Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013

Nguyễn Ánh – Gia Long: Kẻ tội đồ hay vĩ nhân lịch sử?

Những lỗi lầm của Nguyễn Ánh là rất lớn và đáng lên án, nhưng vẫn có  thể coi ông là một vĩ nhân lịch sử, một thực thể tất yếu của lịch sử Đại Việt.  Trong danh mục những minh vương dựng nghiệp lớn, có cả tên ông.

Triều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với  niên hiệu Gia Long – năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh  thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi  nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những  cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc  nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến  tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung –  Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những  năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm  nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan. Gắn với triều  Nguyễn là Nguyễn Ánh – Gia Long, người kế tục sự nghiệp các Chúa Nguyễn tiền bối  – người lập nên vương triều nhà Nguyễn – vương triều cuối cùng của nền đế chế  phong kiến trung ương tập quyền Việt Nam.
1330333395-vua-gia-long1
Nguyễn Huệ ( trái) – Gia Long (  phải)
I – Nguyễn Ánh: một ẩn số của lịch sử.
1. Vào lửa.
Nhìn nhận về con người này, thật không đơn giản, là một núi mâu thuẫn, mâu  thuẫn do chính cuộc đời ông tạo ra, mâu thuẫn của hoàn cảnh lịch sử và đặc biệt,  từ đó tạo ra mâu thuẫn của dân tộc với sự đa dạng trong cách nhìn, cách nghĩ  được sản sinh tự nhiên từ ngàn vạn sự kiện thực hư, chính đáng và không chính  đáng. Nếu không thật sự khách quan và chiêm nghiệm theo nhiều chiều cạnh, lát  cắt của lịch sử, soi xét từ gần đến xa, từ sau đến trước, chủ thể và khách thể,  hoá thân vào nhiều vị trí để có góc nhìn trọn vẹn, hoặc luôn bị kiềm toả bởi một  định kiến chủ quan, thủ cựu thì thật khó thoát mình ra khỏi những sai lầm trong  cách nhìn nhận vấn đề.
Nguyễn Ánh được sinh thành trong một xã hội nhiều xáo trộn; xáo trộn về thế  lực, quyền bính, mâu thuẫn về quan niệm. Những nghệ thuật, thao lược dành chiến  thắng trong cuộc sàng lọc khắt khe đã đạt đến đỉnh cao. Đánh giá về ông cũng  phong phú, đa chiều và tràn đầy mâu thuẫn.
Trong lịch sử vương quyền, chưa một vị vua nào như Nguyễn Ánh, trước khi ngồi  trên ngai vàng, cuộc đời và sự nghiệp lại nhiều gian lao và thách đố đến như  vậy, cũng chưa thấy ai đầy lòng kiên nhẫn để mưu nghiệp lớn như ông. Hơn hai  mươi năm lăn lộn, cận kề cái chết, nhưng ông vẫn vươn lên giành được thắng lợi  cuối cùng. Mệnh trời đã mỉm cười với ông. Ông đã chiến thắng.
Chúng ta tự hào vì chúng ta có Nguyễn Huệ Quang Trung, thì đồng thời chúng ta  cũng không thể lãng quên Nguyễn Ánh hoặc tuỳ tiện đánh giá về con người này. Hai  thế lực, hai trận tuyến, là kẻ thù không đội trời chung. Nhưng hai con người này  đều là thực thể Việt Nam. Mỗi người trong họ đã tạo cho người còn lại một môi  trường của sự thử sức, lòng can đảm và sự khôn ngoan để đoạt chiến thắng từ tay  đối phương. Đây là hai mặt trong một thể thống nhất biện chứng; mỗi người đều là  căn cứ để đánh giá và nhìn nhận người kia.
Những tài năng trác tuyệt thiên bẩm của Nguyễn Ánh là không thể phủ nhận.  Mười lăm tuổi (1777) cầm quân, xông pha trận mạc, quyết định những chiến thắng  quan trọng và là linh hồn của các thế lực Đàng Trong. Mười tám tuổi (1780), qua  những năm tháng thử lửa, ông đã chính thức được tôn vinh làm Chúa Nguyễn –  Nguyễn Vương. Sài gòn – Gia Định trở thành thủ đô trong thánh địa của triều đại  ông.
Sự nghiệt ngã của hoàn cảnh chính là lò bát quái, là nơi tinh luyện kim đan  để kẻ tu hành đắc đạo? Trong sự va đập lịch sử thì lịch sử cũng biết tự chọn  lựa. Một người đã đi đến đích, đã chiến thắng ở trận cuối cùng, đó là Nguyễn  Ánh.
2. Sự mỉm cười của định mệnh.
Đất thánh Gia Định và sự che chở của các thế lực phong kiến
Nguyễn Huệ – Tây Sơn dấy binh với danh nghĩa hình thức là tiêu diệt tập đoàn  tiếm quyền Trương Phúc Loan, được nhân dân hưởng ứng. Với thiên tài cầm quân,  Nguyễn Huệ và anh em Tây Sơn đã nhanh chóng đánh đổ vương triều chúa Nguyễn và  buộc họ phải chạy vào Gia Định. Việc tìm mảnh đất Gia Định giàu tiềm năng làm  nơi ẩn náu, mai phục, mưu kế lâu dài cũng là một nước tính chiến lược. Trong con  mắt của các thế lực đại địa chủ, thương nhân Sài gòn – Gia Định đương thời thì  Nguyễn Ánh và chúa Nguyễn mới thực sự là người đaị diện. Họ đã ra sức che chở  bảo vệ.
Nguyễn Ánh là chúa Nguyễn, là trực hệ của Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng; họ là hậu  duệ chính đáng của những thế lực được sinh thành và phát triển qua những thách  thức từ Vua Lê- Chúa Trịnh trên kinh đô Thăng Long. Họ đã đủ tầm sánh ngang với  Chúa Trịnh dể quyết định vận mệnh đất nước. Từ khi Nguyễn Hoàng cai trị phương  Nam rồi tiếp đến là: Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tấn,  Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Thụ, Nguyễn Phúc Khoát, nhìn  chung đều là những minh vương. Duy có Nguyễn Phúc Thuần do còn qúa bé (12tuổi)  bị rơi vào vòng kiềm toả của Trương Phúc Loan. Trong con mắt người dân các tỉnh  phía nam lúc đó, mà tiêu biểu là giới quý tộc Gia Định thì Chúa Nguyễn là người  đại diện chân chính.
Với hơn 200 năm tồn tại kế từ khi Nguyễn Hoàng gây dựng cơ nghiệp, các thế  lực phong kiến cát cứ và bản địa như Vương quốc Phù Nam, Vương quốc Chămpa đều  đã bị quy về một mối, sự tồn tại chỉ mang tính hình thức. Chúa Nguyễn đã tạo  điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế văn hoá các vùng phía nam mà các thế kỷ  trước đó vẫn nằm trong tình trạng lạc hậu hoặc luôn bị sự khống chế của ngoại  bang, điển hình là Chân Lạp và Xiêm La. Sự lớn mạnh về chính trị, quân sự, kinh  tế của Nam Bộ gắn với lịch sử tồn tại của chính quyền trung ương tập quyền lúc  đó: tập đoàn chúa Nguyễn.
Sau khi ý đồ đánh đổ chúa Nguyễn của anh em Tây Sơn đã lộ rõ, cộng với sự bất  hoà quyền bính trong nội bộ phong trào, thì lập tức các thế lực thân tín đã quay  lại bảo vệ Nguyễn Ánh và chống lại Tây Sơn, một sự chống cự quyết liệt.
Trong quá trình tồn tại, bên cạnh những thành tựu vĩ đại do Nguyễn Huệ tạo  nên, đó là những chiến công hiển hách chống quân xâm lược, bảo vệ độc lập dân  tộc, tiến hành những cải cách kinh tế văn hoá, thì đồng thời những nhược điểm  trầm kha của các thế lực khởi nghĩa mang nặng tính nông dân thường mắc phải cũng  đã hiện ra trong nội bộ Tây Sơn ngày càng trầm trọng, trầm trọng đến mức không  phương cứu chữa. Nguyễn Nhạc là sự hiện thân của sự bất cập này.
Chính những mâu thuẫn đó đã tạo cho các thế lực phong kiến Phương Nam nhìn  nhận lại và quyết tâm ủng hộ Nguyễn Ánh đến cùng.
Những trở ngại lịch sử mà Nguyễn Huệ chưa kịp khắc phục.
Những mâu thuẫn trong Tây Sơn xuất hiện mạnh ngay sau khi Nguyễn Huệ tiến  quân Bắc Hà lần thứ nhất tiêu diệt chúa Trịnh. Nguyễn Nhạc đã tức tốc ra tận  Thăng Long triệu hồi Nguyên Huệ trở về Phú Xuân, bỏ lại một Thăng Long hỗn độn,  quân hồi vô phèng với một đống quan lại và sĩ phu khủng hoảng lòng tin và phương  hướng. Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm đầy lòng trắc ẩn, muốn thoát khỏi sự kiểm  soát của Nguyễn Huệ, tranh bá đồ vương. Để rồi từ đó xô đẩy kẻ tiểu nhân bất tài  Lê Chiêu Thống phải chạy sang cầu cứu Nhà Thanh và đẩy tình hình đất nước đến  bên bờ vực thẳm.
Khi quân Thanh kéo vào xâm lược, vận mệnh độc lập dân tộc trở thành nhiệm vụ  lớn nhất mà ở bất kỳ triều đại nào, giai đoạn lịch sử nào cũng phải đặt lên hàng  đầu. Chính vì thế khi đăng quang hoàng đế với niên hiệu Quang Trung tiến ra bắc  tiêu diệt quân Mãn Thanh, Nguyễn Huệ đã dành được sự ủng hộ tuyệt đối của nhân  dân cả nước, mà nhất là nhân dân Bắc Hà. Nguyễn Nhạc cũng không thể chống đối,  không thể đi ngược quy luật. Nguyễn Huệ và nhân dân ta đã thắng lợi.
Cuộc đại phá quân Thanh toàn thắng, uy tín và sức mạnh Tây Sơn lớn mạnh vượt  bậc, ở thế quyết định bước phát triển mới của dân tộc. Nhưng một trở lực khó  vượt qua được đó là những mâu thuẫn trong nội bộ Tây Sơn ngày càng trầm trọng,  nhất là khi phải đối đầu với những vấn đề trong nước. Nguyễn Nhạc thu mình trong  thành Quy Nhơn với tư cách Đông Định Vương, không muốn đối mặt với những thách  thức mới, lại cũng không muốn Nguyễn Huệ vượt lên trên ảnh hưởng của mình.  Nguyễn Lữ thì bất lực. Sức mạnh đoàn kết của ngày đầu dựng nghiệp đã tan biến và  nhường chỗ cho những điểm yếu mà kẻ thù không ngừng lợi dụng, khoét sâu. Thực  chất đây là mâu thuẫn của các thế lực phong kiến cát cứ, phân quyền.
Liệu trong tình hình ấy, Nguyễn Huệ có đủ can đảm và nghị lực vươn lên trên  tất cả, loại trừ Nguyên Nhạc và Nguyễn Lữ ra khỏi sân khấu Tây Sơn để tự mình  vươn tới mục đích cuối cùng hay không? Điều đó thật khó. Khó vì chính Nguyễn Huệ  cũng chưa đủ sức vượt qua những ràng buộc của tình huynh đệ thủ túc sống chết có  nhau gây dựng cơ đồ trong buổi đầu của cuộc kháng chiến. Thêm nữa, Nguyễn Nhạc,  cũng nắm trong tay một lực lượng hùng hậu, cả về cơ sở vật chất, cả về thanh thế  đang có, và đặc biệt là quân sự. Nếu Nguyễn Huệ phát động cuộc chiến tranh quy  mô để loại Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ thì những tổn thất tổng hợp mà Nguyễn Huệ  phải lãnh chịu là không nhỏ, sẽ tự đánh mất chính mình trước dân tộc, cả uy tín  và lực lượng.
Đó là bài toán cần có lời giải và nghiệm số thoả đáng, và cũng vì vậy Nguyễn  Huệ phải chờ đợi thời cơ phù hợp. Kể từ khi đại phá quân Thanh năm1789 kết thúc,  trong hơn ba năm trời chuẩn bị, lực lượng của Nguyễn Huệ vô cùng hùng mạnh,  nhưng đến năm 1792 khi ông đột ngột qua đời lực lượng hùng hậu ấy vẫn không phát  huy được ưu thế. Cái chết của Nguyễn Huệ đã đẩy triều đình Phú Xuân vào tình  trạng khủng hoảng. Một triều đình và một lực lượng quân sự khổng lồ, một cỗ máy  chiến tranh quy mô lớn không có người cầm lái tương thích là Nguyễn Huệ thì sức  mạnh ấy trở thành một sự bị động. Bên cạnh đó sự tồn tại của Nguyễn Nhạc và thủ  phủ Quy Nhơn vẫn nặng sức kiềm toả.
Nguyễn Ánh bắt tay với các giáo sĩ Phương Tây nhằm tìm kiếm sự ủng hộ đã góp  phần tăng thêm những ưu thế vật chất, kỹ thuật cho cuộc chiến tranh mà ông ta  đang theo đuổi. Cũng chính vì vậy cuộc phản kích của Nguyễn Ánh đã phát huy cao  độ tính hiệu quả. Chỉ trong vòng mười năm vừa cầm cự vừa rút lui, năm 1802, toàn  bộ sự nghiệp Tây Sơn đã hoàn toàn sụp đổ.
Nhìn lại thế trận và kết cục của Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh trong cuộc giao  tranh lịch sử, khiến chúng ta liên tưởng đến những sự kiện lịch sử khác với  những diễn biến và kết cục thật bất ngờ mà nhiều ẩn số của nó phải hàng thế kỷ  mới đủ sức giải đáp.
Cuộc nổi dây khởi nghĩa của Phong trào Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc một  thế kỷ sau đó do Hồng Tú Toàn khởi xướng đã nhanh chóng dành được sự ủng hộ của  nhân dân. Với khẩu hiệu Tiêu diệt Nhà Thanh, Khôi phục Nhà Hán, cuộc khởi nghĩa  đã lan rộng khắp, Nam Kinh trở thành thủ đô của phong trào. Nhưng rồi chính lúc  phong trào lên đỉnh cao, tưởng như chiến thắng cuối cùng đã đến, chỉ còn tính  theo ngày tháng, thì cũng là lúc mầm mống của sự thất bại và diệt vong đã xuất  hiện.
Cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc thực sự là chưa giành được chính quyền  vì chính quyền vẫn nằm trong tay Mãn Thanh ở Bắc Kinh, còn Nam Kinh chỉ là thủ  đô tạm thời và chính quyền chỉ là do các lãnh tụ lập nên tự xưng vương, xưng đế.  Mới đến đó thôi thì những mâu thuẫn trong phong trào đã trầm trọng và khả năng  đưa cuộc khởi nghĩa đến toàn thắng là không còn nữa. Hồng Tú Toàn thu mình ở vị  trí hoàng đế, bằng lòng với những gì đã đạt được. Dương Tú Thanh thì cậy công  lộng quyền, dùng phép ma thuật xảo trá hãm hại và hạ uy tín lãnh tụ. Những tư  tưởng thoả mãn, hưởng lạc, chia bôi và tranh giành quyền lực đã báo hiệu sự suy  vong tất yếu.
Trước con mắt của người dân Trung Quốc lúc đó, giành lại quyền cai trị đất  nước cho đại đa số các dân tộc Hán là một nguyện vọng, nhằm tạo lập lại nền văn  minh Hán mà mấy thế kỷ đã bị tha hoá. Song điều cốt tử là lực lượng ấy có đại  diện cho dân tộc Trung Hoa hay không? Câu trả lời mà thực tế của cuộc Khởi nghĩa  Thái Bình Thiên Quốc mang lại sau nhiều năm hiện diện là:Không.
Dù thế nào đi nữa, triều đình Mãn Thanh vẫn là người đại diện hợp pháp. Trải  qua mấy trăm năm cai trị, triều Mãn Thanh đã xây dựng được một đế chế độc quyền  bền vững. Mọi hành vi cát cứ, phân quyền, tranh bá đồ vương ngoài chuẩn mực đều  không có cơ may tồn tại.
Ta tìm thấy gì trong cái bế tắc, nửa vời và đầy đố kỵ của Hồng Tú Toàn trong  Thái Bình Thiên Quốc với những tư tưởng và hành động tương tự của Đông Định  Vương Nguyễn Nhạc và Tây Bình Vương Nguyễn Lữ?
Đương nhiên người bất hoà với Nguyễn Nhạc là Nguyễn Huệ lại hoàn toàn không  giống những kẻ đố kỵ tranh giành với Hồng Tú Toàn. Nguyễn Huệ đã đặt lợi ích đất  nước lên trên, đi đúng quy luật phát triển. Nhưng, khủng hoảng nội bộ bao giờ  cũng mang một mẫu số chung, đó là sự rạn nứt và tự làm suy yếu mình để từ đó đối  phương lợi dụng khai thác. Nhất là khi sự khủng hoảng ấy được sản sinh từ lãnh  tụ tối cao của Tây sơn là Nguyễn Nhạc và kẻ thù lại là Nguyễn Ánh đang có sự trợ  giúp của vũ khí và lối tác chiến hiện đại của nhiều chuyên gia Phương Tây. Hoá  giải tình hình phức tạp này là một việc làm lớn lao đặt trên vai Nguyễn Huệ.
Sự may rủi của định mệnh.
Nguyễn Ánh đã trải qua những nguy hiểm tày núi, cái chết cận kề, thế rồi ông  lại thoát. Cái may mắn có được của ông là cái rất hiếm hoi mà người đời khó bắt  gặp. Trong suốt mấy mươi năm lăn lộn, hòn tên mũi đạn không bắt kịp ông, bệnh  tật hiểm nghèo không gõ cửa buồng ông. Ông vẫn được trời cho sống, sống khoẻ  mạnh. Chỉ cần một sự sa sảy nhỏ nhoi cũng có thể tạo ra biến cố khôn lường.  Nhưng ông vẫn vô sự. Đó là điều kỳ diệu.
Nguyễn Huệ không được cái may mắn này khi tử thần đã bất ngờ nắm lấy mệnh ông  ở tuổi ngoài bốn mươi đầy sung mãn với những triển vọng huy hoàng đang chờ phía  trước.
Trong quy luật thuận nghịch mà người xưa đúc kết, thì trong cái thuận có cái  nghịch, trong cái nghịch chứa cái thuận. Cái thuận càng lớn thì cái nghịch càng  cao, và đồng thời cái nghịch càng cao thì cái thuận cũng càng lớn. Đối với những  kẻ kinh bang tế thế là phải biết biến cái nghịch lớn thành cái thuận lớn và biến  cái thuận lớn tiếp tục lớn lên không ngừng. Với một điều kiện tuyệt đối:  Phải được sống
Những chiến công của Nguyễn Huệ to lớn đến vậy, những cuộc vây ráp của ông  với quân Nguyễn Ánh cũng rất quy mô và bài bản suốt hàng chục lần, nhưng rồi  cuối cùng vẫn không đạt được mục tiêu.Nguyễn Ánh vẫn thoát. Những truyền thuyết  dân gian như Nguyễn Ánh có trời giúp, nổi phong ba ngăn chặn Tây Sơn; hay rắn  thần xuất hiện đưa ông đến nơi an toàn trong lúc lâm nguy trên đảo Thổ Châu.v.v…  được lưu truyền tận về sau cũng xuất phát từ những sự thật kỳ diệu đến mức khó  tin này.
Người có thể làm thay đổi tình thế của Gia Long chỉ là Nguyễn Huệ, duy nhất  Nguyễn Huệ, không có ai khác. Không Nguyễn Huệ thì tất phải còn Nguyễn Ánh.
Đáng tiếc cho phong trào Tây Sơn và cũng là cho cả dân tộc, Nguyễn Huệ đã ra  đi đột ngột và lịch sử bước sang một giai đoạn mới, đó là Nguyễn Ánh quyết định  vai trò trên sân khấu lịch sử.
Nguyễn Huệ trồng cây. Gia Long hái quả. Âu cũng là mệnh trời.
II- Gia Long và Triều Nguyễn – Một thực thể Đại Việt,
1. Nguyễn Ánh và những bước đi táo bạo.
Trong lịch sử Việt Nam thì Nguyễn Ánh là người đầu tiên có quan hệ hợp tác  với phương Tây khá toàn diện và có bài bản trên các phương diện: Quân sự, ngoại  giao, kinh tế và chính trị mà trước đó chưa một nhân vật lịch sử nào với  tới.
- Ký hiệp ước giao hảo với Pháp
- Mua vũ khí của Pháp
- Cho Pháp những đặc ân nhất định trong khu vực thuộc quyền kiểm soát của  Nguyễn Ánh.
Trước hết, những việc làm trên đây của Nguyễn Ánh đã thể hiện mấy bản chất  sau đây
- Nguyễn Ánh đã nhận ra ưu thế kinh tế, kỹ thuật và quân sự từ các nước  phương Tây xa xôi. Những cái phương Tây đang có là những cái cần thiết đối với  tình hình lạc hậu mà ông đang phải gánh chịu và cần tạo cơ hội để có đựoc ưu thế  đó, nhất là trong cuộc chiến một mất một còn với Nguyễn Huệ Quang Trung.
- Ý chí phục thù và giành chiến thắng bằng mọi giá.
Nguyễn Huệ là con người ứng xử tình thế tuyệt vời. Vì độc lập dân tộc, ông đã  tiến hành cuộc đại phá thần tốc quân Thanh, một chiến thắng kỳ diệu, chứa đựng  nhiều kịch tính, như một bức hoành phi nghệ thuật cổ kim hiếm thấy. Chỉ trong  mấy ngày mà ba chục vạn quân Thanh đã bị đánh tan. Tôn sĩ Nghị tháo chạy không  kịp thắng yên cương. Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Hứa Thế Hanh chết trận  v.v…
Bằng chiến thắng này, bờ cõi sạch bóng ngoại xâm.
Nhưng chỉ ngay sau ngày chiến thắng, ông đã tiến hành chính sách giao hảo với  triều đình Mãn Thanh. Những nước đi của ông táo bạo, độc đáo, thần kỳ như một mê  hồn trận. Chính quan quân nhà Thanh và Càn Long tài hoa cũng không đủ sức nhận  ra, cương nhu lẫn lộn, cái nhường nhịn và cái đe doạ cuộn chặt trong cùng một  khối của mỗi nước cờ ngoại giao, không biết đâu mà lần. Vì thế cuối cùng, để cho  an toàn, Càn Long cầm bằng chấp thuận xây dựng mối quan hệ hữu hảo với Quang  Trung, không động binh và nhanh chóng loại bỏ tàn quân Lê Chiêu Thống ra khỏi  ván cờ phương nam của họ.
Dẹp yên phía bắc, ông giành thời gian và lực lượng cho mặt trận phía Nam với  quan quân Nhà Nguyễn trong trận quyết đấu và quyết thắng cuối cùng.
Nếu so với những đối sách của Nguyễn Huệ thì các nước đi trên thế trận của  Nguyễn Ánh cũng phức tạp và đa dạng khôn lường.
Trước một Châu Âu xa xôi, khác lạ về địa lý, ngôn ngữ, nhân chủng, văn hoá,  khác lạ một trăm thứ, thế mà Nguyễn Ánh dám bắt tay giao hảo. thật cũng là một  sự táo tợn độc nhất vô nhị. Chỉ có Nguyễn Ánh mới đủ sức làm nổi chuyện tày đình  này.
Trong suốt nhiều năm đánh nhau với Tây Sơn, bên cạnh Nguyễn Ánh có một đội  ngũ các chuyên gia kỹ thuất, quân sự rất có kinh nghiệm như Dayot, Philippe  Vannier, Guilloux, Laurent Barisy, De Forssant, Jean Baptiste Chaigneau, Olivier  de Puymanel, Theodore lebuen. Tiêu biểu nhất trong số đó là Pierre Joseph George  Pigeau de Béhaine (tức Bá Đa Lộc).
Theo tài liệu của Thực Lục Chính biên chép lại thì năm 1791, Nguyễn  Ánh đã thông qua một người nước ngoài tên là Budinonhi gửi mua tại Bồ Đào Nha  một vạn súng điểu thương, hai nghìn cỗ súng gang mỗi cỗ nặng một trăm cân, hai  nghìn viên đạn nổ đường kính 10 tấc.Trong các cuộc giao chiến với Tây Sơn sau  này, Nguyễn Ánh toàn dùng loại vũ khí hiện đại này.
Chính sự mẫn cảm của Nguyễn Ánh đã gây nên nhiều xáo động trong cách nghĩ của  các sĩ phu sau này. Có nhiều ý kiến còn cho rằng, nếu các bậc hậu thế như Minh  Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức biết học tập và kế nghiệp những tinh hoa của Nguyễn Ánh  trong mối bang giao với phương Tây thì có thể cơ may lớn đã mỉm cười với dân  tộc, rất có thể chúng ta đã văn minh hơn, cường thịnh hơn và không phải trở  thành mục tiêu nổ súng thôn tính của Pháp ở nửa sau thế kỷ mười chín như nó đã  diễn ra. Dù đấy chỉ là một sự nuối tiếc, một ảo tưởng không thực tế, nhưng chí  ít cũng để lộ một điều các hành động hợp tác với phương tây của Nguyễn Ánh do Bá  Đa Lộc làm trung gian âu cũng là đúng quy luật và không mang bản chất bán nước;  nó nằm trong thời kỳ và một nhiệm vụ lịch sử khác.
2. Nên nhìn vấn đề ở nhiều góc độ.
Âm mưu mở rộng ảnh hưởng nhằm thôn tính các quốc gia phương Đông đã thể hiện  khá rõ, trong đó Pháp cũng là nước điển hình. Song trong trường hợp cụ thể của  Nguyễn Ánh thì lại chưa hoàn toàn như vậy. Bản đệ trình của Nguyễn Ánh do Bá Đa  Lộc soạn thảo gửi chính phủ Pháp với những điều khoản cụ thể có lợi cho Pháp,  lại kèm theo đứa con trai cưng như là vật làm tin thể hiện rất rõ quyết tâm của  Nguyễn Ánh. Vì lý do gì không biết, chính phủ Pháp đã bác bỏ và từ chối đề nghị  trên, để rồi Bá Đa Lộc phải tự xoay xở theo con đường riêng ủng hộ Nguyễn Ánh  theo tính toán cá nhân của riêng ông.
Mặt khác, ở góc độ Nguyễn Ánh mà xét, vì nhu cầu chống Tây Sơn hùng mạnh với  ý chí trời long đất lở nhằm hoàn thành nghiệp lớn, những hành động hợp tác và  cầu viện bên ngoài đồng nghĩa với việc cam tâm bán nước cầu vinh hay không thì  lại là vấn đề nên đánh giá công bằng và khách quan hơn. Đây mới chỉ là sự tiềm  ẩn nguy cơ, còn thực tế thì chưa diễn ra.
Trước thế mạnh trúc chẻ ngói tan của Nguyễn Huệ, tính mạng Nguyễn Ánh và bộ  hạ của ông như chỉ được tính bằng ngày, bằng giờ. Bất cứ lúc nào cũng có thể  chết. Việc tìm cách cứu mình và gia quyến khỏi cái chết rồi từng bước khôi phục  sự nghiệp là nhu cầu trên hết, cần phải làm. Gửi đứa con trai bốn tuổi Nguyễn  Phúc Cảnh cho giáo sĩ mang về Pháp nhằm đảm bảo tính mạng đứa trẻ âu cũng là  việc làm thường tình của một người cha. Với mưu trí khôn lường như Nguyễn Ánh  thì việc xin cứu viện có đồng nghĩa với việc đánh mất độc lập dân tộc chưa thực  sự trở thành hai mặt của một vấn đề. Mối quan hệ của ông với các giáo sĩ phương  Tây chặt chẽ, lâu dài, kiên quyết là vậy mà rồi cũng đến hồi kết. Năm 1802,  Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế với niên hiệu Gia Long, khi có toàn quyền bính  trong tay, ông lại trở về cái nguyên mẫu của một nhà nước phong kiến trung ương  tập quyền Đại Việt truyền thống, Nho giáo, cố hữu và thủ cựu. Bộ luật Gia Long  mà ông là linh hồn cũng chỉ giám mô phỏng những nội dung của bộ luật Hồng Đức  thời Lê sơ. Các chế độ tư pháp, hành chính, khoa cử, quan lại, ruộng đất… về cơ  bản vẫn như cũ. Tiếp đến con cháu ông cũng vẫn như thế. Những dấu hiệu mở mang  với phương tây trước đây đã bị chôn vùi vào dĩ vãng.
Hãy đặt một giả thuyết, nếu Nguyễn Ánh không tranh thủ sự giúp đỡ của các  giáo sĩ Pháp chống lại Tây Sơn cuối thế kỷ 19, thì liệu hơn 60 năm sau đó, Việt  Nam có chắc chắn tránh được loạt đạn đại bác của thực dân Pháp hay không? Các sự  kiện này có liên quan ở một mức độ nhất định nhưng về bản chất không phải là  quan hệ nhân quả, không mang tính quy luật; không phải vì có cái này nên mới dẫn  đến cái kia.
Những gì mà Nguyễn Ánh thực hiện trong quan hệ với các giáo sĩ Pháp trước đó  không phải là sự ràng buộc để năm 1858 Pháp tấn công Sơn Trà và tiến hành cuộc  xâm lược quy mô lớn của họ.
Càng về cuối đời mình, tính dân tộc chủ nghĩa trong ông càng tăng lên đến mức  cự đoan,rồi đến các triều vua Minh Mạng, Thiêu Trị, Tự Đức tiếp đó cũng vậy.  Việt Nam bị đóng khung chết cứng trong thiết chế phong kiến tập quyền cổ điển,  lạc lõng và cô đơn.
Những gì diễn tiến ở nửa sau thế kỷ 19 như chúng ta đã thấy để rồi nước ta  trở thành thuộc địa của Pháp được xuất phát từ một thế trận, một hoàn cảnh lịch  sử khác.
Các nước láng giềng trên bán đảo Đông Dương như Lào, CămPuChia không hề liên  quan gì đến các hành động của Nguyễn Ánh 100 năm trước đó tại Việt Nam, rồi cũng  trở thành mục tiêu xâm lược của Pháp, không tránh khỏi số phận thuộc địa.
3. Cái khác biệt và cái đồng nhất giữa Nguyễn Huệ – Quang Trung  và Nguyễn Ánh – Gia Long
Giữa hai con người không đội trời chung này có nhiều nét tương phản và nhiều  nét tương đồng đến mức kỳ lạ mà tạo hoá đã an bài trong cùng một thời kỳ lịch  sử, trở thành cặp bài trùng không thể tách ra khi phân tích về mỗi con người  trong họ.
Cái khác biệt cơ bản và trọng tội của Nguyễn Ánh.
Nguyễn Huệ đại diện cho giai cấp cần lao. Nguyễn Ánh thuộc dòng dõi quý  tộc.
Nguyễn Huệ dấy binh khởi nghĩa vì quyền lợi và hạnh phúc của lê dân đang rên  xiết dưới ách thống trị hà khắc của chế độ phong kiến Đàng Trong mà Nguyên Ánh  cũng là một đại diện. Nguyễn Ánh lại đấu tranh vì quyền lợi của dòng tộc và cá  nhân.
Nguyễn Huệ muốn đập tan các thế lực cát cứ để đưa giang sơn về một mối.  Nguyễn Ánh lo bảo vệ cho chế độ chúa Nguyễn Đàng Trong của mình.
Nguyễn Huệ đặt độc lập đân tộc lên trên hết. Thù trong được đặt sau giặc  ngoài. Vì vậy khi quân Xiêm La xâm lược, việc trước tiên của ông là đánh tan  quân xâm lược Xiêm. Khi quân Thanh tràn sang, ông đã gạt bỏ mọi lực cản, lên  ngôi Hoàng đế, thống nhất nhân tâm và lực lượng, thần tốc hành quân ra bắc đại  phá quân Thanh, bảo vệ độc lập cho tổ quốc.
Trong khi đó, Nguyễn Ánh chỉ biết lo cho quyền lợi cá nhân,lại cầu cứu quân  Xiêm sang giúp đánh Tây Sơn. Đấy là chưa tính đến hành động giúp lương thảo cho  quân Thanh không thành sau khi được tin quân Thanh đã tiến vào thăng Long cuối  năm 1788.
Cái tương đồng ở hai con người này.
Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh có nét tương đồng ở chỗ: hai người đều nuôi chí lớn,  quyết thực hiện đến cùng sự nghiệp của mình, không ai có thể lay chuyển và chi  phối.
Hai con người đều có những thiên bẩm trí dũng hơn người, mưu cao, kế sâu, đầy  thao lược, luôn tạo những bước đi táo bạo, mang tính đột phá mà ít ai dám nghĩ  tới.
Chiến công hiển hách mà Nguyễn Huệ Quang Trung tạo dựng được là đánh tan các  thế lực ngoại bang xâm lược, giữ vững độc lập, mang lại niềm tự hào cho dân tộc;  tiêu diệt và xoá bỏ được các thế lực cát cứ, phân quyền duy trì hàng thế kỷ.
4. Những nghiệm số cơ bản của Nguyễn Ánh – Gia  Long.
Từ cái chết của Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh là kẻ thù biết chiếm đoạt toàn bộ  thành quả do Nguyễn Huệ làm nên và biết đưa nó đến đích, mặc dù chỉ là giải  quyết những bước cuối cùng – thống nhất sơn hà. Tuy vậy đó  cũng là một công lao to lớn của Nguyễn Ánh mà lịch sử không thể phủ nhận
Đáng tiếc, sau khi nắm toàn bộ quyền binh trong tay ông lại thực hiện những  cuộc báo thù man rợ, ít có trong lịch sử đối với một Hoàng Đế; lo thu vén quyền  binh và bổng lộc cho cá nhân và dòng tộc. Ông không biết phát huy những quy luật  phát triển mới của thời đại, lại đưa đất nước trở lại con đường mòn cố hữu lạc  hậu của lịch sử. Cũng chính vì vậy, cả dân tộc không thoát khỏi mũi súng xâm  lược của đế quốc Pháp sau khi ông tạ thế nửa thế kỷ.
Nguyễn Ánh – Gia Long và Triều Nguyễn của ông tồn tại 143 năm (1802 -1945)  với đầy thách thức vinh nhục, gắn liền với bước trường tồn của toàn dân tộc, là  một thực thế vương triều hợp pháp.
Cũng từ vương triều này đã sản sinh ra những Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân  đầy lòng yêu nước, là niềm tự hào của dân tộc.
Trên bờ Hương giang thơ mộng, gắn liền với sự tích về cuộc giao duyên huyền  thoại của Huyền Trân công chúa nghìn năm trước đã mọc lên một quần thể kiến trúc  nguy nga, độc nhất vô nhị, chứa đựng biết bao trầm tích lịch sử và tâm linh, là  di sản văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc. Cung đình Huế không tách rời  triều đại Nguyễn và Hoàng đế Gia Long.
Những lỗi lầm của Nguyễn Ánh là rất lớn và đáng lên án, nhưng vẫn có thể coi  ông là một vĩ nhân lịch sử, một thực thể tất yếu của lịch sử Đại Việt.
Trong danh mục những minh vương dựng nghiệp lớn, có cả tên ông.
Theo Tạp Chí Sông Hương

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: