ÁNH TRĂNG
VÀ NGƯỜI ẨN MÌNH TRONG NGÕ NHỎ
VÀ NGƯỜI ẨN MÌNH TRONG NGÕ NHỎ
Vũ Từ Trang
Xin nói ngay, không phải tôi viết về tác phẩm “ Ngõ hẻm dưới ánh trăng ” của nhà văn Áo rất nổi tiếng - Xtêfan Xvaig, mà tôi muốn viết về nhà văn Nguyễn Bản, người cùng quê tôi, có truyện ngắn “Ánh trăng” mà tôi yêu thích.
Ông sinh năm 1931. Mồ côi mẹ khi mới sáu tuổi, nhưng ấn tượng về người mẹ rất sâu đậm trong tâm trí ông. Đấy là người mẹ đảm đang, tháo vát. Bà từng đi buôn tơ tầm, biết chút ít tiếng Pháp. Ấy mà cơn bạo bệnh, bắt bà ra đi khi mới hai mươi bảy tuổi. Theo tập tục làng quê vùng phủ Từ Sơn dạo ấy, người bố của ông phải tìm kiếm ngay người phụ nữ về gánh vác tề gia nội trợ thay người vợ vừa quá cố. Bà mẹ kế của ông cũng là người con gái làng Đình Bảng, có ông bố làm bầu gánh hát tuồng. Những năm trước cách mạng, quê tôi rất nhiều gánh hát. Không riêng Đình Bảng, mà bên Đa Hội, Đồng Kỵ, Tấn Bào... thôn nào cũng có mấy gánh hát. Ngày xuân, vùng Kinh Bắc hội hè đình đám liên miên làng này làng kia, các gánh hát thỏa sức đi thi thố, so tài biểu diễn. Bầu gánh hát là những tay chơi, có máu mặt, rộng bang giao và lắm tiền bạc. Ấy nhưng gia đình bà mẹ kế của ông dạo ấy lại đang bị phá tán cơ nghiệp vì gánh hát. Có hiểu qua đời tư của ông, mới rõ thêm vì sao người phụ nữ luôn là hình tượng chủ đạo trong văn ông. Những khuôn mặt, những tính cách, những cảnh đời éo le của bao người phụ nữ trong thôn xóm in hằn trong tâm trí ông. Để rồi sau này, qua các trang viết của ông, họ lại xuất hiện thấm đẫm trong cảm xúc yêu thương.
Những năm tuổi thơ, ông được sống ở quê rất ít. Đang học ở trường quê, năm 1944, gia đình cho ông ra Hà Nội, học ở trường Chu Văn An. Rồi chiến tranh kháng Pháp, ông chuyển lên Thái Nguyên, học trường Lương Ngọc Quyến. Năm 1949, ông về học chuyên khoa toán ở trường Hàn Thuyên, Bắc Ninh. Ngày ấy, ông là học sinh giỏi toán của trường. Nếu đi theo con đường toán học, cuộc đời ông hẳn đã sang một trang khác. Nhưng nghiệp văn chương đã kéo ông đi như một định mệnh. Ông thi vào trường đại học sư phạm văn khoa khóa đầu, tốt nghiệp năm 1956. Người thầy dạy trực tiếp và ảnh hưởng nhiều tới tri thức của ông, là giáo sư có hai bằng tiến sỹ văn và luật bên Pháp về nước, thầy Nguyễn Mạnh Tường. Những bạn học cùng khóa cùng đam mê văn chương, như Cao Xuân Hạo, Cao Huy Đỉnh, Văn Tâm... Mỗi khi nhớ lại thời học đại học, ông luôn thấy đấy là thời tươi trẻ nhất của mình. Nghĩ về thầy Nguyễn Mạnh Tường, ông luôn biết ơn và ông luôn nhớ câu mở đầu mỗi tiết học mà thầy rất tôn trọng học trò “ Thưa các bạn, hôm nay tôi xin trình bày về...”. Ông đã sớm nhận ra, kiến thức là những gì còn lại sau những gì quên đi tất cả.
Sắp tốt nghiệp trường sư phạm văn khoa, cũng là lúc các khuynh hướng sáng tác văn học ngoài xã hội mở ra nhiều hướng. Nhóm Nhân văn giai phẩm ra đời, với các ấn phẩm mới, tác động rất nhiều tới tầng lớp trí thức, nhất là lớp trí thức trẻ như ông. Khóa học Đại học văn khoa cùng ông dạo ấy, có tới một phần ba sinh viên dính líu, liên lụy đến nhân văn giai phẩm. Không biết có phải là số phận, hay là quy luật tất yếu của thời cuộc không; nhưng rõ ràng việc dính líu đến nhân văn giai phẩm, dù chỉ là mê đọc, hoặc cổ xúy trào lưu sáng tác, mà hầu hết số phận của bạn bè cùng lớp ông chịu nhiều lao đao, lận đận. Sau này, dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, đã nhìn nhận, đánh giá lại sự kiện nhân văn giai phẩm, thì số phận lớp tri thức trẻ bị ảnh hưởng vòng sóng ngoài của cơn sóng nhân văn giai phẩm dạo đó, cũng được phục hồi danh dự. Họ được thẳng thắn nghĩ suy, lao động sáng tạo theo lý tưởng sáng tác văn học là nhân học, hướng về cái đẹp đích thực, để phục vụ nhân dân cao đẹp hơn. Với năng lực tự thân, với hoài bão trong sáng, đa phần lớp người này, đã tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật đích thực, phụng sự nhân dân và đất nước. Nhà văn Nguyễn Bản, là một trong số các nhà văn điển hình chịu thiệt thòi của thời kỳ đó.
Năm 1956, tốt nghiệp đại học sư phạm, ông được phân công về dạy văn ở trường cấp ba Hàn Thuyên. Ngày ấy, được là học trò của trường Hàn Thuyên đã là vinh dự rồi, chứ kể gì lại là thầy giáo của trường. Vì Hàn Thuyên là trường trung học điển hình lâu năm của vùng Kinh Bắc, nơi hội tụ nhiều thày cô, nhiều học trò kiệt xuất. Không biết có phải tính lãng mạn, bồng bột của tuổi trẻ không, hay là tôn thờ cái đẹp theo lối của mình, mà trong một tiết học, ông đã đem bài thơ “ Lời mẹ dặn ” của Phùng Quán ra dạy. Nhà thơ Phùng Quán khi ấy đang là nhân vật cộm cán của nhóm nhân văn giai phẩm. Sự việc động trời này, cùng với một số sáng tác văn, thơ, kịch chưa công bố; năm 1959, ông bị đình chỉ giảng dạy và bị điều về làm nhân viên phòng phổ thông của Ty. Năm 1960, ông lại bị đưa xuống hợp tác xã nông nghiệp Phật Tích, đi thực tế. Ai cũng biết, đấy là hình thức cấp trên xử lý kỷ luật với ông. Những tháng cùng ăn, cùng ở, cùng làm với những người nông dân, từ một anh giáo thư sinh, ông đã làm việc cật lực như một người nông dân thực thụ. Bao chuyện làng chuyện xóm, bao cảnh đời lam lũ, bao tình cảm chân tình, trong sáng dưới lũy tre làng, đã gom góp tư liệu, làm vốn liếng cho trang viết sau này của ông.
Một ngày từ Phật Tích về Bắc Ninh, trên chuyến tàu khách ì ạch, ông sững người khi thấy người bán báo dạo trên tàu, rao báo Văn Học, có in truyện ngắn “ Giá trị mới ” của ông. Đấy là truyện ngắn đầu tiên mà ông được in trên báo. Báo Văn Học ngày ấy thật cao sang đối với người cầm bút. (Truyện ngắn này, sau được đọc trên Đài tiếng nói Việt Nam và có được Nhà xuất bản Ngoại Văn dịch ra tiếng Nga, Anh, Pháp). Giây phút ấy, ông như quên hết vất vả, nhọc nhằn của ngày tháng đi thực tế vừa trải qua. Niềm khao khát cầm bút càng cháy bỏng trong tâm trí ông. Ông tin cuộc đời rồi sẽ không phụ ông, ông tin rồi mình sẽ viết được những trang văn mình muốn viết.
Nhưng có lẽ cái tính cương trực và thẳng thắn ngay từ nhỏ, đã gây cho ông không ít phiền toái. Ông có kể một việc xảy ra từ ngày ông còn dạy ở Hà Bắc, tôi nghe mà ám ảnh mãi. Ấy là một buổi học tập chính trị toàn ngành trong tỉnh, được tin có vị cán bộ cao cấp của Bộ về nói chuyện. Khi gần trăm thày cô đang ngồi ở hội trường chờ vị cán bộ kia, thì bên cạnh ông, là một ông giáo cứ nhấp nha nhấp nhổm đứng ngồi không yên. Hỏi sao vậy? Ông giáo thật thà thưa rằng, phải quan sát, kẻo ông ở Bộ đến mà không đứng dậy chào kịp thời, thì sợ ông ấy trù úm. Nghe nói thế, ông bực quá. Ông chợt nhớ đến một nhân vật hèn kém của A.Tsêkhốp và ông nghĩ làm quái gì mà ông giáo này phải hèn thế? Thế là lúc ông ở Bộ đến, ông cứ ngồi lỳ mặc mọi người đứng hết lên chào. Sự việc này, làm cả hội trường hôm ấy ngạc nhiên. Ông tự thấy làm như thế là không phải. Ông với ông ở Bộ kia nào có vướng mắc gì đâu, chỉ vì ông thấy bực với cái hèn của ông giáo nọ.
Tôi gặp ông khá muộn, mặc dù đọc văn của ông rất lâu rồi. Một buổi sớm, lần theo địa chỉ, tôi đến thăm ông. Ông một mình ở ngôi nhà nhỏ, trong ngõ nhỏ làng Ngọc Hà. Ngôi nhà gọn gàng, sạch sẽ. Ông đang mải dịch sách. Trên bàn làm việc của ông là bộ từ điển Việt Anh dày cộp của Bùi Phụng và tập bản thảo đang viết dở. Ông say sưa kể vì sao ông đã dịch tiểu thuyết “ Ba người lính ngự lâm” của nhà văn Alexandre Đumas Cha, mặc dù trước đó, đã nhiều người dịch và in sách rồi. Bản dịch tiểu thuyết này của ông được Nhà xuất bản Văn Học ấn hành, chiếm nhiều cảm tình của độc giả, bởi sách mang nhiều cảm xúc của riêng ông. Hình như ông đồng cảm được vẻ đẹp với nhà văn người Mỹ gốc Hoa AnChee Min, nên ông dịch liền ba cuốn tiểu thuyết “Đỗ quyên đỏ”, “ Nữ hoàng phong lan” và “ Nữ hoàng cuối cùng”. Được biết, cuốn nào in ra cũng được bạn đọc đón nhận nhiệt liệt. Tôi hỏi ông, một nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc, vậy thời gian nào ông dành để dịch thành công nhiều cuốn sách văn học giá trị vậy? Ông bảo rằng, ông đã khước từ mọi ham hố đám đông, chỉ đóng cửa ngồi tập trung cho viết và dịch sách. Ông là người chung thân một thể loại truyện ngắn và đã in gần chục tập truyện ngắn.” Bức tranh màu huyết thạch”, 1992.” Mùi tóc Thảo”, 1993. “ Truyện ngắn Nguyễn Bản”,1994. “Nợ trần gian ”,2004. “ Những cánh hoa quỳ dại”,2006.“ Mặt trời đồng xu”, 2007. “ Thời chuồn chuồn cắn rốn”, 2011... Truyện ngắn “ Ánh trăng” của ông in trên báo Văn Nghệ, 1992, rồi được giải trong cuộc thi truyện ngắn của báo, đã khẳng định vị trí ngòi bút của ông. Tôi như thấy văn ông luôn toát lên vẻ đẹp của con người, vừa thánh thiện vừa trần tục, vừa mơ hồ vừa cụ thể; như để khẳng định, cuộc đời dù có mệt mỏi mấy, thì con người vẫn cần có tình yêu thương và tình yêu thương vẫn luôn tồn tại.
Có người nói, chỉ khi đất nước đổi mới, truyện ngắn Nguyễn Bản mới ra đời. Điều này, theo tôi chỉ đúng một phần. Sự thành công của nhà văn Nguyễn Bản, chính bởi ông luôn đi theo một con đường riêng, luôn khám phả vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người, dù trong mọi tình huống. Nếu nói rộng ra, cuộc đời ông qúa nhiều thăng trầm, nhưng ngòi bút của ông lại luôn tin yêu con người, phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người. Chính vẻ đẹp đó, đã cứu rỗi con người, giúp con người vượt lên và cao hơn tiền tài, địa vị, bạo lực.
Muốn viết được những điều đó, tôi biết, ông phải có niềm tin rất lớn ở con người. Ông đã phải trả giá cho niềm tin. Một con người tuổi đã ngoài tám mươi, một tri thức tinh thông, vậy mà ông chấp nhận cuộc sống lặng lẽ một mình. Không phải xuất phát từ sự ích kỷ, cái chính, vì ông muốn được sống tự do tuyệt đối theo đúng nghĩa của nó.
Ông kể tôi nghe chuyện quê hương. Ông rất yêu quê, nhưng ông lại không thể sống ở quê. Cái làng Đình Bảng của ông vốn nức tiếng giàu có bao đời. Cái làng rất rộng, một làng đã thành một xã. Nơi đây, tám vị vua triều Lý phát tích. Lại là làng cách mạng, có đội du kích nổi tiếng từ thời chống Pháp. Ông xa làng từ nhỏ. Khi người bố ông còn sống, ông thường về quê thăm bố. Ông càng nhớ ngôi nhà tuổi thơ khang trang và ấm cúng đã bị giặc phá tan hoang, chỉ còn mảnh sân gạch. Năm 1984, bố mất, mấy anh em bán mảnh đất quê, ông mất quê từ đấy. Đời sống xô dạt đó đây. Bạn cùng trang lứa thưa vắng dần, người xa quê, người quá cố. Cuộc đời ông lại không được mấy suôn sẻ, nên mỗi bận về quê, ông càng thấy bùi ngùi. Làng quê thì ngày càng giàu có. Làng đã chuyển thành phố phường. Các nhà máy, các công ty mọc lên choáng ngợp quanh làng. Đời sống thương mại hóa lấn lướt, hầu như không mấy ai ở làng để ý tới sứ mệnh nhà văn. Ông như càng xa lạ với chính quê của mình. Tôi càng thấm thía, cô đơn là sự đồng hành của người nghệ sỹ.
Ông có hỏi thăm mấy người làng tôi, bạn trang lứa thưở học trò với ông. Đấy là ông Tùng, ông Kim. Một ông thì cũng ở xa quê, một ông thì đã thành người thiên cổ. Ông Kim con cụ Lý, nhà ở ngay cạnh đình làng. Tuy trưởng thành trong gia đình chức sắc thời phong kiến, nhưng anh em nhà ông Kim đều theo cách mạng rất sớm. Rời trường học, ông sớm hoạt động cách mạng, rồi trở thành sỹ quan cao cấp trong quân đội. Ông Chấn, anh trưởng của ông Kim, là người trong sáng, ảnh hưởng nhiều tới người em là ông Kim, bạn của nhà văn. Đời thưở nào, vì chán cái hủ tục quê kiểng, ngày cụ Lý mất, khi ban chạ của làng vào phục dịch việc chuyển linh cữu người chết ra nghĩa trang, ông cố tình hay quen mồm ở công sở, không “Thưa trình quan viên chạ...”, mà ông lại “Mời các đồng chí uống nước hút thuốc”. Cả ban chạ bất bình, không ai bảo ai, đồng loạt đứng dậy không thèm uống nước hút thuốc, mà xấn vào khênh áo quan cụ Lý ra phần mộ cho xong việc. Ông Kim khi ấy hoảng quá. Dưới con mắt nhà văn, ông Nguyễn Bản bảo rằng, đất lề quê thói quá nặng nề. Nhưng đã là người quê, thì phải theo quê, biết làm thế nào được. Ông muốn viết một cuốn sách ngợi ca cái lề lối tốt đẹp, phê phán cái xấu, cái lạc hậu ở quê, mà chưa viết được.
Lại nói về ông Tùng, bạn học của ông. Ông Tùng là người xóm Tây làng tôi, tính tình sởi lởi, nhã nhặn, được nhiều người dân nể trọng. Ông là con trưởng cụ Chánh. Tuy bố có vai vế của làng thời phong kiến, nhưng anh em nhà ông Tùng lại đi theo cách mạng rất sớm. Họ sớm trở thành những đảng viên kiên định. Ông Tùng trước khi nghỉ hưu, giữ chức chủ tịch huyện, mà chủ tịch huyện của mấy chục năm về trước như ông, đương nhiên là phải có phẩm chất trong sạch rồi. Câu chuyện bi kịch trong nhà ông Tùng, có thể là một cốt truyện ngắn hay cho một cây bút chắc tay. Chả là, thời cải cách ruộng đất, Cụ Chánh thân sinh ra ông Tùng, vốn là người yêu nước, nhưng bị quy chụp là địa chủ cường hào. Rồi cụ chịu án tử hình. Trên đường cách mạng, được tin dữ, ông Tùng cắn chặt răng kẻo bật khóc. Mãi sau này, ngày sang cát đổi áo cho bố, ông Tùng ràn rụa nước mắt vái hài cốt người bố, rồi cúi xuống gỡ viên đạn đồng còn găm trên xương sọ bố mình, lặng lẽ bỏ túi. Cử chỉ ấy, ít người nhận biết. Chỉ đến khi về nhà, trên bàn thờ gia tộc, trước khung ảnh thờ cụ Chánh, thấy có đĩa sứ nhỏ đặt viên đạn đồng.
Nhà văn Nguyễn Bản lặng người khi nghe tôi kể chuyện. Ông bỗng nghĩ về bà ngoại của mình. Với sáu sào ruộng thuê cấy rẽ, mấy năm ăn rè hạt tiện, bà tích cóp được ít tiền ngược chợ Chu thăm người cháu ruột là bộ đội đang đóng quân trên ấy. Không gặp cháu, trên đường quay về quê, bà gặp nhà văn Nguyễn Bản đi chỉnh huấn, bà dốc hết những đồng tiền còn lại “cho cháu và đồng đội bồi dưỡng để học tập tốt”. Về tới quê, bà bị quy địa chủ. Phẫn vì oan ức, bà nhảy xuống ao tự tử, may mà có người cứu kịp thời thoát chết. Câu chuyện bi hùng này, đã làm hồn cốt cho truyện ngắn “Hành hương giữa hai bờ lau cháy” của ông in trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Ông trầm ngâm như muốn nói, cuộc sống còn nhiều sai lầm đau đớn. Sứ mệnh nhà văn, là làm sao viết được những trang sách hiện thực nhất, sâu sắc nhất, để nhắc nhở con người hãy đừng để nhầm lẫn tiếp nữa. Dù nhầm lẫn thế nào, thì vẫn là đau xót lắm. Nhìn lại một lớp người cùng trang lứa với ông, người ở quê, người ngoài Hà Nội, ai cũng có nét giống ông, ấy là một thế hệ chịu nhiều thua thiệt. Có lẽ lịch sử một quốc gia nào cũng có những thế hệ phải chịu nhiều hy sinh. Sự hy sinh thầm lặng. Họ chấp nhận và không oán thán.
Đọc văn của nhà văn Nguyễn Bản, tôi không thấy sự oán thán nào. Ông như chỉ biết tôn vinh cái đẹp, ca ngợi sự nhân ái, ấm áp trong quan hệ con người. Có thể là quan hệ của tình yêu trai gái, tình chị em, tình mẹ con. Những nhân vật phụ nữ trong văn của ông, tôi như thấy người nào cũng đẹp, cũng đáng yêu. Cuộc đời ông nhiều chua chát, vậy mà văn ông luôn ánh lên vẻ đẹp thánh thiện. Phải chăng ông biết phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu trong mỗi người? Những vẻ đẹp chìm khuất này, hình như khó nhận thấy ở cái thời mà cuộc sống vật chất sôi sục, gấp gáp, hối thúc con người. Ấy nhưng, nếu thử tĩnh tâm lắng nhìn, thì vẫn thấy cái đẹp kia, lẩn khuất hoặc lóe hiện bất chợt ở đâu đó. Văn chương, nghĩ cho cùng, làm sao để cho con người biết yêu thương con người hơn, thánh thiện với nhau hơn. Sứ mệnh cao cả của con chữ, muôn đời là vậy!
Chuyện văn chuyện đời hình như cứ đan chéo con người ông. Ông kể rằng, thời gia đình ông đổ vỡ hạnh phúc, ông buồn lắm. Nhưng ông không oán trách ai. Ông đã lặng lẽ nhường cả nhà cửa cho vợ con, ôm đống sách vở đến ở nhờ căn nhà người quen. Người quen này làm việc trong ngành công an, nhưng mê văn chương, hiểu cốt cách ông, sẵn sàng mời ông đến ở ngôi nhà chưa dùng trong phố. Trong thời gian đó, ông gặp cảnh ngộ một người phụ nữ còn trẻ, luôn phải chịu bạo lực của người chồng nghiện rượu, vũ phu đánh đuổi khỏi nhà. Thương cảm cảnh cơ nhỡ người phụ nữ kia, ông liền mời cô đến ở cùng, khi có sự đồng ý của chủ nhà. Cô gái kia đã ở cùng ông một thời gian dài. Thấy chuyện một người đàn ông cao tuổi sống cùng cô gái trẻ, nhiều người xung quanh dị nghị, đàm tiếu. Ông vượt qua những ánh mắt soi mói thiếu thiện chí đó. Ông chỉ giản dị nghĩ, mình trong sáng, thì chả sợ gì. Ông muốn nói với chính ông, hãy yêu thương một con người cụ thể, hãy sống tốt và có hành sử tốt với một người cụ thể, thế là đủ!
Chuyện đâu chỉ đơn giản thế. Chính khi ông đang là chỗ an ủi, chỗ dựa tinh thần cho người con gái đang cơ nhỡ, mong manh đó, ông lại khuyên cô trở lại với gia đình, với số phận chính mình. Cô gái đành nghe lời ông khuyên, mặc dù rất thèm sự che chở của ông. Cô đã cố gắng trở về với gia đình của mình. Nhưng sự đổ vỡ vẫn là đổ vỡ. Cô càng nhớ ông. Không đơn thuần nhớ sự nương tựa, chở che. Không đơn thuần tình cảm nam nữ. Có cái gì cao cả hơn những thứ đó. Đó là ánh sáng văn hóa ông soi dọi vào cô, mà cô đã nhận được. Khi ông ra Hà Nội sống, ở quê một thời gian, cô cũng lần ra Hà Nội tìm việc làm thuê, cốt chỉ mong có cơ hội được gặp lại ông một lần nữa. Tôi không muốn bàn việc làm đó đúng hay sai, nhưng tôi thấy ông dũng cảm sống đúng theo lối của ông nghĩ. Và ông được hưởng hạnh phúc đền đáp theo lối riêng của nó.
Văn chương đã đem đến cho ông nhiều hệ lụy và nhiều hạnh phúc. Chuyện xảy ra đã hơn chục năm, khi tập truyện ngắn “ Bức tranh màu huyết thạch” của ông được phát hành. Có một độc giả vì mê văn ông, đã từ Sài Gòn ra tận Bắc Ninh tìm gặp ông. Đấy là một cô gái trẻ, xinh đẹp, tri thức, có bản lĩnh. Cô kể, truyện nào của ông in ra, cô cũng tìm đọc. Cô còn trân trọng đóng bìa cứng, để gìn giữ. Ngày cô bảo vệ luận án tiến sỹ khoa học tại Sài Gòn, cô gửi thư ra, ngỏ ý muốn mời ông vào dự. Sự có mặt nhà văn là sự động viên lớn đối với cô. Nhà văn Nguyễn Bản đã thu xếp tiền mua vé, vào Sài Gòn cho kịp ngày vui của độc giả yêu quý văn mình. Trong buổi báo cáo luận án tiến sỹ của cô, giữa đông đảo khuôn mặt trí thức Sài Gòn, có hình ảnh một người đàn ông cao tuổi, ăn vận giản dị. Đó là nhà văn Nguyễn Bản. Cô hãnh diện được chụp ảnh kỷ niệm cùng nhà văn mình ngưỡng mộ.
Câu chuyện ông kể, tuy bình dị, nhưng tôi thấy đó là phần thưởng quý biết bao của nghề viết văn vốn đang bị coi nhẹ trong thời buổi kinh tế này.
Con người biết bỏ qua mọi hám hố hư danh, điều này không phải dễ dàng. Bao năm nay, nhà văn Nguyễn Bản biết lùi lại, rời xa những hám hố đó. Ông dồn tâm sức vào viết và dịch. Ông tự trào nói vui rằng, ngôi nhà nhỏ ở ngõ nhỏ làng Ngọc Hà này, là ông mua bằng đồng tiền sạch. Đó là tiền tích cóp từ nhuận bút viết văn và dịch sách.
Có một nhà văn quý trọng ông, từng viết về ông với căn nhà lẻ một. Trong nhà, hầu như cái gì cũng một. Một chiếc giường, một chiếc tủ, một cái bàn viết, một cái gáo múc nước. Và đương nhiên ông sống một mình. Ông muốn sống theo nghĩa tự do tuyệt đối. Tôi muốn nói thêm, trên tường căn phòng nhỏ của ông, cũng duy nhất treo một bức tranh. Đó là bức tranh chân dung sơn dầu do nhà văn Đỗ Chu vẽ tặng ông. Bức tranh vẽ từ hồi ông còn ở Bắc Ninh. Bữa ấy, nhận bức tranh ướt tươi sơn dầu, về nhà ngắm nhìn, ông thấy khuôn mặt mình trong tranh tươi trẻ quá, ông liền lấy đầu ngón tay di di màu cho nét mặt mình thêm khuất lấp, xa xăm. Ông thú vị với bức tranh đó. Thuyên chuyển chỗ ở mấy nơi, ông đều đem theo bức tranh này. Ông nói vui, đó là bức tranh đồng tác giả. Tôi như thấy một ánh trăng huyền diệu ánh lên từ bức tranh đó.
Ông sinh năm 1931. Mồ côi mẹ khi mới sáu tuổi, nhưng ấn tượng về người mẹ rất sâu đậm trong tâm trí ông. Đấy là người mẹ đảm đang, tháo vát. Bà từng đi buôn tơ tầm, biết chút ít tiếng Pháp. Ấy mà cơn bạo bệnh, bắt bà ra đi khi mới hai mươi bảy tuổi. Theo tập tục làng quê vùng phủ Từ Sơn dạo ấy, người bố của ông phải tìm kiếm ngay người phụ nữ về gánh vác tề gia nội trợ thay người vợ vừa quá cố. Bà mẹ kế của ông cũng là người con gái làng Đình Bảng, có ông bố làm bầu gánh hát tuồng. Những năm trước cách mạng, quê tôi rất nhiều gánh hát. Không riêng Đình Bảng, mà bên Đa Hội, Đồng Kỵ, Tấn Bào... thôn nào cũng có mấy gánh hát. Ngày xuân, vùng Kinh Bắc hội hè đình đám liên miên làng này làng kia, các gánh hát thỏa sức đi thi thố, so tài biểu diễn. Bầu gánh hát là những tay chơi, có máu mặt, rộng bang giao và lắm tiền bạc. Ấy nhưng gia đình bà mẹ kế của ông dạo ấy lại đang bị phá tán cơ nghiệp vì gánh hát. Có hiểu qua đời tư của ông, mới rõ thêm vì sao người phụ nữ luôn là hình tượng chủ đạo trong văn ông. Những khuôn mặt, những tính cách, những cảnh đời éo le của bao người phụ nữ trong thôn xóm in hằn trong tâm trí ông. Để rồi sau này, qua các trang viết của ông, họ lại xuất hiện thấm đẫm trong cảm xúc yêu thương.
Những năm tuổi thơ, ông được sống ở quê rất ít. Đang học ở trường quê, năm 1944, gia đình cho ông ra Hà Nội, học ở trường Chu Văn An. Rồi chiến tranh kháng Pháp, ông chuyển lên Thái Nguyên, học trường Lương Ngọc Quyến. Năm 1949, ông về học chuyên khoa toán ở trường Hàn Thuyên, Bắc Ninh. Ngày ấy, ông là học sinh giỏi toán của trường. Nếu đi theo con đường toán học, cuộc đời ông hẳn đã sang một trang khác. Nhưng nghiệp văn chương đã kéo ông đi như một định mệnh. Ông thi vào trường đại học sư phạm văn khoa khóa đầu, tốt nghiệp năm 1956. Người thầy dạy trực tiếp và ảnh hưởng nhiều tới tri thức của ông, là giáo sư có hai bằng tiến sỹ văn và luật bên Pháp về nước, thầy Nguyễn Mạnh Tường. Những bạn học cùng khóa cùng đam mê văn chương, như Cao Xuân Hạo, Cao Huy Đỉnh, Văn Tâm... Mỗi khi nhớ lại thời học đại học, ông luôn thấy đấy là thời tươi trẻ nhất của mình. Nghĩ về thầy Nguyễn Mạnh Tường, ông luôn biết ơn và ông luôn nhớ câu mở đầu mỗi tiết học mà thầy rất tôn trọng học trò “ Thưa các bạn, hôm nay tôi xin trình bày về...”. Ông đã sớm nhận ra, kiến thức là những gì còn lại sau những gì quên đi tất cả.
Sắp tốt nghiệp trường sư phạm văn khoa, cũng là lúc các khuynh hướng sáng tác văn học ngoài xã hội mở ra nhiều hướng. Nhóm Nhân văn giai phẩm ra đời, với các ấn phẩm mới, tác động rất nhiều tới tầng lớp trí thức, nhất là lớp trí thức trẻ như ông. Khóa học Đại học văn khoa cùng ông dạo ấy, có tới một phần ba sinh viên dính líu, liên lụy đến nhân văn giai phẩm. Không biết có phải là số phận, hay là quy luật tất yếu của thời cuộc không; nhưng rõ ràng việc dính líu đến nhân văn giai phẩm, dù chỉ là mê đọc, hoặc cổ xúy trào lưu sáng tác, mà hầu hết số phận của bạn bè cùng lớp ông chịu nhiều lao đao, lận đận. Sau này, dưới ánh sáng đổi mới của Đảng, đã nhìn nhận, đánh giá lại sự kiện nhân văn giai phẩm, thì số phận lớp tri thức trẻ bị ảnh hưởng vòng sóng ngoài của cơn sóng nhân văn giai phẩm dạo đó, cũng được phục hồi danh dự. Họ được thẳng thắn nghĩ suy, lao động sáng tạo theo lý tưởng sáng tác văn học là nhân học, hướng về cái đẹp đích thực, để phục vụ nhân dân cao đẹp hơn. Với năng lực tự thân, với hoài bão trong sáng, đa phần lớp người này, đã tạo ra các tác phẩm văn học nghệ thuật đích thực, phụng sự nhân dân và đất nước. Nhà văn Nguyễn Bản, là một trong số các nhà văn điển hình chịu thiệt thòi của thời kỳ đó.
Năm 1956, tốt nghiệp đại học sư phạm, ông được phân công về dạy văn ở trường cấp ba Hàn Thuyên. Ngày ấy, được là học trò của trường Hàn Thuyên đã là vinh dự rồi, chứ kể gì lại là thầy giáo của trường. Vì Hàn Thuyên là trường trung học điển hình lâu năm của vùng Kinh Bắc, nơi hội tụ nhiều thày cô, nhiều học trò kiệt xuất. Không biết có phải tính lãng mạn, bồng bột của tuổi trẻ không, hay là tôn thờ cái đẹp theo lối của mình, mà trong một tiết học, ông đã đem bài thơ “ Lời mẹ dặn ” của Phùng Quán ra dạy. Nhà thơ Phùng Quán khi ấy đang là nhân vật cộm cán của nhóm nhân văn giai phẩm. Sự việc động trời này, cùng với một số sáng tác văn, thơ, kịch chưa công bố; năm 1959, ông bị đình chỉ giảng dạy và bị điều về làm nhân viên phòng phổ thông của Ty. Năm 1960, ông lại bị đưa xuống hợp tác xã nông nghiệp Phật Tích, đi thực tế. Ai cũng biết, đấy là hình thức cấp trên xử lý kỷ luật với ông. Những tháng cùng ăn, cùng ở, cùng làm với những người nông dân, từ một anh giáo thư sinh, ông đã làm việc cật lực như một người nông dân thực thụ. Bao chuyện làng chuyện xóm, bao cảnh đời lam lũ, bao tình cảm chân tình, trong sáng dưới lũy tre làng, đã gom góp tư liệu, làm vốn liếng cho trang viết sau này của ông.
Một ngày từ Phật Tích về Bắc Ninh, trên chuyến tàu khách ì ạch, ông sững người khi thấy người bán báo dạo trên tàu, rao báo Văn Học, có in truyện ngắn “ Giá trị mới ” của ông. Đấy là truyện ngắn đầu tiên mà ông được in trên báo. Báo Văn Học ngày ấy thật cao sang đối với người cầm bút. (Truyện ngắn này, sau được đọc trên Đài tiếng nói Việt Nam và có được Nhà xuất bản Ngoại Văn dịch ra tiếng Nga, Anh, Pháp). Giây phút ấy, ông như quên hết vất vả, nhọc nhằn của ngày tháng đi thực tế vừa trải qua. Niềm khao khát cầm bút càng cháy bỏng trong tâm trí ông. Ông tin cuộc đời rồi sẽ không phụ ông, ông tin rồi mình sẽ viết được những trang văn mình muốn viết.
Nhưng có lẽ cái tính cương trực và thẳng thắn ngay từ nhỏ, đã gây cho ông không ít phiền toái. Ông có kể một việc xảy ra từ ngày ông còn dạy ở Hà Bắc, tôi nghe mà ám ảnh mãi. Ấy là một buổi học tập chính trị toàn ngành trong tỉnh, được tin có vị cán bộ cao cấp của Bộ về nói chuyện. Khi gần trăm thày cô đang ngồi ở hội trường chờ vị cán bộ kia, thì bên cạnh ông, là một ông giáo cứ nhấp nha nhấp nhổm đứng ngồi không yên. Hỏi sao vậy? Ông giáo thật thà thưa rằng, phải quan sát, kẻo ông ở Bộ đến mà không đứng dậy chào kịp thời, thì sợ ông ấy trù úm. Nghe nói thế, ông bực quá. Ông chợt nhớ đến một nhân vật hèn kém của A.Tsêkhốp và ông nghĩ làm quái gì mà ông giáo này phải hèn thế? Thế là lúc ông ở Bộ đến, ông cứ ngồi lỳ mặc mọi người đứng hết lên chào. Sự việc này, làm cả hội trường hôm ấy ngạc nhiên. Ông tự thấy làm như thế là không phải. Ông với ông ở Bộ kia nào có vướng mắc gì đâu, chỉ vì ông thấy bực với cái hèn của ông giáo nọ.
Tôi gặp ông khá muộn, mặc dù đọc văn của ông rất lâu rồi. Một buổi sớm, lần theo địa chỉ, tôi đến thăm ông. Ông một mình ở ngôi nhà nhỏ, trong ngõ nhỏ làng Ngọc Hà. Ngôi nhà gọn gàng, sạch sẽ. Ông đang mải dịch sách. Trên bàn làm việc của ông là bộ từ điển Việt Anh dày cộp của Bùi Phụng và tập bản thảo đang viết dở. Ông say sưa kể vì sao ông đã dịch tiểu thuyết “ Ba người lính ngự lâm” của nhà văn Alexandre Đumas Cha, mặc dù trước đó, đã nhiều người dịch và in sách rồi. Bản dịch tiểu thuyết này của ông được Nhà xuất bản Văn Học ấn hành, chiếm nhiều cảm tình của độc giả, bởi sách mang nhiều cảm xúc của riêng ông. Hình như ông đồng cảm được vẻ đẹp với nhà văn người Mỹ gốc Hoa AnChee Min, nên ông dịch liền ba cuốn tiểu thuyết “Đỗ quyên đỏ”, “ Nữ hoàng phong lan” và “ Nữ hoàng cuối cùng”. Được biết, cuốn nào in ra cũng được bạn đọc đón nhận nhiệt liệt. Tôi hỏi ông, một nhà văn viết truyện ngắn xuất sắc, vậy thời gian nào ông dành để dịch thành công nhiều cuốn sách văn học giá trị vậy? Ông bảo rằng, ông đã khước từ mọi ham hố đám đông, chỉ đóng cửa ngồi tập trung cho viết và dịch sách. Ông là người chung thân một thể loại truyện ngắn và đã in gần chục tập truyện ngắn.” Bức tranh màu huyết thạch”, 1992.” Mùi tóc Thảo”, 1993. “ Truyện ngắn Nguyễn Bản”,1994. “Nợ trần gian ”,2004. “ Những cánh hoa quỳ dại”,2006.“ Mặt trời đồng xu”, 2007. “ Thời chuồn chuồn cắn rốn”, 2011... Truyện ngắn “ Ánh trăng” của ông in trên báo Văn Nghệ, 1992, rồi được giải trong cuộc thi truyện ngắn của báo, đã khẳng định vị trí ngòi bút của ông. Tôi như thấy văn ông luôn toát lên vẻ đẹp của con người, vừa thánh thiện vừa trần tục, vừa mơ hồ vừa cụ thể; như để khẳng định, cuộc đời dù có mệt mỏi mấy, thì con người vẫn cần có tình yêu thương và tình yêu thương vẫn luôn tồn tại.
Có người nói, chỉ khi đất nước đổi mới, truyện ngắn Nguyễn Bản mới ra đời. Điều này, theo tôi chỉ đúng một phần. Sự thành công của nhà văn Nguyễn Bản, chính bởi ông luôn đi theo một con đường riêng, luôn khám phả vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người, dù trong mọi tình huống. Nếu nói rộng ra, cuộc đời ông qúa nhiều thăng trầm, nhưng ngòi bút của ông lại luôn tin yêu con người, phát hiện vẻ đẹp tiềm ẩn trong mỗi con người. Chính vẻ đẹp đó, đã cứu rỗi con người, giúp con người vượt lên và cao hơn tiền tài, địa vị, bạo lực.
Muốn viết được những điều đó, tôi biết, ông phải có niềm tin rất lớn ở con người. Ông đã phải trả giá cho niềm tin. Một con người tuổi đã ngoài tám mươi, một tri thức tinh thông, vậy mà ông chấp nhận cuộc sống lặng lẽ một mình. Không phải xuất phát từ sự ích kỷ, cái chính, vì ông muốn được sống tự do tuyệt đối theo đúng nghĩa của nó.
Ông kể tôi nghe chuyện quê hương. Ông rất yêu quê, nhưng ông lại không thể sống ở quê. Cái làng Đình Bảng của ông vốn nức tiếng giàu có bao đời. Cái làng rất rộng, một làng đã thành một xã. Nơi đây, tám vị vua triều Lý phát tích. Lại là làng cách mạng, có đội du kích nổi tiếng từ thời chống Pháp. Ông xa làng từ nhỏ. Khi người bố ông còn sống, ông thường về quê thăm bố. Ông càng nhớ ngôi nhà tuổi thơ khang trang và ấm cúng đã bị giặc phá tan hoang, chỉ còn mảnh sân gạch. Năm 1984, bố mất, mấy anh em bán mảnh đất quê, ông mất quê từ đấy. Đời sống xô dạt đó đây. Bạn cùng trang lứa thưa vắng dần, người xa quê, người quá cố. Cuộc đời ông lại không được mấy suôn sẻ, nên mỗi bận về quê, ông càng thấy bùi ngùi. Làng quê thì ngày càng giàu có. Làng đã chuyển thành phố phường. Các nhà máy, các công ty mọc lên choáng ngợp quanh làng. Đời sống thương mại hóa lấn lướt, hầu như không mấy ai ở làng để ý tới sứ mệnh nhà văn. Ông như càng xa lạ với chính quê của mình. Tôi càng thấm thía, cô đơn là sự đồng hành của người nghệ sỹ.
Ông có hỏi thăm mấy người làng tôi, bạn trang lứa thưở học trò với ông. Đấy là ông Tùng, ông Kim. Một ông thì cũng ở xa quê, một ông thì đã thành người thiên cổ. Ông Kim con cụ Lý, nhà ở ngay cạnh đình làng. Tuy trưởng thành trong gia đình chức sắc thời phong kiến, nhưng anh em nhà ông Kim đều theo cách mạng rất sớm. Rời trường học, ông sớm hoạt động cách mạng, rồi trở thành sỹ quan cao cấp trong quân đội. Ông Chấn, anh trưởng của ông Kim, là người trong sáng, ảnh hưởng nhiều tới người em là ông Kim, bạn của nhà văn. Đời thưở nào, vì chán cái hủ tục quê kiểng, ngày cụ Lý mất, khi ban chạ của làng vào phục dịch việc chuyển linh cữu người chết ra nghĩa trang, ông cố tình hay quen mồm ở công sở, không “Thưa trình quan viên chạ...”, mà ông lại “Mời các đồng chí uống nước hút thuốc”. Cả ban chạ bất bình, không ai bảo ai, đồng loạt đứng dậy không thèm uống nước hút thuốc, mà xấn vào khênh áo quan cụ Lý ra phần mộ cho xong việc. Ông Kim khi ấy hoảng quá. Dưới con mắt nhà văn, ông Nguyễn Bản bảo rằng, đất lề quê thói quá nặng nề. Nhưng đã là người quê, thì phải theo quê, biết làm thế nào được. Ông muốn viết một cuốn sách ngợi ca cái lề lối tốt đẹp, phê phán cái xấu, cái lạc hậu ở quê, mà chưa viết được.
Lại nói về ông Tùng, bạn học của ông. Ông Tùng là người xóm Tây làng tôi, tính tình sởi lởi, nhã nhặn, được nhiều người dân nể trọng. Ông là con trưởng cụ Chánh. Tuy bố có vai vế của làng thời phong kiến, nhưng anh em nhà ông Tùng lại đi theo cách mạng rất sớm. Họ sớm trở thành những đảng viên kiên định. Ông Tùng trước khi nghỉ hưu, giữ chức chủ tịch huyện, mà chủ tịch huyện của mấy chục năm về trước như ông, đương nhiên là phải có phẩm chất trong sạch rồi. Câu chuyện bi kịch trong nhà ông Tùng, có thể là một cốt truyện ngắn hay cho một cây bút chắc tay. Chả là, thời cải cách ruộng đất, Cụ Chánh thân sinh ra ông Tùng, vốn là người yêu nước, nhưng bị quy chụp là địa chủ cường hào. Rồi cụ chịu án tử hình. Trên đường cách mạng, được tin dữ, ông Tùng cắn chặt răng kẻo bật khóc. Mãi sau này, ngày sang cát đổi áo cho bố, ông Tùng ràn rụa nước mắt vái hài cốt người bố, rồi cúi xuống gỡ viên đạn đồng còn găm trên xương sọ bố mình, lặng lẽ bỏ túi. Cử chỉ ấy, ít người nhận biết. Chỉ đến khi về nhà, trên bàn thờ gia tộc, trước khung ảnh thờ cụ Chánh, thấy có đĩa sứ nhỏ đặt viên đạn đồng.
Nhà văn Nguyễn Bản lặng người khi nghe tôi kể chuyện. Ông bỗng nghĩ về bà ngoại của mình. Với sáu sào ruộng thuê cấy rẽ, mấy năm ăn rè hạt tiện, bà tích cóp được ít tiền ngược chợ Chu thăm người cháu ruột là bộ đội đang đóng quân trên ấy. Không gặp cháu, trên đường quay về quê, bà gặp nhà văn Nguyễn Bản đi chỉnh huấn, bà dốc hết những đồng tiền còn lại “cho cháu và đồng đội bồi dưỡng để học tập tốt”. Về tới quê, bà bị quy địa chủ. Phẫn vì oan ức, bà nhảy xuống ao tự tử, may mà có người cứu kịp thời thoát chết. Câu chuyện bi hùng này, đã làm hồn cốt cho truyện ngắn “Hành hương giữa hai bờ lau cháy” của ông in trên tạp chí Văn Nghệ Quân Đội. Ông trầm ngâm như muốn nói, cuộc sống còn nhiều sai lầm đau đớn. Sứ mệnh nhà văn, là làm sao viết được những trang sách hiện thực nhất, sâu sắc nhất, để nhắc nhở con người hãy đừng để nhầm lẫn tiếp nữa. Dù nhầm lẫn thế nào, thì vẫn là đau xót lắm. Nhìn lại một lớp người cùng trang lứa với ông, người ở quê, người ngoài Hà Nội, ai cũng có nét giống ông, ấy là một thế hệ chịu nhiều thua thiệt. Có lẽ lịch sử một quốc gia nào cũng có những thế hệ phải chịu nhiều hy sinh. Sự hy sinh thầm lặng. Họ chấp nhận và không oán thán.
Đọc văn của nhà văn Nguyễn Bản, tôi không thấy sự oán thán nào. Ông như chỉ biết tôn vinh cái đẹp, ca ngợi sự nhân ái, ấm áp trong quan hệ con người. Có thể là quan hệ của tình yêu trai gái, tình chị em, tình mẹ con. Những nhân vật phụ nữ trong văn của ông, tôi như thấy người nào cũng đẹp, cũng đáng yêu. Cuộc đời ông nhiều chua chát, vậy mà văn ông luôn ánh lên vẻ đẹp thánh thiện. Phải chăng ông biết phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu trong mỗi người? Những vẻ đẹp chìm khuất này, hình như khó nhận thấy ở cái thời mà cuộc sống vật chất sôi sục, gấp gáp, hối thúc con người. Ấy nhưng, nếu thử tĩnh tâm lắng nhìn, thì vẫn thấy cái đẹp kia, lẩn khuất hoặc lóe hiện bất chợt ở đâu đó. Văn chương, nghĩ cho cùng, làm sao để cho con người biết yêu thương con người hơn, thánh thiện với nhau hơn. Sứ mệnh cao cả của con chữ, muôn đời là vậy!
Chuyện văn chuyện đời hình như cứ đan chéo con người ông. Ông kể rằng, thời gia đình ông đổ vỡ hạnh phúc, ông buồn lắm. Nhưng ông không oán trách ai. Ông đã lặng lẽ nhường cả nhà cửa cho vợ con, ôm đống sách vở đến ở nhờ căn nhà người quen. Người quen này làm việc trong ngành công an, nhưng mê văn chương, hiểu cốt cách ông, sẵn sàng mời ông đến ở ngôi nhà chưa dùng trong phố. Trong thời gian đó, ông gặp cảnh ngộ một người phụ nữ còn trẻ, luôn phải chịu bạo lực của người chồng nghiện rượu, vũ phu đánh đuổi khỏi nhà. Thương cảm cảnh cơ nhỡ người phụ nữ kia, ông liền mời cô đến ở cùng, khi có sự đồng ý của chủ nhà. Cô gái kia đã ở cùng ông một thời gian dài. Thấy chuyện một người đàn ông cao tuổi sống cùng cô gái trẻ, nhiều người xung quanh dị nghị, đàm tiếu. Ông vượt qua những ánh mắt soi mói thiếu thiện chí đó. Ông chỉ giản dị nghĩ, mình trong sáng, thì chả sợ gì. Ông muốn nói với chính ông, hãy yêu thương một con người cụ thể, hãy sống tốt và có hành sử tốt với một người cụ thể, thế là đủ!
Chuyện đâu chỉ đơn giản thế. Chính khi ông đang là chỗ an ủi, chỗ dựa tinh thần cho người con gái đang cơ nhỡ, mong manh đó, ông lại khuyên cô trở lại với gia đình, với số phận chính mình. Cô gái đành nghe lời ông khuyên, mặc dù rất thèm sự che chở của ông. Cô đã cố gắng trở về với gia đình của mình. Nhưng sự đổ vỡ vẫn là đổ vỡ. Cô càng nhớ ông. Không đơn thuần nhớ sự nương tựa, chở che. Không đơn thuần tình cảm nam nữ. Có cái gì cao cả hơn những thứ đó. Đó là ánh sáng văn hóa ông soi dọi vào cô, mà cô đã nhận được. Khi ông ra Hà Nội sống, ở quê một thời gian, cô cũng lần ra Hà Nội tìm việc làm thuê, cốt chỉ mong có cơ hội được gặp lại ông một lần nữa. Tôi không muốn bàn việc làm đó đúng hay sai, nhưng tôi thấy ông dũng cảm sống đúng theo lối của ông nghĩ. Và ông được hưởng hạnh phúc đền đáp theo lối riêng của nó.
Văn chương đã đem đến cho ông nhiều hệ lụy và nhiều hạnh phúc. Chuyện xảy ra đã hơn chục năm, khi tập truyện ngắn “ Bức tranh màu huyết thạch” của ông được phát hành. Có một độc giả vì mê văn ông, đã từ Sài Gòn ra tận Bắc Ninh tìm gặp ông. Đấy là một cô gái trẻ, xinh đẹp, tri thức, có bản lĩnh. Cô kể, truyện nào của ông in ra, cô cũng tìm đọc. Cô còn trân trọng đóng bìa cứng, để gìn giữ. Ngày cô bảo vệ luận án tiến sỹ khoa học tại Sài Gòn, cô gửi thư ra, ngỏ ý muốn mời ông vào dự. Sự có mặt nhà văn là sự động viên lớn đối với cô. Nhà văn Nguyễn Bản đã thu xếp tiền mua vé, vào Sài Gòn cho kịp ngày vui của độc giả yêu quý văn mình. Trong buổi báo cáo luận án tiến sỹ của cô, giữa đông đảo khuôn mặt trí thức Sài Gòn, có hình ảnh một người đàn ông cao tuổi, ăn vận giản dị. Đó là nhà văn Nguyễn Bản. Cô hãnh diện được chụp ảnh kỷ niệm cùng nhà văn mình ngưỡng mộ.
Câu chuyện ông kể, tuy bình dị, nhưng tôi thấy đó là phần thưởng quý biết bao của nghề viết văn vốn đang bị coi nhẹ trong thời buổi kinh tế này.
Con người biết bỏ qua mọi hám hố hư danh, điều này không phải dễ dàng. Bao năm nay, nhà văn Nguyễn Bản biết lùi lại, rời xa những hám hố đó. Ông dồn tâm sức vào viết và dịch. Ông tự trào nói vui rằng, ngôi nhà nhỏ ở ngõ nhỏ làng Ngọc Hà này, là ông mua bằng đồng tiền sạch. Đó là tiền tích cóp từ nhuận bút viết văn và dịch sách.
Có một nhà văn quý trọng ông, từng viết về ông với căn nhà lẻ một. Trong nhà, hầu như cái gì cũng một. Một chiếc giường, một chiếc tủ, một cái bàn viết, một cái gáo múc nước. Và đương nhiên ông sống một mình. Ông muốn sống theo nghĩa tự do tuyệt đối. Tôi muốn nói thêm, trên tường căn phòng nhỏ của ông, cũng duy nhất treo một bức tranh. Đó là bức tranh chân dung sơn dầu do nhà văn Đỗ Chu vẽ tặng ông. Bức tranh vẽ từ hồi ông còn ở Bắc Ninh. Bữa ấy, nhận bức tranh ướt tươi sơn dầu, về nhà ngắm nhìn, ông thấy khuôn mặt mình trong tranh tươi trẻ quá, ông liền lấy đầu ngón tay di di màu cho nét mặt mình thêm khuất lấp, xa xăm. Ông thú vị với bức tranh đó. Thuyên chuyển chỗ ở mấy nơi, ông đều đem theo bức tranh này. Ông nói vui, đó là bức tranh đồng tác giả. Tôi như thấy một ánh trăng huyền diệu ánh lên từ bức tranh đó.
Tháng 2-2012
V.T.T
V.T.T
Buổi sáng mưa phùn gió rét, tới thăm nhà văn Nguyễn Bản, tôi giật mình vì thấy ông vẫn ngồi cậm cụi dịch sách. Năm nay, ông đã tám mươi tư tuổi. Với tôi, ông là nhà văn viết truyện ngắn hay nhất trong số ít các nhà văn viết truyện ngắn hay của nước ta. Truyện của ông luôn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn con người, giầu chất nhân văn. Bạn đọc yêu truyện ngắn, hẳn không thể quên các truyện: Ánh trăng, Mùi tóc Thảo, Bức tranh màu huyết dụ, Sự thiêu đốt dịu dàng.... của ông. Ông là tác giả
giả của gần chục tập truyện ngắn và sách dịch. Quê ông miền Kinh Bắc, làng ông cách làng tôi một con đường sắt. Tuổi thơ của tôi, ngày ngày, vẫn băng qua con đường sắt để tới trường làng ông học. Cuộc đời của ông đầy nỗi truân chuyên. Ông chấp nhận trả giá đắt, để có tự do tuyệt đối, theo lối sống của ông. Ông là nhà văn không tham gia Hội nhà văn Việt Nam, nhưng anh em trong Hội, những người viết chân chính, rất nể trọng ông. Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, đã từng vận động ông vào Hội, nhưng ông đều cảm ơn, khéo từ chối, với lý do tuổi cao sức yếu rồi. Tuy không vào Hội, nhưng ông luôn làm việc hết mình với sự nghiệp văn chương cao cả theo lối của mình.
Trong lúc nói chuyện, có nhắc về truyện ngắn "Mặt trời đồng xu" của ông, mà tôi thích. Ông liền lấy trong ngăn kéo bàn làm việc cuốn sách cũ nát, in bốn tiểu luận văn học dịch. Chính cuốn sách này, đã gợi ông viết truyện ngắn có tên "Mặt trời đồng xu" sau này. Cuốn sách phiêu diêu hơn sáu mươi năm, nay tình cờ lại trở về với ông. Góc trái trang sách, còn ghi : Quán Triều, 15-10-1951 và chữ ký của ông. Ông kể lại, bữa ấy, vì mê sách quá, ông vét những đồng tiền cuối cùng trong túi để mua cuốn sách và chấp nhận nhịn đói ngày đó. Niềm thiêng liêng với văn chương, đã hướng ông sống chết với nó. Chuyện đã sáu mươi bốn năm, đấy là thời trai trẻ theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc.Tôi xin phép ông chụp lại mấy trang sách cũ nhiều kỷ niệm của ông, để giới thiệu với các bạn trên fb thân mến của tôi.
Trong lúc nói chuyện, có nhắc về truyện ngắn "Mặt trời đồng xu" của ông, mà tôi thích. Ông liền lấy trong ngăn kéo bàn làm việc cuốn sách cũ nát, in bốn tiểu luận văn học dịch. Chính cuốn sách này, đã gợi ông viết truyện ngắn có tên "Mặt trời đồng xu" sau này. Cuốn sách phiêu diêu hơn sáu mươi năm, nay tình cờ lại trở về với ông. Góc trái trang sách, còn ghi : Quán Triều, 15-10-1951 và chữ ký của ông. Ông kể lại, bữa ấy, vì mê sách quá, ông vét những đồng tiền cuối cùng trong túi để mua cuốn sách và chấp nhận nhịn đói ngày đó. Niềm thiêng liêng với văn chương, đã hướng ông sống chết với nó. Chuyện đã sáu mươi bốn năm, đấy là thời trai trẻ theo cách mạng lên chiến khu Việt Bắc.Tôi xin phép ông chụp lại mấy trang sách cũ nhiều kỷ niệm của ông, để giới thiệu với các bạn trên fb thân mến của tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét