốn tiếp cận chỉ vì thói hay tò mò, thích tìm hiểu vốn là
thói hư của mình, biết không hay lắm, muốn bỏ mà chưa bỏ hẳn được. Đôi khi phởn
lên lại hay mắc. Một phần cái vẻ bí hiểm bề ngoài của ông như thể khiêu khích
tôi:- Ông là ai ? Ông đang tìm kiếm cái gì ? Hay chỉ đơn giản để giết thời
gian, chờ người ta đưa đi một nơi nào đó, có thể xa thật là xa ?
Ở tuổi ấy, có thế người ta tìm nơi vắng vẻ, có người bạn tâm
giao, hoặc chăm cây cảnh, cá cảnh, chó cảnh một mình, tìm cách gần gũi với
thiên nhiên.
Ai lại tìm đến nơi toàn người lạ chỉ ở đây ít ngày, nói toàn
chuyện trên trời dưới bể, mà những chuyện như vậy với số tuổi mang trên vai của
mình ông đâu có lạ, đâu còn cần thiết nữa ?
Hỏi ra mới biết, có nguyên do trong câu chuyện về ông.. Tất nhiên
là không phải do ông kể. Một lần trong câu chuyện vui, chúng tôi ngồi uống bia
và trò chuyện có ông ngồi cùng trong
phòng giám đốc, ông Mão giới thiệu về ông..
Ông là một nhân vật tiểu thuyết. Viết về ông có lẽ cần đến một
tiểu thuyết dài, viết về chiến tranh. Từ ngày cuộc chiến đến đỉnh điểm về sự ác
liệt, đến khi kết thúc và phần hậu chiến sau này. Nhưng người ta đã viết về nó
khá nhiều, gần như đến mức bội thực. Đa số các nhà văn Việt Nam thành danh nhờ
viết về cuộc chiến này. Hầu hết họ đã từng mặc áo lính, qua một thời trận mạc,
đương nhiên vốn liếng của các nhà văn này chủ yếu gom nhặt được từ bom đạn,
chiến trận mà có. Bởi vậy viết về chiến tranh không còn là một nhu cầu thiết
yếu nữa. Tất nhiên không ai phản đối nếu các bác vẫn viết như nửa thế kỷ vừa
qua, nếu viết hay cũng chẳng thừa. Nhưng viết tiểu thuyết đòi hỏi một quá trình
chuẩn bị công phu, phải tìm hiểu nhiều, nghiên cứu nhiều trong mớ tư liệu ngồn
ngộn của cả hai phía. Điều quan trọng và chủ yếu nữa là vốn trải nghiệm của tác
giả. Dù có óc tưởng tượng tốt đến đâu, nếu không trải qua trải nghiệm của bản
thân mình, tác phẩm nhất định có những hạn chế. Nói ra điều này có thể có người
sẽ bảo : " Khi viết "Vượt Côn Đảo" tác giả của nó đã ra Côn Đảo
và ở tù một ngày nào ở ngoài đó đâu, ông còn là người sống ở miền bắc suốt thời
trai trẻ, sao viết về nó vẫn hay ? " Xin thưa đó là trường hợp hy hữu lắm.
Nếu đọc kỹ vẫn thấy những cái chưa hẳn là "Vượt Côn Đảo". Thể loại
tiểu thuyết ấy không phải là viết theo kiểu trinh thám, hay viễn tưởng. Nó là
thứ gọi là "hiện thực chủ nghĩa" mà với số vốn ấy xem ra vẫn chưa ổn..
vv.. Vì những lẽ ấy, t.g không có ý định qua hình tượng của ông dựng một cuốn
tiểu thuyết gượng gạo. Chỉ muốn ghi lại chút cảm nhận, làm tư liệu nếu như sau
này có cơ hội cần đến. Sau đây là vài nét khái lược :
Hơn bốn mươi năm trước, vùng Xuyên Mộc, Long Đất bây giờ dân cư
còn thưa thớt. Ven biển những nơi này còn mọc đầy sú vẹt, gần như không có
đường đi. Một đơn vị đặc biệt của B2 được điều xuống vùng này, sau khi được học
một lớp cấp tốc về sử dụng phương tiện, phong tục tập quán trong vùng. Sau này
người ta gọi đơn vị ấy là "Đặc công nước". Thực ra họ chỉ hoạt động
bí mật trong những khu rừng rậm ven biển, chủ yếu là trên cạn. Xây dựng cơ sở
bí mật để khi cần làm bến dự phòng đón
nhận hàng từ những con tàu không số.
Ông già có hàm răng giả đắt tiền và tay đeo nhiều nhẫn vàng khi
ấy là đội trưởng của một đội. Đơn vị không ở tập trung mà chủ yếu dựa vào dân,
ở phân tán nhiều nơi. Nhiệm vụ của họ là gây dựng cơ sở, tổ chức lực lượng tại
chỗ để chiến đấu với quân Úc Đại Lợi lúc đó sang hỗ trợ cho quân lực Việt Nam
Cộng hoà. Nói thẳng ra là đánh thuê cho người Mỹ, chốt giữ vùng Bà rịa Vũng
Tàu. Lính Úc là đối thủ đáng gờm, du kích và vận động chiến trong rừng là sở
trường của họ. Thoát ẩn thoắt hiện, biến hoá rất giỏi không kém gì du kích của
ta. Người ta hay nói nhiều đến chiến tranh du kích của người Trung Quốc và của
Việt Nam, nhưng có ở Bà Rịa Vũng Tàu mới biết lính Úc du kích chiến không tồi.
Họ nghi binh rất giỏi và phục kích rất hiểm. Có một câu chuyện kể lại rằng :
Một buổi sáng, có một tốp lính Úc lùng vào rừng, họ thường đi như vậy chứ không
ồ ạt, xe pháo rầm rộ như lính Mỹ, hay
lính Việt Nam cộng Hoà. Trinh sát của ta theo dõi, đếm chính xác quân số hành
quân của tốp này. Đến chiều họ trở ra vẫn đủ số quân như vậy. Ta yên trí cho là
họ đã rút hết về, nên đêm ấy tổ chức vượt khu vực ấy để tập kích một địa điểm
đóng quân của họ. Không ngờ khi hành quân qua một trảng trống, ngập sình lầy
thì bị phục kích trong đêm tối. Trận ấy ta hy sinh khá nhiều người. Về sau điều
tra mãi mới biết trinh sát của ta bị mắc mưu của quân Úc.. Thì ra buổi sáng khi
vào rừng, trời mưa, lính Úc đều khoác áo đi mưa. Thay vì mang ba lô cồng kềnh
sau lưng, mỗi tên cõng theo một tên nữa. Khi trở ra, số cõng theo ở lại phục
kích. Ta đếm vẫn đủ quân số của họ khi vào, yên trí họ đã rút hết ra ngoài. Ai
cũng cho rằng trời mưa gió thế này, họ chả tội gì ở lại trong rừng cho muỗi
đốt, và thế là trúng vào kế của họ..
Kể câu chuyện trên để thấy là đơn vị của ông già này hồi đó phải
đối đầu với một đối thủ như thế nào ? Chưa kể đến các loại an ninh, dân vệ,
cảnh sát cơ động của quân Sài Gòn. Nếu không giỏi không thể trụ được ở đất này.
Họ là những người lính được chọn lọc ở nhiều đơn vị đưa về đây. Nhờ vào tập
quán bao bọc của người dân từng có trong lịch sử vùng đất này mà tồn tại được.
Vậy mà đến ngày giải phóng chỉ còn lại mấy người, cả đơn vị đã hy sinh gần hết.
Riêng ông chỉ bị xây xước nhẹ vài chỗ.
Ông chiến sĩ già hồi đó được cơ sở giới thiệu làm quen một cô gái,
sau này thành vợ của ông. Ba cô là sĩ quan cảnh sát ngoài Sài Gòn. Chính nhờ
cái vỏ bọc ấy, ông hoạt động khá thuận lợi và nhiều lần thoát hiểm trong gang
tấc.
Ngày giải phóng, ông đã có con với người đàn bà này. Khi ấy cũng
là khi Ba cô đi học tập cải tạo.
Tuy có vấn đề về lý lịch, nhưng nhờ một là ông có năng lực và
nhiều thành tích chiến đấu, hai là đang thiếu cán bộ, ông vẫn được đề bạt làm
cán bộ có cỡ của tỉnh này. Vũng tàu ngày ấy chưa có quy mô du lịch như bây giờ.
Khái niệm du lịch còn rất mơ hồ, nên đất đai còn rất rẻ. Ông được phân cho một
đám dọc ven biển, chỉ để trồng khoai mì và nuôi gà. Ông khai phá thêm tranh thủ
những lúc rảnh rỗi cùng vợ con làm để cải thiện cuộc sống.
Ai dè đâu, sau này tấc đất tấc vàng ! Ông trở thành một trong
những tỷ phú ở thành phố này.
Nhưng con người ta được cái này thì trời lấy đi cái khác. Ba vợ
ông sau thời gian cải tạo về sang Hoa Kỳ theo diện HO của chính phủ Mỹ. Vợ ông
lúc ấy cũng muốn đi, vận động chồng, nhưng ông kiên quyết ở lại với lý lẽ :
" Cả đời đánh Mỹ, chả lẽ đến lúc già lại chạy theo Mỹ hay sao ? ".
Bản tính hiền hậu bà vợ ông ở lại với chồng, chăm con. Tưởng đâu như vậy yên bề
ra thất.
Ông đưa vợ con ra bắc, thật không may là chẳng còn ai. Bố mẹ già
chết đã lâu. Người em trai duy nhất đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên
giới. Người em dâu đã đi bước nữa..
Quê hương vậy là không còn ai thân thiết. Từ nay Vũng Tàu là quê
hương.
Về hưu ông xoay qua kinh doanh bất động sản. Với lợi thế là người
thổ công ở đất này lại quen biết nhiều, toàn chỗ thế lực, ông mau chóng thành
công. Không phải như một số người nói : Ông chỉ giỏi trong chiến trận, chưa
chắc đã thành công trong thương trường.
Thiên hạ lầm cả, khi người ta có khả năng thích nghi cao, thì môi
trường nào người ta cũng tồn tại và phát triển được !
Sai lầm bắt đầu từ ngày ông cho con du học nước ngoài..
Vợ ông mất, con ông không
về. Một mình ông với cái biệt thự rộng rinh cùng nỗi cô đơn. Có người tới thuê
nhà của ông để làm văn phòng, làm nhà hàng, ông đều từ chối.
Ông cần tiền để làm gì ? Để cho ai ? Tiền ông đâu có thiếu ? Trong
khi mà ông ăn không được, chơi không được, tuổi già đuổi sau lưng, chưa biết
“đi gặp các cụ” khi nào, thì tiền còn có ý nghĩa gì nữa ?
Hôm tôi gặp ông ở phòng riêng của giám đốc, tôi thấy ông dửng
dưng khi ông giám đốc tặng ông cuốn sách có tựa đề " Tình dục đối với
người già" của một tác giả nước ngoài. Ông giám đốc khéo léo giới thiệu
đây là cuốn sách hay, một nghiên cứu khoa học rất bổ ích cho người già, lại
không phải sách cấm.. Nhưng ông vẫn thờ ơ. Tôi biết ông giám đốc xuất phát từ
thiện ý tốt, muốn cải thiện sức khoẻ cho ông và nhất là để ông vợi bớt nỗi cô
đơn.. Xem ra không kết quả.
Thuê xe ôm tháng, có lẽ là trường hợp hiếm có trên đất nước này,
kể cả trong nam ngoài bắc. Ông già X là người có thể nói là duy nhất thuê xe ôm
như thế. Mỗi tháng ông trả cho gã chạy xe ôm bốn triệu đồng. Bảy giờ sáng đến
nhà chở ông ra quán "Nghệ sĩ" này, bảy giờ tối đưa ông trở lại nhà.
Buổi trưa ông không về nhà, để đến tối dễ ngủ. Gã chạy xe ngoài việc chở ông,
không được đi đâu ngoại trừ có việc đột xuất thật cần thiết, được ông cho phép.
Gã mang theo cái võng mắc ngay gốc cây cạnh cổng ra vào nhà hàng
"Nghệ sĩ". Nếu không có ai cùng chơi cờ thì làm một giấc. Buổi trưa
ăn cơm tháng do ông chủ trả tiền. Thật là nhàn, chả vất vả long đong như những
anh xe ôm khác.
Ông vẫn ngày ngày ngồi vào chỗ như để dành riêng cho ông, lặng lẽ
nhìn như không nhìn..
Thế cũng còn may chán.
Nhiều người già gặp hoàn cảnh éo le, lại sẵn tiền dễ sinh hủ bại, nát rượu, gái
gú, ăn nói văng mạng chả coi ai ra gì, vì biết không ai giận và chấp người già.
Không biết từ ngày tôi về, ông có còn ngồi ở chỗ ấy nữa hay không
?
***
Mỹ Nhân tỷ phú..
Cách chỗ chúng tôi ở không xa, chỉ mấy số nhà trên Đường Thuỳ Vân
có một nhà hàng sang trọng cỡ năm sao. Nơi có cây cầu vượt từ phía bên này
đường bắc qua phía bên kia nối với khu nhà nghỉ, nhà hàng theo kiểu liên hoàn.
Cầu vượt có mái che, hai bên lan can đặt những chậu hoa lớn, về đêm rực rỡ ánh
đèn. Từ phòng nghỉ từ chỗ tôi, ban đêm nhìn thấy cả màn hình 3D cỡ lớn ngay
ngoài tiền sảnh của khu nhà ấy. Đó là khách sạn cao bảy tầng, trước cửa có bể
phun nước, giữa bể có tượng đài thiên thần và mỹ nhân bằng đá quý trắng muốt. Nhà
hàng có tên "The IM Peral" viết theo kiểu phăng te ri mạ vàng, khổ
chữ lớn, từ xa cũng có thể đọc được. Nội thất của nó báo chí, các trang mạng đã
nói khá nhiều và tôi cũng không có ý định quảng cáo không công cho nó, nên
chẳng nói thêm ở đây làm gì.
Những thứ đó xa cách cuộc
sống của số đông nhân quần nghèo khổ mà tôi tự nguyện suốt đời làm bạn bầu của
họ. Phô trương sự xa hoa ấy, có khác gì gợi vào chỗ đau, sự buồn chán của họ?
Chẳng mang lợi ích gì dù chỉ là phương diện tinh thần cho chín mươi phần trăm
dân số trên đất nước này. Còn các vị tai to mặt lớn, các vương giả, chốn này với
họ cũng chẳng nghĩa lý gì. Nó chỉ là con gà mái so với một con công. Không
thiếu gì nơi sang trọng và xa hoa lộng lẫy hơn nhiều nếu họ muốn. Nhưng nếu
dừng chân ở Vũng Tàu chắc chắn họ sẽ chọn nơi này làm chỗ nghỉ.
Nói vậy mà tôi vẫn phải nhắc đôi dòng về nó là vì để khắc hoạ đôi
nét về diện mạo của nơi chỉ đứng thứ hai sau Nha Trang về vẻ đẹp thiên nhiên và
các công trình đầu tư cho du lịch. Để thấy cái khoảng cách giữa người nghèo và
người giàu hiện nay như thế nào.
Thời quá độ, nảy nở nhiều đại gia với những tài sản không lồ, có
người có thể so sánh ngang ngửa với những người giàu có nhất nhì châu á. Họ là
ai ? Nếu không phải là con ông cháu cha ? Những người nắm quyền bính và nguồn
lợi quốc gia của đất nước? Những ông hoàng buôn lậu, trùm xã hội đen chưa bị
lưỡi gươm công lý chạm vào ? Cũng có thể họ là những doanh nhân thành đạt,
những người làm kinh tế giỏi. Nhưng số này hiếm lắm. Xưa nay cha ông ta có câu
: " Có bột mới gột nên hồ", phải ở điểm xuất phát nào đấy mới trở nên
giàu có.
Nhưng chủ nhân của nhà hàng kể trên không thuộc các típ người như
vậy. Nàng không phải con ông nào, cháu bà nào cả. Xuất phát điểm ban đầu có thể
nói là cực kỳ thấp.
Tuổi thơ của nàng sống trong nghèo khó. Nàng lớn lên với sự bao
bọc của người cha dượng ở đất bắc. Sáng sáng đạp chiếc xe cà tàng đến lớp trong
manh áo mỏng. Chính nhờ những năm tháng như thế nuôi trong nàng ý chí tự lập,
khao khát làm giàu. Cuộc hôn nhân đầu đổ vỡ nàng không bị suy sụp, như nhiều
người ở tình cảnh đó. Nàng tìm cách gượng dậy và nàng đã thành công, tìm thấy
hạnh phúc. Gần đây nàng lại xuất hiện trên phim truyền hình nhiều tập một vai
diễn tương đối khó, được nhiều người mến mộ.
Tôi không quan tâm chuyện nàng cùng với người chồng thứ hai hiện
đang sở hữu một tài sản lớn rải rác ở nhiều nơi. Nhà Hàng ở Vũng Tàu này chỉ là
hạng mục khiêm tốn trong mớ tài sản của nàng, mặc dù nó cũng đáng giá hàng chục
tỷ. Hay chuyện vợ chồng nàng du hí một đêm ở đảo biển Nha Trang một đêm hết
chừng vài ba ngàn USD. Nơi mà chỉ có công chúa Mô Na Cô hoặc hoàng tử nước Anh
mới tới vui thú tang bồng.
So với những tỷ phú khác, tài sản của nàng cũng chưa là gì. Sự
giàu có của họ thật không thể hình dung được. Không biết người ta làm cách nào
mà trở nên như vây ? Đến nỗi có người được coi là người giàu nhất nhì châu Á.
Thật không sao hiểu nổi ?
Cái đáng nói ở đây là từ một cô bé lọ lem, nàng trở thành tỷ phú.
Không hẳn nhờ chiếc vương miện hoa hậu ngày nào, hay sự may mắn qua việc buôn
bán bất động sản.
Cái khác biệt với các loại đai gia của nàng là từ kinh nghiệm,
bản lĩnh được tôi luyện qua những năm tháng cơ hàn.
Thiếu gì các hoa hậu gặp cảnh đa đoan khốn khó sau ánh hào quang
đạt được ban đầu?
Còn đặc lợi, đặc quyền trở nên giầu có thì chuyện có gì đáng nói
?
Rất may là gần đây nàng lưu tâm đến những người xung quanh, đối
xử với người ăn kẻ ở, gọi cho văn hoa là "Nhân viên" một cách chu đáo
và rất tình người. Không phải theo lối "phú quý sinh lễ nghĩa", mà là
thói quen chia sẻ của người nghèo để lại trong lòng nàng tự ngày thơ bé.
Một trong hai khía cạnh để tôi đề cập đến nàng, trong số những
người giàu có ở Vũng Tàu trong bài viết này.
** Gặp những người nghèo trong đêm..
Một buổi tối, lỡ cuộc giao lưu với anh chị em văn nghệ Bà Rịa
theo lịch hẹn trước vì ông chủ tịch hội tỉnh này bận đột xuất, hình như đi viếng
đám ma, hay hội họp gì đó tôi không nhớ.
Buồn tình chẳng biết đi
đâu. Mấy anh em bảo nhau : " Có lẽ các vị ở đây luôn bị làm phiền bởi các
cuộc tiếp xúc bất đắc dĩ như thế này, nên từ chối khéo.
Nói gì thì nói, văn nghệ gặp nhau chả lẽ chỉ uống nước lọc ? Phải
có tý rượu, tý bia vào, chuyện trò nó mới rôm rả, thơ đọc nó mới hay.. Mỗi
tháng có một hai đoàn đến nhà sáng tác, nếu phải tiếp cả, quỹ đâu cho xuể ? Lại
không phải khách Víp, chuyện tiếp đón phải là chỗ thân tình.
Chúng tôi từ ngoài bắc vào, lại không có ai quen, người trong này
họ sống thẳng tính, không khách sáo, màu mè nếu không quen thân, người ta cũng
không vồ vập.
Thôi thì tuỳ nghi, việc ai nấy làm. Mà viết lách không như các
việc khác, cố không thể được. Không có cảm xúc chỉ viết được những dòng ngơ
ngác, không hồn không vía.
Tôi định ngủ một giấc sau nhiều đêm ít ngủ cho lại sức thì ông
N.H rủ đi chơi. Tôi hỏi đi đâu bây giờ ? Ông bảo ra ngoài bãi biển. Sao lại ra
ngoài bãi biển giờ này ? Ngoài ấy về đêm rất vắng. Có ai tắm biển vào giờ này
đâu ? Mặc dù đã được thông báo : "An ninh ở đây rất tốt, Vũng Tàu không
như các nơi khác." Nhưng đêm hôm ra nơi vắng vẻ cũng không nên.
Các nhà thơ thường hay nổi hứng đột ngột như vậy, mình không đi
sợ ông ấy buồn lòng, nên tôi bằng lòng.
Lúc đầu ông rủ tôi vào nhà hàng của người đẹp như đã nói ở phần
trên, ông bảo : " Tớ với cậu vào đây matsa một cái thử xem thế nào ? Mấy
hôm nay ngồi xe nhiều mình đau ê ẩm cả người. Tôi không thú lắm chuyện này vì
nó dễ sinh hư, rất dễ mắc nghiện và mất thì giờ, nhưng có hai người đi với nhau
nên phải chiều lòng. Vừa lúc có hai thanh niên ăn mặc bảnh bao từ phòng lễ tân
bước ra ngoài. Nhà thơ hỏi nhỏ họ về giá cả, họ nói : " Nếu chỉ mát sa
không thôi giá cũng rẻ, chỉ hai trăm ngàn đồng. Còn nếu có công đoạn khác thì
tuỳ theo. Năm trăm hay một triệu cũng có" . Nhà thơ ghé tai tôi : "
Anh em mình chỉ mát sa thôi, không cần những cái khác !" Thì ra bây giờ ở
đâu cũng vậy, tuy không có quảng cáo hay lời mời chính thức, các dịch vụ mát mẻ
ở đâu cũng thế cả. Tuy không phải chuyện công khai, nhưng cũng không có gì gọi
là bí mật cả. Người ta có thể hỏi, hoặc mặc cả không cần nói bóng gió, dấu
diếm.
Hai anh em vào quầy mua vé. Tôi mua cho ông một vé, còn mình ngồi
ngoài chờ. Chủ bụng để có cơ hội quan sát quang cảnh ở nơi này như thế nào. Tôi
đang quay dở một đoạn phim để làm tư liệu thì có một thanh niên mặc trang phục
bảo vệ đến nhã nhặn : " Anh Hai thông cảm, yêu cầu anh Hai đóng máy. Quy
định ở đây là vậy". Tôi đành tắt Camera, lên cầu vượt sang phía bên kia
đường. Cứ ngồi đây chờ nom nó cũng kỳ.
Ra đến đường thấy có năm ba người đang lục cục làm cái gì đó.
Nhìn kỹ thì ra đây là tốp công nhân công ty môi trường đang làm việc về đêm. Cả
tốp có mấy cô gái trẻ đang trêu tròng một người đàn ông dáng thấp bé, nói tiếng
Quảng hơi khó nghe. Họ rượt đuổi nhau vòng qua trước mặt tôi, chút nữa làm rơi
cái máy ảnh tôi đang cầm ở tay. Một cô đứng lại xin lỗi. Tôi nói "không
sao". Cô hỏi : " Bộ anh đi chơi có một mình thôi sao ?" Tôi nói
còn có một người bạn, ông ấy đang trong nhà hàng kia kìa. Mấy cô rúc rích cười
với nhau. Tôi biết họ có ý hiểu lầm, nhưng không thanh minh. Người đàn ông dáng
nhỏ con hỏi tôi có mang theo hộp quỵet cho xin chút lửa. Tôi đưa anh chiếc bật
lửa ga.
Tự dưng tôi nảy ra ý nghĩ muốn tìm hiểu đôi chút về họ, những
người đêm đêm lặng lẽ thu dọn rác rưởi của thành phố này. Một thành phố rất
nhiều hoa trên đường và rất sạch.
Chúng tôi ngồi trên một chiếc ghế đá kê trên vỉa hè. Anh là
trưởng nhóm nên không phải trực tiếp quýet dọn như những người khác, còn tôi
lại đang sẵn thời giờ trong khi chờ nhà thơ tầm quất chưa xong. Một lúc có một
phụ nữ đứng tuổi đến đưa anh chùm chìa khoá nói anh có về trước thì cầm về mở.
Anh giới thiệu đấy là bà xã của anh. Hai người thuê nhà trọ trong hẻm cách đây
chừng hơn cây số.
Không ngờ anh công nhân làm vệ sinh môi trường lại biết nhiều thứ
ngoại ngữ và am hiểu văn học nước ngoài nhiều đến thế. Sau khi hỏi tôi ở đâu
đến, làm gì, được tôi kể vắn tắt, anh nói: " Hiểu rồi" Và đọc cho tôi
nghe một bài thơ bằng tiếng Pháp của A Đờ Muýt sê. Tôi thật sự khâm phục khả
năng ngoại ngữ của anh. Hứng lên anh kể cho tôi nghe anh đã từng dịch nhiều tác
phẩm từ tiếng Anh, tiếng Pháp ra tiếng Việt. Nhưng trước đây việc biên tập và
xuất bản còn khó khăn, nên các bản thảo của anh chưa nơi nào nhận in.
Lâu nay anh hết cả hứng
thú, chả còn thích thú việc in ấn nữa. Với lại đời sống khó khăn, hai vợ
chồng gộp cả lại, lương tháng chỉ đủ
sinh hoạt và nuôi hai đứa con ăn học. Kể đến đây giọng anh trầm hẳn lại. Một
lúc sau anh kể cho tôi nghe anh từng làm nghề đánh cá trên biển. Từ ngày tàu
gặp bão bị đắm, anh thoát chết nhờ được cứu sau bốn ngày đêm lênh đênh trên
biển, anh bỏ nghề vào đây. Hai vợ chồng làm đủ thứ nghề kiếm sống, mãi gần đây
nhờ có người bà con mới xin được chân công nhân môi trường.
Một đống chữ nghĩa, tiếng tây, tiếng ta, rút cục cũng chẳng dùng
vào việc gì. Người ta tuyển hướng dẫn viên du lịch biết ngoại ngữ, nhưng phải
trẻ, có ngoại hình hấp dẫn, mà mấy thứ đó anh đâu còn và có nữa ?
Nguyện vọng của anh là làm sao có được căn nhà, làm chỗ trú thân,
nhỏ cũng được miễn là của mình để khỏi phải chịu cảnh thuê nhà rất khó khăn ở
thành phố này. Nơi mà nhu cầu thuê phòng cao, nên giá cả rất đắt. Tiền thuê nhà
chiếm gần phần ba số thu nhập của hai vợ chồng.
Làm tới đâu ăn tới đó, nguyện vọng này của anh biết bao giờ mới
thành hiện thực ?
Tôi chẳng biết nói sao, chỉ ngồi im nghe anh kể. Coi đó như là
cách chia sẻ.
Nói những lời an ủi, vỗ về giả tạo vào lúc này thật không nên..
Tốp công nhân quýet dọn một hồi đã xong quãng đường gần chỗ chúng
tôi đang ngồi. Anh Ba Bé, tên của người đang nói chuyện với tôi có chuông điện
thoại. Anh bảo :
" Đồng bọn giục chuyển sang làm chỗ khác, khi nào có điều
kiện ghé chỗ tôi chơi nha" Nói rồi rút bút ra, dưới ánh đèn đường ghi cho
tôi số nhà của anh.
Mấy ngày sau nhân việc đi tìm một quán nét, ngang qua khu nhà anh
ở tôi mới ghé vào thăm. Đấy là dãy nhà xây dành riêng cho người có thu nhập
thấp thuê đồng loạt giống nhau một kiểu, rộng chừng hơn chục m2. Tôi không hình
dung nổi nhà anh bốn con người sinh sống thế nào trong căn nhà quá chật chội
này. Như đọc được ý nghĩ của tôi, anh đi lại bên tường . Trên bức tường là
những mảnh ván ghép lại thành giường giã chiến có bản lề và móc gá vào bờ
tường. Chỉ cần mở cái móc bằng sắt ở hai đầu, thả tấm ván xuống là tấm ván ghép
thành giường nằm. Đúng là cách sáng tạo của người nghèo. Với hai tấm ván treo ở
hai bên như thế, ban đêm có hai cái giường nữa cách giường bên dưới một tầm
người có thể ngồi được. Đồ đạc trong phòng hầu như không có gì. Một cái tủ bằng
gỗ tạp dính dầu lem nhem. Một cái ti vi đen trắng đã cũ. Những thứ đó anh bảo
có một người nào đó nhờ anh dọn nhà, họ cần vất đi cho gọn, anh thấy còn dùng
tạm được đem về sài đỡ.
Duy nhất có một thứ sang trọng anh lấy từ trong tủ đưa tôi xem.
Đó là tập anbum chữ mạ vàng. Trong ảnh anh là chàng thanh niên rất bảnh, tuy
hơi nhỏ con nhưng ăn mặc lịch sự. Anh kể thời chế dộ cũ anh là sinh viên trường
Luật. Sau đó người ta tuyển anh theo một lớp huấn luyện đặc biệt, chuẩn bị cho
thời sau hậu chiến. Đang theo học dở dang, anh bị cho thôi học vì bên an ninh
nghi ngờ anh là là người của Việt Cộng cài vào..Trở lại trường học tiếp cũng đã
lỡ, anh tìm về quê xứ Quảng. Ít lâu sau đó là đến ngày giải phóng.. Con người
anh không cập bề nào. Chế độ cũ nghi ngại, chế độ mới cũng không thu nạp.
"Không phải đi cải tạo đã là may rồi", anh cười méo mó nói với tôi
như vậy. Ôi là nụ cười của người bất hạnh, không thời nào gặp điều may mắn.
Quê tôi ngày trước mẹ tôi kể : Có ông, thời nào cũng khổ. Thời
pháp, Nhật nghi là Việt Minh, thời Việt Minh ngờ là "Lô bê, gián
đệp", chỉ vì bản tính khí khái, nói năng ít chịu giữ gìn. Buồn thay là
những phận người kém may mắn ! Người như anh Ba Bé đây tôi nghĩ là có năng lực,
ít nhất khả năng thông thạo nhiều ngoại ngữ, có học vấn. Không lẽ chẳng đáng
dùng vào việc gì sao ?
Ngồi chơi một lúc thấy hai cô con gái của anh về. Hai chị em xấp
xỉ tuổi nhau, cỡ mười bốn mười lăm tuổi. Cả hai nhân ngày nghỉ cuối tuần ra bãi
biển bán hàng. Mỗi chị em một chiếc xe đạp cũ. Cô chị bán nón cói, cô em bán
thuốc lá và nước lọc dọc trên lối đi ven biển. Hàng họ lơ vơ vài thứ xếp trên
chiếc làn sắt treo phía trước xe. Cả vốn lẫn lãi chắc không quá trăm ngàn đồng.
Tôi không dám hỏi các cháu mỗi ngày bán được bao nhiêu tiền. Nhìn đã biết, hỏi
một câu như vậy làm gì ?
Có một tập bản thảo đã ố vàng anh đưa tôi. Đó là tập truyện ngắn
anh viết đã lâu và chưa từng công bố. Anh bảo tôi mang về đọc chơi, với anh
duyên nợ đã hết, thơ phú nữa mà làm gì ?
Tập bản thảo ấy theo tôi ra bắc, tôi cũng chưa biết dùng nó như
thế nào ? Và rồi liệu số phận của nó sẽ ra sao ?
Đêm ấy tôi trở về chỗ ở thao thức mãi không ngủ được. Biết bao
nhiêu phận người khuất lấp sau những biến động của thời cuộc, sau những rủi ro
lẽ ra không đáng có ?
Liệu mình có làm được gì chia sẻ với họ không hay cũng chỉ biết
than thở, vô tích
sự ?
Những người vừa lạ vừa quen..
Có một phòng trống, không có tường ngăn cách, ăn thông với dãy
hành lanh của khu nhà chúng tôi ở, liền kề với chân cầu thang máy. Một gian
phòng đa giác được che chắn bằng lớp kính mờ. Dọc chân tường chạy dài suốt hành
lang của ngôi nhà và trong phòng này chỉ kê mấy cái tủ kính. Bên trong các tầng
của các tủ này người ta bày các ấn phẩm mới của các tác giả vừa tặng làm lưu
niệm. Trên tường là những bức tranh, khung lồng ảnh của các lớp sáng tác của đủ
chuyên nghành văn học nghệ thuật. Phòng không kê bất cứ một chiếc bàn nào, chỉ
có những chiếc ghế salon giả cổ làm bằng gỗ quý kê liền nhau dọc theo lối đi.
Nơi này làm nơi dừng chân cho khách mới đến, trong lúc chờ đợi làm thủ tục vào,
hoặc ra khỏi đây.
Ngày thường chỗ này luôn vắng vẻ, thỉnh thoảng mới có một hai
người ngó nghiêng xem xét hoặc ngồi hút thuốc vặt, rù rì tán gẫu với nhau.
Sắp kết thúc đợt sáng tác của hội mỹ thuật Việt Nam cho khoảng hơn chục hoạ sĩ, nên
trên dãy ghế thường ngày bây giờ đang dùng để kê những bức tranh làm một cuộc
triển lãm nhỏ có tính chất nội bộ.
Các hoạ sĩ này được triệu tập từ nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Có bức họ mang đi từ ở nhà, có bức tới đây mới dựng giá vẽ. Tôi đang mê mải
"Đọc" tranh của họ, để xem các hoạ sĩ bằng ngôn ngữ hình tượng của
mình thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình như thế nào về cuộc sống ngày nay.
Đang lúc chú ý tới ba bức của một nữ hoạ sĩ kê liền nhau vẽ theo trường phái
trừu tượng, lối vẽ mà nếu lười suy nghĩ người ta sẽ không hiểu hoạ sĩ vẽ gì,
thì có điện thoại bảo tôi về phòng ngay, có việc quan trọng. Lâu lắm rồi mình
đã không còn quan trọng cái gì nữa, có việc gì quan trọng đối với mình đây ?
Nghĩ vậy, nhưng tôi vẫn rời mấy bức tranh mà mình có cảm tình để vào thang máy,
lên phòng.
Một người bạn cùng đoàn báo cho tôi biết có một tay thợ ảnh lão
luyện, hội viên hội nghệ sĩ nhiếp ảnh VN, đang ở chỗ ông P.N. Nếu cần sửa chữa
máy ảnh, ông ấy sẽ giúp cho.
Tưởng ai, hoá ra người này tôi biết từ lâu, nhưng ông ta không hề
nhận ra tôi.
Xin lỗi những nhà nhiếp ảnh chân chính, tôi không hề có gì xúc
phạm đến nghề nghiệp vinh dự và đạo đức của bất cứ nghề nghiệp nào. Nghề nào
cũng thế, đều có kẻ hay người dở. Người cao thượng và kẻ tâm địa đen tối, hẹp
hòi. Dù anh có làm nghề cạo ống khói, hay đi thông cống rãnh mà tâm hồn và tư
cách của anh đáng kính trọng tôi vẫn kính trọng.
Nói thế để mọi người thông cảm, tôi không có hàm ý gì, không
thành kiến với bất kỳ ai, hoặc nghề nào.
Sau màn chào hỏi thân mật và lịch sự lúc đầu, hai ngày sau quả
thực tôi buồn và thất vọng về cuộc gặp gỡ này.
Không phải vì chuyện mất một món tiền nhỏ, chỉ vài trăm thôi, mà
là mất lòng tin vào một con người. Một ngưòi đã có lúc tôi nghĩ tốt về ông ta
vì một vài việc cách nay cả chục năm rồi..
Hồi ấy tôi thỉnh thoảng
nhờ ông tráng cuộn phim hoặc in một số ảnh. Tất nhiên với tư cách là khách
hàng. Vì thế chúng tôi quen nhau.
Ông đang là phóng viên của một tờ báo địa phương, luôn có cái vẻ
bề ngoài bặt thiệp, lịch lãm, tỏ ra hiểu biết nhiều mặt cuộc sống, vốn đang rất
phức tạp hồi đó.
Có cả một câu chuyện về ông làm xôn xao dư luận một thời. Không
hiểu ông đã làm một việc gì đấy làm mất lòng lãnh đạo. Người ta đòi kiểm điểm
ông, nhưng ông không chịu.
Ở nhà, ông có mở thêm hiệu ảnh để vợ con làm thêm. Một hôm người
ta thấy trước nhà ông có rất đông người.
Người ta đang lục soát trong nhà ông rất kỹ lưỡng. Những người chứng kiến đoán
già đoán non, người bảo có thể trong nhà chứa ma tuý, hay tài liệu gì đó ?
Gần hết buổi sáng, người
ta tìm thấy trong cửa hàng của ông hai cuộn phim, toàn chụp ảnh khoả thân của
những cô gái trẻ. Khi lập biên bản ông nhất quyết không nhận của mình, ông khai
có kẻ nào đó ác ý, đã vất vào nhà ông với ý đồ thâm độc. Nhà chức trách bao giờ
cũng trọng chứng hơn trọng cung, người ta không để ý đến cách giải thích của
ông là người ta có lý của người ta.
Nên nhớ là những năm tháng ấy, chụp ảnh khoả thân là một tội
trọng, Nó "Làm suy đồi đạo đức xã hội, tuyên truyền văn hoá phầm đồi truỵ
làm băng hoại văn minh CNXH"!
Ông bị giữ một thời gian.
Ra trại được ít lâu, ông bán nhà cửa, cùng vợ con đi biệt tích.
Trong những chuyện khi trà dư tửu hậu, chúng tôi thường có lúc
nhắc đến câu chuyện này như là bài học để tự răn mình.
Chốn công đường khi nào cũng cần có sự tôn nghiêm, có trên có
dưới, lộn xộn chỉ có nước chết.
Phận cái anh phóng viên tỉnh lẻ có là cái thá gì mà dám cả gan tò
mò chuyện sinh hoạt đời tư của sếp ? Lại còn mang cái sở đoản, nghề ngỗng của
mình dùng làm bằng chứng để mặc cả với xếp vì mong muốn được cất nhắc ?
Có khác nào châu chấu đá xe ? Ngu thì chết, ai bảo dại ?
Mãi sau này mới có tin đồn ông ta đang ở Vũng Tàu. Cái nghề khiến
ông khuynh gia bại sản, vào đến trong này lại hoá ra hữu ích.
Ông trở nên giàu có mau chóng nhờ cung cách khoáng đạt của người
phương nam và nhu cầu chụp ảnh ở khu du lịch.
Tình cờ thế nào tôi lại gặp ông ở đây, vào lúc cái máy của tôi do
bị ẩm, đang trục trặc không sao chụp được nữa ?
Đúng là buồn ngủ gặp chiếu manh. Mất gần buổi sáng đi tìm không
thấy chỗ nào có thợ sửa máy, giờ gặp được, lại là người quen, ai không mừng ?..
Tôi vốn không định kể câu chuyện này, vì nó nhỏ nhặt và chỉ mang
tính chất riêng tư.
Chuyện riêng của cá nhân mình thì nói làm gì chứ ? Nhưng một khi
chuyện riêng liên quan đến nhiều người, lại có tính phổ biến, dễ gây hại cho
người khác thì cũng đáng nói, nhất là về mặt tình cảm. Tuy giá trị vật chất
không đáng gì, nhưng nó làm ta mất lòng tin vào cuộc sống, làm ta thêm một chút
buồn phiền giữa cuộc sống vốn ít niềm vui và quá nhiều nỗi buồn phiền.
Niềm tin yêu con người không có gì sai. Thử hình dung nếu ta luôn
phải sống trong nỗi khắc khoải của nghi kỵ, cuộc sống của ta sẽ như thế nào ?
Nhưng lòng tin cậy đặt không đúng chỗ sẽ trở thành tai hoạ. Rất may câu chuyện
của tôi chỉ là một việc cỏn con. Cái đáng nói là cách nhìn nhận và đánh giá con
người của mình chưa hoàn hảo.
Cả đoàn có tới gần chục cái máy ảnh. Của ai nấy dùng theo ý mình,
khác các chuyến đi trước. Vào đến Vũng Tàu có đến bốn năm cái bị hỏng, không
chụp được. Nguyên nhân là do bị ẩm ướt dọc đường. Mấy ngày trời trên chặng
đường thiên lý giữa mùa bão lũ, chuyện ấy rất bình thường. Chỉ cần có cái máy
sấy, sì khô là OK liền. Phần đông anh em chúng tôi không phải dân chuyên nghiệp
về ảnh. Hỏng rất đơn giản mà không chữa được. Đến khi hiểu ra nên làm thế nào
thì máy đã gưỉ ông người đồng hương quý hoá kia rồi. Anh nào lúc ấy đi vắng,
không kịp gửi lại hoá may. Chỉ cần ra hiệu sấy tóc nhờ cô nhân viên cho mượn
máy sấy vài phút là máy hết bệnh.
Mấy người chúng tôi gửi ông nghệ sĩ nọ đành dài cổ ra mà chờ. Nhà
ông ta lại xa chỗ chúng tôi ở. Gọi điện đến ông bảo máy của người này chết con
IC, của người kia hỏng con chíp.. Sửa xong ông ta sẽ mang tận nơi không phải đi
cho tốn tiền xe ôm. Lần lữa mãi, ông ta cứ hẹn mà không mang máy trả. Mấy
chuyến thăm viếng chỗ nọ chỗ kia mà không có phương tiện để ghi lại hình ảnh
làm tư liệu. Thì ra ông ta ngại mang đến trước đông đủ mọi người, chuyện tiền
nong khó nói. Gần đến ngày về, tôi phải thuê xe ôm thân chinh đi lấy về.
Đã nhờ bạn bè sửa giúp, ai còn hỏi giá cả sửa chữa như thế nào ?
Tiền thì dù có bao nhiêu tiêu cũng hết. Ông ta nói bao nhiêu thì mình trả bấy
nhiêu.
Cái đáng buồn nhất là khi đến nhà lại được ông ta thao thao bất
tuyệt, chuyện trên trời dưới đất. Tôi hiểu ngay là ông đang muốn thể hiện cái
phông kiến thức và mức văn hoá cao của mình. Chán chê rồi mới đứng lên lấy máy
đưa trả. Nếu đó là kiến thức đáng để quan tâm học tập đã đành. Người ta học
bạn, học thầy bao nhiêu cũng không thể coi là đủ. Nhưng đây là mớ hổ lốn, đầu
Ngô, mình Sở, chắp vá không thể chấp nhận được.
Người ta bảo "đi ngày đàng, gặp người làng thì sáng mắt
ra". thật là chí lý.
Một người ăn mặc sang trọng, nhà cửa cơ ngơi không đến nỗi nào,
gọi là tỷ phú ở đất này, mà lại cư xử với người quen, người đồng hương như thế sau
bao nhiêu năm mới gặp, thì quả là việc lạ lùng.
Nếu mình không trải qua, chỉ nghe người khác kể chắc chắn tôi sẽ
không tin. Dù cho cuộc sống có bị chi phối bởi lối sống đề cao vật chất, đề cao
đồng tiền thế nào đi nữa, tôi sẽ không tin có thể có chuyện này. Ngay cả những
người nghèo khó, rất cần tiền người ta cũng không xử với nhau như thế. Thật là
một chuyện lừa bịp trắng trợn chỉ vì một mục đích nhỏ mọn ở mức một người có
trí tuệ không đáng và không bao giờ làm.
Tôi không kể chuyện này với ai, không hiểu sao mọi người trong
đoàn lại biết. Mỗi lúc có ai nhắc đến tôi lại thấy mắc cỡ, chỉ muốn chui xuống
đất.
Tưởng là ra ngoài đời bấy lâu đã đủ dày dặn, ai dè vẫn còn bé cái
nhầm.
Dẫu sao cũng biết thêm về một con người. Một người đã có lúc mình
từng đã cảm thông vì anh ta phải chịu chuyện oan sai, bị đối xử vô lý..
Cuộc đời vẫn đẹp..
Có một câu chuyện tôi định kể ngay từ đầu phóng sự này, nhưng lại
để đến bây giờ mới kể. Thứ nhất là sợ chồng chất nhiều sự kiện, nhiều tình tiết
sẽ che mất phần đáng lưu tâm của nó. Thứ hai là muốn để lại sau cùng như kiểu
người Tàu dọn các món ăn. Thường món ngon, món đắt tiền nhất sẽ mang ra sau
cùng.
Bạn đọc phần đầu của phóng sự này, có thể bạn sẽ cho tôi là người
theo chủ nghĩa bi quan, luôn nhìn đời bằng ánh mắt ảm đạm và chán nản. Kỳ thực
không phải thế. Tôi chỉ muốn mình thật khách quan, trung thực và tỉnh táo,
không để cảm xúc nhất thời đánh lừa mình. Chính vì vậy sau bao nhiêu ngày kết
thúc chuyến công du, tôi mới viết lại câu chuyện này. Có thể có chỗ nó hơi lan
man, nhưng đều có trọng tâm của nó. Mà trọng tâm của nó là cái gì, nếu bạn chịu
khó mất thời giờ đọc nó bạn sẽ hiểu. Tôi cũng không muốn kéo dài thêm nữa, làm
mất thì giờ chung vô cùng quý giá của chúng ta. Chỉ xin kể thêm câu chuyện nhất
thiết không thể bỏ qua này :
Ngay từ đầu chuyến đi tôi đã có dự định nhất quyết phải tìm cách
tới thăm một người. Anh ở Sài Gòn cách Vũng Tàu chừng trăm rưởi cây số. Nếu chủ
động được phương tiện thì chuyến đi này rất đơn giản. Nhưng tôi lại đi chung
với đoàn, mọi sinh hoạt, đi lại phải theo quy định chung, không thể tuỳ tiện
theo ý mình.
Dọc đường đi, ông trưởng đoàn có việc riêng đỗ ở thành Phố Quy
Nhơn. Anh em vào trước đành nghỉ ngơi chờ ông vào làm thủ tục với nhà sáng tác.
Rồi lại lễ khai mạc, một thủ tục bất di bất dịch không thể bỏ qua.
Chương trình dự kiến thì nhiều, nào lên Tây Nguyên, ra Côn Đảo,
làng đảo Long Sơn.. Nhưng thú vị nhất là chuyến thăm Sài Gòn mà người ta cứ gọi
dài dòng thêm là Thành Phố Hồ Chí Minh. Dự kiến chuyến thăm này sẽ gói trọn
trong một ngày. Đoàn sẽ thăm dinh Độc Lập, bây giờ gọi là dinh Thống Nhất. Sau
đó xe sẽ chờ một chỗ, tuỳ nghi, ai nuốn đi đâu thì đi, năm giờ chiều tập trung
lại để về Vũng Tàu.
Với tôi dinh Độc lập không có ý nghĩa gì cả. Tôi không có ý muốn
của người thợ săn, sau khi hạ gục con mồi rồi lại tò mò muốn xem hang ổ của nó
ra sao. Vả lại chỗ này tôi cũng đã biết vài ba lượt rồi. Thăm thêm nữa phỏng có
ích gì ?
Sáng sớm hôm đi Sài Gòn, chúng tôi dậy từ sớm theo chủ trương của
đoàn muốn dành nhiều thời gian lưu lại ở Sài Gòn, hơn nữa con đường từ Vũng Tàu
vào thành phố đang sửa chữa, qua nó mất nhiều thời giờ. Ai cũng muốn tranh thủ
chuyến đi thăm gặp bà con, bè bạn của mình. Bữa ăn sáng hôm đó mọi người nhất
trí dùng bữa theo kiểu dã chiến, dùng
bánh mỳ ba tê vừa đi, vừa ăn để tiết kiệm thờ gian. Đồ uống đã có sẵn một thùng
nước suối Hảo Hảo. Anh nào thích thì chuẩn bị thêm nước yến hoặc sâm , tuỳ ý.
Tôi cũng có người anh con
ông bác ruột ngày trước dạy đại học sư phạm ở đây. Nhưng từ hai năm nay anh đã
cùng vợ con sang định cư ở Ốtrxây lia. Một số bạn bè quen từ ngày trước, bao
phen vật đổi sao dời, đã lâu mình không trở lại, không biết họ đã tứ tán đi đâu
? Tìm họ ở thành phố này có khác gì tìm chim trong rừng ?
Chỉ còn anh và một người nữa là tôi còn giữ được liên lạc. Người
này là nhà văn P. Đ.N, hiện đang cư trú tại Sài Gòn. Năm ngoái anh có việc ra
Hà Nội đã cùng Vũ Xuân Tửu lên chơi với tôi. Trong cuốn sách gưỉ tặng còn có số
máy lưu động, nhờ thế liên lạc với anh không khó.
Đến đây có thể nhiều bạn trong cộng đồng blog đã đoán được ai
rồi.
Nhạc sĩ Minh Thu là bạn chung của nhiều người trong số chúng ta.
Năm ngoái anh ra Hà Nội thăm người nhà, rồi lên Tuyên Quang và
ghé thăm tôi. Tôi thật không ngờ lại có dịp gặp anh ngoài đời. Một tri kỷ, qua
lại với nhau thường xuyên hàng năm trời trong thế giới ảo. Nơi mà người ta thường
nghĩ là xa xôi, diệu vợi lắm. Nhất là lại kẻ bắc người nam, bao giờ mới có cơ
hội gặp nhau ?
**
Tôi dự định kỳ này sẽ nhờ anh đưa tới gặp Cung Trầm, nữ hoạ sĩ đã
giúp tôi vẽ bìa cuốn sách đã xuất bản năm vừa rồi của mình và một người nữa vì
lý do tế nhị tôi không tiện nêu tên. Người này đối với tôi rất quan trọng về
mặt tình cảm vì những gì "Người ấy" đã dành cho mình.
Nhưng cả hai dự định ấy đều không thành. Nữ hoạ sĩ đang có cuộc
triển lãm tranh ở nước ngoài, còn "Người ấy" đang bận công chuyện hẹn
gặp tôi vào buổi khác. Thời gian lưu lại thành phố thì có hạn, tôi không thể
nấn ná ở lại lâu hơn. Tôi tính sẽ ở lại với anh một đêm, nên ngay sau lúc ghé
thăm nhà anh ít phút, tôi đề nghị anh lên miền Đông với tôi một chuyến. Anh có
ý mời tôi ở lại, cơm nước nghỉ ngơi từ từ hãy đi. Nhưng bản tính tôi là người
hiếu động, không ngồi yên ở đâu lâu một chỗ, nằn nì anh đi luôn.
Con đường lên miền Đông mở ra trước mắt tôi rất khác những gì tôi
từng biết và hình dung về nó. Bây giờ nó đã là con đường xuyên Á, hai làn đường
rộng chạy tuốt đi Lộc Ninh. Không còn có thể nhận ra những vườn cây Trái xum
xuê khi qua Lái Thiêu ngày nào. Những bức tường dựng bằng chum vại hỏng của
những lò gốm dọc đường Bình Dương bây giờ cũng không còn dấu vết. Thay vào đó
là những cửa hàng, cửa hiệu, những cao ốc, khu công nghiệp san sát nối dài.
Thành phố Sài Gòn mang một khuôn mặt khác hẳn. Không phải chỉ
thêm vài quận mới, mà người cũng đông hơn, náo nhiệt và hỗn độn hơn, nhiều khu
dân cư có nguy cơ bị ngập nước nhiều hơn. Có một không khí xô bồ, chen lấn và
cảm giác bất an len vào tâm trí người đi trên đường. Hình như đó cũng là diện
mạo chung của các thành phố ở Việt Nam . Nét mặt con người có vẻ lầm
lũi, âu lo căng thẳng khác thường. Điều đó thật mâu thuẫn với cảnh quan có thể
nói là phát triển mạnh về cơ sở vật chất đang hiện có. Sài Gòn pha tạp tính
cách, tập quán của nhiều sắc dân từ các nơi đổ về. Có phải vì thế mà bầu không
khí cộng đồng như có gì thay đổi. Theo chiều hướng nào thì ngay lúc này tôi
chưa thể nhận ra.
Người đi trên đường không ai để ý tới ai, có việc tiếp xúc gần
như gượng gạo bắt buộc. Đâu rồi một Sài Gòn thân ái cởi mở, chân tình như tôi
đã từng thấy ngày nào ?
Phát triển đô thị thiếu cân bằng giữa cơ sở vật chất và đời sống
văn hoá, tinh thần là một lỗi hệ thộng dễ nảy sinh những hậu quả tai hại. Cờ
biểu ngữ rất nhiều dọc trên mọi con phố, nhưng con người có vẻ như ít gần gụi
và thông cảm với nhau hơn. Người ta dễ dàng cãi nhau, văng tục dễ dàng. Có phải
đó là sự lúng túng của cuộc sống công nghệ chi phối chưa thích nghi được ? Hay
những biến động về môi trường, khủng hoảng đạo đức, sự lỏng lẻo, hoài nghi của
các quan hệ xã hội ?
Tôi vừa chạy xe vừa cố gắng tự cắt nghĩa và giải thích cho mình
những điều mình vừa cảm nhận được, nhưng chịu không tìm ra lời giải. Thỉnh
thoảng anh Minh Thu lại phải nhắc tôi chạy xe giữ gìn tốc độ, tuy nhiên chưa
xảy ra sự cố nào. Tôi có cái tật chạy xe trên đường thường mắc lỗi chạy nhanh.
Nhiều lần bị bắn tốc độ mà chưa bỏ được thói quen xấu này. Rất may cảnh sát ở
phía nam này không như ngoài bắc. Không có nhiều "Anh hùng núp" để
hành người đi đường. Có thể phong cách sống cởi mở, bao dung của xứ sở này
nhiều ít đã tác động đến thực thi công vụ của các anh ấy chăng ?
Sau mười năm không gặp, thành phố Sài Gòn đã như thành phố khác, tôi
hoàn toàn xa lạ, không còn nhận ra dấu vết ngày nào. Thật dễ hiểu là tại sao
ngay những người con của thành phố này sau nhiều năm xa cách về lại nhà mình
phải hỏi thăm đường .
Nếu không có anh Minh Thu đi cùng chắc chắn tôi sẽ bị lạc đường
và phải hỏi thăm như chưa từng tới đây bao giờ.
Không phải ngẫu nhiên mà tôi muốn tìm về miền đông. Nơi tôi lấy
làm bối cảnh câu chuyện của mình để viết sách đã đành, cái quan trọng hơn là
nơi tôi đã từng sống. Mảnh đất ấy đã từng bao bọc, cưu mang tôi những tháng ngày
lận đận. Không có những bạn bè, người quen nơi ấy không biết lúc này số phận
tôi sẽ ra sao ?
Với thời gian ít ỏi của mình liệu tôi có gặp được những bạn bè
một thủa, những ân nhân của mình thời lưu lạc xưa không ?
** Cuối cùng chúng tôi cũng đến được nơi định đến sau chặng đường
dài vất vả, sau mấy lượt hỏi thăm đường. Cả việc lạc một quãng dài chỗ đường
13& 14 giao nhau. Quãng đường thời chiến tranh máu đổ khá nhiều ở cả hai
phía, một thời hai bên đường chỉ là những bãi đất trống, chỉ có cỏ tranh cỏ Mỹ
mọc ngút ngàn. Bây giờ những chỗ ấy đã thành vườn cao su xanh ngát. Ghé nghỉ ở
một quán nhỏ bên đường, hỏi chuyện được chị chủ quán cho hay : Ở đây, có chủ
vườn mỗi ngày thu lời từ mủ cao su mỗi ngày từ 15 đến 20 triệu đồng. Một mức
thu nhập khá cao so với ngành nông lâm cả nước. Mô hình quốc doanh ngày nào đã
có sự thay đổi, biến tướng.. Thực chất bây giờ là những đồn điền cao su, những
ông chủ mới, người công nhân cạo mủ vẫn còn rất chật vật không khác ngày trước
bao nhiêu. Dưới những tán rừng cao su xanh thẫm vẫn còn những túp lều tồi tàn,
lợp tôn, vách cỏ nhếch nhác. Vẫn những con người đen đủi, lầm lũi đi giữa hàng
cao su âm thầm như những cái bóng.
Thị trấn Phú Giáo nhà cửa mọc lên nhiều, con đường đất đỏ ngày
nào giờ đã tráng nhựa chạy về các thôn ấp phía xa. Tôi tự hỏi : Ở những nơi ấy cuộc
sống có được bộ mặt trù phú như ở đây
không ? Hay chỉ được cái mặt tiền dọc
theo con đường quốc lộ ?
Dân sống ở ven đường, giá đất lên cao, người ta xây dựng nhà cửa
bằng chính tiền bán đất vườn của mình. Mấy ai nhờ làm ăn, kinh doanh mà có ?
Cảnh cũ, người xưa chẳng còn được mấy người. Người thân thiết có
người đã chuyển đi nơi khác, người ốm đau chết bệnh, không còn có mặt trên đời.
Người bây giờ không biết
mình là ai. Còn mỗi ông thợ rèn là chào mời đon đả, hỏi thăm người nọ, người
kia mà chính tôi cũng không biết họ đang trôi dạt phương nào ?
Ở Mô Đất, bên dưới khu Nước Vàng ngày xưa có xóm người Huế. Có
ông tên là Mang, lạ lùng với cách tu tại gia. Ngày tôi ra bắc, ông đang gấp rút
xây cất nhà cửa xong xuôi đâu đó giao lại cho vợ con để mình xuất gia. Một
người đang làm ăn được, có vườn tiêu, vườn điều xum xuê, có cả cửa hàng bán tạp
hoá thu nhập rất khá. Bà vợ còn khá trẻ, đẹp khuê các, mấy đứa con ngoan. Ấy mà
dứt áo ra đi ! Tiền họ không thiếu, so với xung quanh, gia cảnh khá hơn nhiều
người. Tôi đã từng đàm đạo với ông, con người có học vấn cao và rất kín đáo.
Mãi sau này tôi mới hiểu, lý do ông từ bỏ gia đình, chọn cuộc sống của người tu
hành. Tìm về bản thể, chốn bình yên trong tâm hồn. Những giá trị người thường
không có nhu cầu và không khao khát.
Vợ chồng ông bác sĩ già đã chuyển đi nơi khác, ông đã mất, hai cô
con gái đã đi lấy chồng. Ông cũng là nhân vật tiểu thuyết, từ bỏ quyền bính,
nhà cửa ngoài thành phố, mất luôn tình cảm với người cha đẻ làm đến cấp tướng,
về ở ẩn cùng ấp với mấy người Miên, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, hoặc
chỉ lấy công với tính chất tượng trưng. Chỉ cần lòng nhân ái và cuộc sống tự
do.
Còn cô Huê, sáng sáng cất
đôi quang gánh bán chè Huế, bánh bông lan và một vài người nữa..
Tôi không được gặp lại chiếc xe hai bò kéo đôi lần nào nữa. Những
chiếc xe đó bây giờ người ta mang về thành phố, bán cho những nhà hàng, làm vật
trang trí như để gợi nhớ về một chốn đồng quê..
Tôi có cảm giác mình đã mất đi rất nhiều. Những bóng dáng, những
thời gian không thể nào tìm lại được.
Cuộc đời ngắn ngủi, sao người ta cứ chịu mất nhiều thứ thiêng
liêng đến thế ?
Mình bỗng thành khách lạ với nơi mình đã từng gắn bó một thời. Mặc
cảm ân hận, nỗi buồn choán hết tâm trạng khiến tôi không dám ở lại lâu. Hai anh
em lại quay xe về thành phố.
Cũng may buổi tối hôm đó anh Minh Thu có cuộc gặp với bạn của
anh. Câu chuyện vui, khiến tôi khuây khoả phần nào. Mấy anh em đi ăn, rồi về
nhà anh nghỉ.
Sau cả quãng đường dài mệt mỏi, không còn sức lực để đi đâu nữa.
Hai anh em ngồi chuyện với nhau trên căn gác nhỏ. Bên ngoài là Sài Gòn nhộn nhịp trong đêm với
ánh đèn muôn màu và thế nhân lo toan đủ kiểu. Tôi đề nghị anh cho nghe những
sáng tác mới gần đây, những bản nhạc mang phong cách rất Minh Thu, sâu lắng, ân
tình và khắc khoải. Nó khác hẳn với âm nhạc náo loạn, xô bồ, ầm ĩ, và vô vị như
hàng ngày chúng ta phải nghe một cách ngẫu nhiên, bắt buộc.
Anh tặng tôi một tập bản thảo khá dày dặn gồm cả thơ và nhạc. Con
người bề ngoài thì đôn hậu, hay cười mủm
mỉm, nhưng lại rất gân guốc trong từng sáng tác. Đọc anh người ta cảm nhận một
tính cách gay gắt, quyết đoán của người thích yêu ghét rõ ràng. Cả thơ và nhạc
biểu hiện lòng khao khát tự do, sự công bằng và lòng nhân, ghét cường quyền, sống
và chết cho cái đẹp, cái cao thượng của tác giả. Có lẽ chính những cái đó đã
bắc nhịp cầu để chúng tôi quen thân nhau, cho dù kẻ bắc người nam, ngàn trùng
xa cách..
Đêm ở Sài Gòn rất ngắn, hoặc là tôi có cảm tưởng như vậy. Tôi chỉ
chợp mắt chưa đầy được giấc, bên ngoài trời đã hừng đông !..
"Vội vã trở về, vội vã ra đi "
Nhà thơ Thanh Tùng có lẽ nhiều người biết. Ông là tác giả của bài
thơ " Thời hoa đỏ" được Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc được công chúng đón
nhận và yêu mến một thời. Bạn tôi, một nhà thơ sống gần chợ Mơ, Hà Nội trong
một chân dung văn học đã viết về ông rất cảm động.
Ông là lớp trước, hơn chúng tôi hàng chục tuổi, quê ở Nam Định,
sau rồi về Hải Phòng làm công nhân khuân vác vì lý lịch gia đình khó bước chân
vào giảng đường đại học.
Ở Hải Phòng có một người đàn bà đẹp nổi tiếng vì yêu thơ mà đến
với ông. Cuộc hôn nhân ấy khởi đầu bằng thơ và kết thúc bằng thơ. Sau này người
vợ đầu tiên ấy lấy chồng về quảng Ninh.
Cuộc đời ông thật gian nan vất vả, có lúc bán sách vỉa hè, có khi
theo xe áp tải hàng. Mãi sau này, nhờ sự mai mối của nhà thơ Hoàng Hưng, ông
vào nam lập gia đình lần thứ hai với một người từng là thanh niên xung phong,
mê thơ ông.
Nhạc sĩ Phú Quang đã phổ hai bài thơ của ông rất được khán giả
mến mộ đó là :
" Người về" và
" Mùa thu giấu em"
Tôi còn biết thêm năm 1997, Thanh Tùng được cử sang Hy Lạp đọc
thơ với đại biểu các nước. Là người như Phú Quang nhận xét : " Vội vã trở
về, vội vã ra đi"
Nhưng tôi không ngờ có ngày gặp gỡ và trò chuyện với ông, vì
khoảng cách của thế hệ khác nhau, cả vì khoảng không gian nơi hiện nay ông đang
sinh sống. Và bất ngờ hơn ông cùng họ với mình. Ông là con cụ Doãn An, một gia
tộc có tiếng ở thành Nam
ngày trước.
Chúng tôi đang ngồi uống cà phê ở một tiệm lộ thiên gần bến xe
Miền Đông, Minh Thu đưa tôi ra đó để về Vũng Tàu buổi sáng hôm sau vì có việc
không thể ở lâu hơn được nữa.
Bất ngờ Phan Đức Nam
gọi điện cho tôi. Hôm trước, qua Bình Dương tôi gọi anh, anh bảo đang ở ngoài
Cần Giờ có công chuyện gì đó. Anh không làm biên tập cho báo văn nghệ Bình
Dương nữa, đã chuyển về Hội nhà văn nghệ Thành Phố cách nay vài tháng.
Vậy là chuyến ra Vũng Tàu của tôi phải chậm lại.
Đức Nam
nhất định không cho đi, anh đòi phải nhậu với nhau một trận đã. Lâu ngày gặp
lại, từ chối kể cũng kỳ, tôi cùng anh Minh Thu theo Đức Nam vào một quán bia mà Đức Nam tỏ ra thông
thuộc. Trong lúc chờ nhà hàng chuẩn bị, Đức Nam gọi điện đi đâu đó.
Lúc sau anh bảo chúng tôi cứ ngồi đây, anh đi đón một người.
Chừng mươi phút, anh chở về sau xe một ông già cao lớn, mái tóc bồng bềnh và
lại mặc áo chim cò.
Thú thực lúc đó tôi không thể đoán được ông già ấy là ai ? Dáng
dấp quan chức thì không phải rồi. Học giả cũng không đúng nữa. Tay chơi càng không phải. Nhang nhác giống một cầu thủ
bóng đá lúc về già..
Sở dĩ tôi nghĩ như vậy là do dáng người cao lớn và thân hình còn
khá chắc chắn của ông.
Không ngờ đấy là một nhà thơ tên tuổi, có cái nhìn và điệu cười
rất dễ gần.
Chỉ ít phút, chúng tôi đã có cái cảm giác gần gụi như quen biết
tự lâu rồi. Tôi nhắc lại chân dung anh bạn tôi viết về ông, ông chỉ cười. Một
lúc sau ông mới nói : "Chân dung là vẽ một cách nhìn cho bạn đọc. Có điều
không thể nói hết, nói hết ai người ta in ? "
Minh Thu tỏ ra rất thích bài "Thời hoa đỏ " của ông.
Nhà thơ gượng cười không vui nhớ về chuyện cũ. Đó là bài thơ làm ông nổi tiếng,
nhưng cũng làm ông khốn đốn, vài người cũng vì bài thơ này mà liên luỵ. Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh Sau khi giới thiệu bài
thơ của ông trên tạp chí "Văn nghệ quân đội" đã vì nó mà mất chức. Ông đã phải ẩn mình một
thời gian hành nghề bán sách cũ vỉa hè độ thân.
Nhưng cuộc đời luôn công bằng, giá trị của bài thơ mãi về sau
người ta đã phải công nhận, nhờ âm nhạc đã chắp cánh cho thơ. Bài thơ
"Thời hao đỏ" được Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc lan truyền trong cả
nước, nhất là lớp trẻ, vì nó ca ngợi tình yêu, ca ngợi cuộc sống ngay cả trong
những ngày tháng cam go, dữ dội nhất. Tình yêu bất chấp chiến tranh, vượt qua
bom đạn mà đâm chồi nảy lộc. Vậy mà có lúc người ta đã gán cho nó là " Có
vấn đề, thủ tiêu đấu tranh" !
Tôi hỏi cảm hứng nào để ông viết bài thơ này ? Ông nói đó là mối
tình đối với người vợ cũ, khi người ấy lâm bệnh qua đời, ông xuống Quảng Ninh
tiễn đưa lần cuối. Chỉ có nhà thơ mới yêu kiểu ấy. Đúng là " Dẫu lìa ngó
ý, còn vương tơ lòng". Phần nhiều người ta khi không còn là vợ chồng với
nhau nữa, ít ai cư xử, thương quý nhau kiểu ấy.
Nhưng bài thơ ông tâm đắc nhất lại là bài thơ khác. Tôi lược ghi
theo trí nhớ của mình :
Mũi Dao tình
Em đã để lại trong tôi một mũi dao
Thỉnh thoảng lại nhấn sâu thêm một chút
Tôi mang nó suốt đời
Còn em thì không biết
Nhưng mùa thu ướt máu vẫn đi về .
Bây giờ
Mọi thứ thuốc đều vô hiệu
Tôi chữa bằng rượu
bằng thơ
Hết rượu rồi
Tôi uống cả mùa thu
Cả chiều đông lướt mướt
Song lại tự lún sâu thêm chút nữa
Mũi dao ngày xưa
Nhưng có sao, trái tim tôi đã là bình rượu
Cả mũi dao xưa
Nay đã say mềm.
Tôi hỏi ông : Nghe nói anh không có rượu là không làm thơ phải
không ? ( Ông không thích người ta gọi mình bằng chú , bằng bác ) Ông cười sảng
khoái : " Người ta nói quá lên đấy, nhưng có rượu làm thơ, thơ dễ hay
hơn".
Hầu như cả ba chúng tôi chủ yếu nghe ông đọc thơ sáng ấy. Anh
Minh Thu không có đàn, muốn thể hiện cũng khó. Tôi và Đức Nam chả lẽ đọc
văn xuôi ?
Nhớ đến công việc tôi phải xin phép các anh để về Vũng Tàu. Minh
Thu đưa nhà thơ về Tạp chí "Hôn nhân và gia đình" còn Đức Nam đưa tôi đi
kiếm Taxi. Nhìn bóng hai người xa dần, tôi nghĩ họ sẽ có một nhân duyên mới,
nhạc và thơ không biết thì thôi, biết rồi khó mà gỡ ra được.
Hai ngày ở Sài Gòn với tôi, nói như câu thơ của Thanh Tùng : "
Vội vã trở về, vội vã ra đi" mà Phú Quang lấy làm thích thú ,Thật ý nghĩa
!
Thay cho lời kết..
Người viết đã cùng các bạn đi hết quãng đường từ bắc vào nam, qua
miền trung mùa lũ, đến Bà Rịa Vũng Tàu,
thành phố Sài Gòn và một vài nơi khác. Đã kể một số chuyện mà mình được chứng
kiến. Tuy nhiên nó chỉ là phần rất nhỏ trong số các câu chuyện đáng kể, là
"Phần nổi của tảng băng trôi" như kiểu người ta hay ví von. Còn nhiều
chuyện rất cảm động, như chuyến lạc đường xuống Hóc Môn, Bà Điểm, ngủ đêm ở
Buôn Mê Thuột, gặp nhà thơ chạy xe ôm Tạ Văn Sĩ ở Công Tum.. Hay lượt về gặp
đám cầu siêu cho những nạn nhân xấu số trên chiếc xe buýt bị cuốn chìm, bên bờ
sông Lam..
Chuyện đời, chuyện Người.. kể đến bao giờ cho hết ? Người viết đã
để các bạn nhọc công đọc một ký sự dài, lan man nhiều chuyện.. Đã đến lúc câu
chuyện cần khép lại, không nên để bạn mất thời giờ.
Hơn nữa, người viết hiện đang cần thời gian cho những công việc
khác. Đời sống là thế, không thể chỉ cần nước sông và khí trời, như tất cả mọi
người. Kẻ viết bài này cũng phải mưu sinh. Ngoài ra còn cần thời gian cho các
trang viết cuả mình về những câu chuyện khác..
Nếu những câu chuyện kể trên còn có chỗ thiếu sót, mong được
lượng thứ. Có thể tác giả quên một số chuyện, không nhắc tới một vài người bạn,
xin được cảm thông vì bài viết đã dài.
Viết lại lần cuối ở Nhà sáng tác Đại Lải tháng 3 / 2011
a
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét