Bài liên quan:Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (Toàn bài trong bản PDF)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (3)
Thomas A. Bass – Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (Toàn bài trong bản PDF)
pro&contra – Trong bản đối chiếu toàn văn bản dịch cuốn Điệp viên Z21. Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ của Thomas A. Bass (Đỗ Tuấn Kiệt dịch, Nhã Nam và Hồng Đức xuất bản, Hà Nội tháng Ba 2014) với bản trọn vẹn do Bùi Xuân Bách hiệu đính và bổ sung, các kí hiệu được dùng như sau:
Những chỗ bị cắt do kiểm duyệt được bổ sung trong ngoặc vuông bằng chữ đậm màu đỏ.
Những chỗ bị sửa đổi do kiểm duyệt được hiệu đính trong ngoặc vuông bằng chữ màu đỏ.
Những chỗ dịch thiếu chính xác nhưng không nhất thiết do kiểm duyệt được hiệu đính trong ngoặc vuông bằng chữ màu xanh.
Phần Chỉ mục (Index) rất sơ lược so với bản gốc, hoặc thiếu hẳn, hoặc rút gọn, hoặc lược bỏ, hoặc gộp nhiều mục tra cứu, nên không thể so sánh được.
Sau đây là một đoạn ví dụ:
[Thậm chí cả những sĩ quan quân đội cao cấp như đại tá Bùi Tín cũng không biết câu chuyện về Phạm Xuân Ẩn. Trên cương vị Phó Tổng Biên tập tờ báo của quân đội miền Bắc Việt Nam, ông Tín đi trên một chiếc xe tăng đến Dinh Độc lập ngày 30 tháng Tư năm 1975. Sau khi chấp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, ông Bùi Tín ngồi xuống bên chiếc bàn Tổng thống để viết bài cho tờ báo của mình. Giống như hầu hết những nhà báo mới đến Sài Gòn, việc tiếp theo ông làm là đi tìm Phạm Xuân Ẩn. Như Bùi Tín nhớ lại: “Vào buổi sáng ngày mồng 1 tháng Năm, tôi đi tìm Phạm Xuân Ẩn ở văn phòng của ông ấy tại khách sạn Continental Palace. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết ông ấy là một điệp viên. Tất cả những gì ông ấy kể với tôi là ông ấy làm phóng viên thường trú cho tờ Time-Life. Ông ấy giới thiệu tôi với tất cả phóng viên trong thành phố, và tôi giúp họ gửi bài viết của mình ra nước ngoài. Ba tháng sau khi chiến tranh kết thúc, tôi vẫn không biết rằng Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên.]
Lẽ ra Phạm Xuân Ẩn đã theo gia đình mình sang Washingtonvà tiếp tục hoạt động tình báo, nhưng nhiệm vụ này đã bị dừng lại vào phút chót. [Những thông tin về sự tranh giành quyền lực đối với Phạm Xuân Ẩn – giữa những chỉ huy tình báo quân sự muốn phái ông sang Mỹ và những lãnh đạo kín đáo trong Bộ Chính trị – chỉ được tiết lộ với Bùi Tín khi chính phủ Việt Nam xúc tiến việc hồi hương cho vợ và các con của Phạm Xuân Ẩn.] Lẫn trong làn sóng những người di tản khỏi đất nước, gia đình của Phạm Xuân Ẩn phải mất cả năm trời cố tìm cách quay trở lại Việt Nam thông qua một tuyến đường lòng vòng đi qua Paris, Mátxcơva, và Hà Nội. Bà Nguyễn Thị Bình, người bạn thời thơ ấu của Phạm Xuân Ẩn, cuối cùng cũng đưa được họ về nhà. Gia đình của Phạm Xuân Ẩn đã phải trú ngụ suốt bốn tháng liền ở hành lang Đại sứ quán Việt Nam tại Paris, bị đẩy qua đẩy lại giữa những cơ quan tình báo và an ninh [cạnh tranh nhau] của Việt Nam, cho đến một hôm bà Bình bắt gặp họ đang ngồi ở đó. Tại thời điểm đó Việt Nam có hai đại sứ quán, một của những người cộng sản và một của Đại sứ Nguyễn Thị Bình, đại diện cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau công việc của mình trên cương vị người đàm phán của Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam [Mặt trận Dân tộc Giải phóng] tại Hiệp định Paris, sứ mệnh ngoại giao cuối cùng của bà Nguyễn Thị Bình là bố trí đưa gia đình Phạm Xuân Ẩn trở về nước an toàn.
Với tư cách là người cuối cùng còn ở lại văn phòng của Time tại Sài Gòn, Phạm Xuân Ẩn nghiễm nhiên trở thành trưởng đại diện. Tên của ông vẫn xuất hiện trên Time cho đến ngày 3 tháng 5 năm 1976. Ông trả lời các yêu cầu và gửi phản ánh trong suốt một năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, nhưng càng ngày ông càng viết ít hơn, [khi tấm lưới xám xịt của bộ máy an ninh Nhà nước chụp xuống thành phố. “Sau năm 1975, Sài Gòn biến thành HoChiMinhgrad,” ông nói. “Họ cắt bỏ máy điện tín và bắt buộc mọi bài viết phải chuyển qua bưu điện. Họ gạch bỏ chỗ này, gạch bỏ chỗ kia. Chế độ kiểm duyệt khắt khe đến nỗi chẳng khác nào cái thời của Graham Green. Tôi không gửi nhiều bài vì tôi không biết phải luồn lách kiểm duyệt như thế nào. Tất cả những gì họ muốn là tuyên truyền cho chế độ mới, thế là tôi suốt ngày đi xem chọi gà chọi cá.”]
Thông báo chính thức đầu tiên về lòng trung thành trong thời chiến tranh của Phạm Xuân Ẩn được đưa ra tháng 12 năm 1976, khi ông bay ra Hà Nội với tư cách đại biểu quân đội tại Đại hội Đảng lần thứ 4. Những bạn bè thấy ông đi khắp Hà Nội trong bộ quân phục màu xanh thẫm mà ông mặc lần đầu tiên trong đời, đều sững sờ trước sự biến đổi của Phạm Xuân Ẩn từ một nhà báo thành một anh hùng ngực đầy huân chương. “Rất nhiều VC ở miềnNam ngạc nhiên khi họ thấy tôi,” Phạm Xuân Ẩn nói. “Họ tưởng CIA đã bỏ tôi ở lại.”
Nguyễn Khải, nhà văn Việt Nam nổi tiếng, người về sau viết một cuốn tiểu thuyết về Phạm Xuân Ẩn, là một trong những người như vậy. “Anh thuộc về cách mạng!” ông thốt lên. “Tôi thuộc về tất cả,” Phạm Xuân Ẩn trả lời. “Người Pháp, người Mỹ, và bây giờ là cả cách mạng nữa.”
Khi hàng trăm nghìn người Việt Nam biến vào trong các nhà tù và trại lao động, Phạm Xuân Ẩn cũng được cử tới nơi mà ông vẫn gọi đùa là “trại cải tạo”. Tháng 8 năm 1978, ông được cử tham gia khóa bồi dưỡng mười tháng ở Học viện Chính trị Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội. Đây là một khóa bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Marx cho những cán bộ cấp cao. “Tôi đã sống quá lâu trong lòng địch,” ông nói. “Họ cử tôi tới đó để tái chế.”
Luôn là một học viên kém, Phạm Xuân Ẩn hoàn thành khóa học ở vị trí gần bét lớp. “Họ không ưa kiểu nói đùa của tôi,” ông nói về những người miền Bắc khó đăm đăm đang cố dạy ông thứ tiếng Việt “mới” đầy những từ ngữ chính trị mượn của Trung Quốc. Phạm Xuân Ẩn trải qua những cơn mưa lạnh thấu xương của mùa đông Hà Nội, ngủ trên cái giường gỗ với một tấm chăn bông. “Tôi mặc một cái áo bông Trung Quốc khiến tôi nhìn cứ như xác ướp. Tôi hỏi xin một cái áo khoác Nga nhưng vẫn thấy rét như thường, thế là tôi quay lại và hỏi xin một chiếc áo khoác 111 độ. “Làm gì có cái đó?”, [Đó là cái gì?] ông giám đốc học viện hỏi. “Ba cô gái,” tôi nói, “một người ngủ bên phải tôi, một người ngủ bên trái, và một người ngủ bên trên.”
“Họ hoàn toàn không ưa tôi tí nào,” Phạm Xuân Ẩn nói về những giảng viên bồi dưỡng chính trị của mình. “Nhưng tôi chưa phạm sai lầm nào nghiêm trọng đến mức bị kỷ luật cả [bị mang ra bắn cả].”
Phạm Xuân Ẩn bị đẩy vào tình trạng đóng băng về chính trị cả một thập kỷ. Ông bị hạn chế [cấm] gặp gỡ những đồng nghiệp người Mỹ trước đây đến thăm Việt Nam, và xuất hiện nhiều lời đồn đoán về việc tại sao ông bị an trí một nơi. Ông quá thân thiết với người Mỹ, quá hiểu biết, và quá rành chính trị phương Tây. Ông đã để cho trùm mật thám Trần Kim Tuyến trốn thoát. Ông từ chối vạch mặt những đồng nghiệp Việt Nam từng làm việc cho CIA. Có lẽ, như người ta nghe thấy Phạm Xuân Ẩn phàn nàn, cộng sản coi ông như mộtrentier (chủ tô), người thu tiền của những nông dân sống trên đất của mình.
Trong thời gian đó, ông vẫn đang lặng lẽ chờ thời, chờ cho bầu không khí chống Mỹ thay đổi thì Việt Nam lại tiếp tục tham gia vào những cuộc chiến [tiếp tục những cuộc chiến khác, chống lại Khmer đỏ tại Campuchia và đồng minh Trung Quôc của nó.] Ngày 15 tháng 1 năm 1976, ông được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – danh hiệu quân đội cao quý nhất của ViệtNam. Đến năm 1978 ông là trung tá, đến năm 1981 là thượng tá, và đến năm 1984 thì lên đại tá. Năm 1990, khi vẫn phục vụ trên cương vị một sĩ quan đang công tác, ông đã được thăng quân hàm cấp tướng.
Khi nhìn ra Sài Gòn qua cánh cổng ngôi biệt thự nơi ông ở, Phạm Xuân Ẩn vẫn chưa thấy dấu hiệu của thiên đường [thiên đường cộng sản].
*
*
Trong bảng liệt kê sau đây, chúng tôi chỉ đối chiếu những chỗ bị sửa đổi và cắt bỏ rõ ràng do kiểm duyệt; các sửa đổi có thể vì những lí do khác, không nhất thiết do kiểm duyệt, không được đưa vào danh sách này. Những chỗ bị cắt được in đậm.
Số thứ tự | Số chương và trang theo bản in tiếng Việt | Nguyên bản tiếng Anh | Bản dịch của Đỗ Tuấn Kiệt, Nhã Nam và Hồng Đức xuất bản | Phần bổ sung và hiệu đính của Bùi Xuân Bách, pro&contra |
1 | Bìa | The Spy Who Loved Us. The Vietnam War and Pham Xuan An’s Dangerous Game | Điệp viên Z21, Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ. (bị cắt) | Điệp viên yêu chúng ta. Chiến tranh Việt Nam và trò chơi nguy hiểm của Phạm Xuân Ẩn |
2 | Mục lục9 | The Work of Hunting Dogs | Công việc của một điệp viên | Công việc của bầy chó săn |
3 | I, 18 | General Giap and Ho Chi Minh | Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Chủ tịch Hồ Chí Minh | Tướng Giáp và Hồ Chí Minh |
4 | 19 | forbidden to meet Western visitors | bị hạn chế tiếp xúc với khách phương Tây | bị cấm tiếp xúc với khách phương Tây |
5 | 20 | when there was nothing but betrayal in the air | (bị cắt) | khi lan tràn khắp nơi chẳng có gì khác ngoài sự phản bội. |
6 | 25 | Ho Chi Minh and Geneal Giap | Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp | Hồ Chí Minh và Tướng Giáp |
7 | 29 | the spy who loved us | người điệp viên hiểu nước Mỹ | điệp viên yêu chúng ta |
8 | II, 34 | hell is reserved for crooks, but there are so many of them in Vietnam, it´s full. | địa ngục thì dành riêng cho những kẻ lừa đảo, nhưng (bị cắt) cũng chật cả rồi.” | địa ngục thì dành riêng cho những kẻ lừa đảo, nhưng ở Việt Nam loại đó quá nhiều, nên địa ngụccũng chật cả rồi.” |
9 | 35 | It´s because I was born in an insane asylum that some people say my blood was infected by the ‚virus‘ of Communism. An was born in a psychiatric hospital? That´s why he follows the Communists. He´s crazy!“ | “Do tôi được sinh ra trong một nhà thương điên nên nhiều người nói rằng: (bị cắt) Ẩn được sinh ra trong một nhà thương điên hả? Thảo nào (bị cắt)… Chả bị điên rồi! | “Do tôi được sinh ra trong một nhà thương điên nên nhiều người nói rằng máu tôi bị nhiễm virus cộng sản: Ẩn được sinh ra trong một nhà thương điên hả? Thảo nào chả theo cộng sản… Chả điên mà.” |
10 | 36 | „It was sent to Ho Chi Minh for the gold campaign“, he says, referring to the massive bribe that Ho paid the Chinese army in 1946 to convince them to withdraw from nothern Vietnam after World War II. | “Nó đã được gửi tới chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp Tuần lễ vàng.” (bị cắt) | Nó đã được gửi tới Hồ Chí Minh trong dịp Tuần lễ vàng.”, ông nói, nhắc tới món tiền hối lộ khổng lồ mà Hồ trả cho quân đội Trung Hoa năm 1946 để thuyết phục họ rút ra khỏi Việt Nam sau Thế chiến thứ hai. |
11 | 38 | call the nam tien – the march to the south | gọi là khai phá vùng đất phương Nam | gọi là Nam tiến– tiến xuống miền Nam. |
12 | 38 | nam tien | đấu tranh ở miền Nam | Nam tiến |
13 | 38 | the nam tien | công cuộc thống nhất đất nước | công cuộc Nam tiến |
14 | 38 | In fact, he could be said to have brought it to its end. | Thực ra, có thể nói rằng chính ông đã góp phần đưa nó đến chỗ kết thúc. | Thực ra, có thể nói rằng chính ông đã đưa nó đến chỗ kết thúc. |
15 | 38 | after all of Vietnam´s invaders – Chinese, French, Japanese, American and Cambodian – had been expelled | sau khi tất cả những kẻ xâm lược Việt Nam – (bị cắt) đã bị đánh đuổi | sau khi tất cả những kẻ xâm lược Việt Nam – Trung Quốc, Pháp, Nhật, Mỹ và Campuchia– đã bị đánh đuổi |
16 | 38 | Like many Vietnamese, An traces his ancestry… | (bị cắt) Tổ tiên của Phạm Xuân Ẩn | Cũng như nhiều người Việt, tổ tiên của Phạm Xuân Ẩn |
17 | 39 | We migrated from Hanoi to central Vienam | Chúng tôi di cư (bị cắt) tới miền Trung Việt Nam | Chúng tôi di cư từ Hà Nội tới miền Trung Việt Nam |
18 | 40 | Enemies from the north (Genghis Khan and the Chinese and Japanese), the east (Portugal, France, and America), and the West (Laos, Khmers, Indians, and Thais) | kẻ thù từ phương Bắc (bị cắt), và từ phương Tây (bị cắt) | kẻ thù từ phương Bắc (Thành Cát Tư Hãn, cùng Trung Quốc và Nhật Bản), phương Đông (Bồ Đào Nha, Pháp và Mỹ) và từ phương Tây (Lào, Khmer, Ấn Độ và Thái) |
19 | 41 | Chinese occupation | sự đô hộ của phong kiến phương Bắc | sự đô hộ của Trung Quốc |
20 | 41 | They taught the Vietnamese about nationalism | Người Pháp đã truyền bá chủ nghĩa dân tộc | Họ đã dạy cho người Việt về chủ nghĩa dân tộc |
21 | 42 | and arrested anyone who used it | (bị cắt) | và bắt giam bất kỳ ai sử dụng nó |
22 | 42 | “The map of Vietnam was made by the French”, An says. “Before they arrived we had no nation. The high plateaus belonged to the Montagnards. Other parts belonged to the Cham or Khmer.” | (bị cắt) | “Bản đồ Việt Nam do người Pháp lập ra”, Phạm Xuân Ẩn nói. “Trước khi họ đến chúng tôi chưa có quốc gia. Những vùng cao nguyên thuộc về các dân tộc người Thượng. Những khu vực còn lại thuộc về người Chăm hoặc người Khmer.” |
23 | 43 | National Liberation Front (the coliation of southern revolutionaries whose armed forces were known as the Vietcong) | Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (bị cắt) | Mặt trận Dân tộc Giải phóng(liên minh của những người cách mạng miền Nam với lực lượng vũ trang được gọi tắt là Việt Cộng) |
24 | 43 | NLF | Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam | Mặt trận Dân tộc Giải phóng |
25 | 44 | the South China Sea – or Eastern Sea, as the Vietnamese insist on calling it | (bị cắt) Biển Đông | Biển Nam Trung Hoa – hayBiển Đông như cách mà người Việt Nam luôn gọi |
26 | 46 | To Huu | T.H | Tố Hữu |
27 | 46 | one of North Vietnam´s greatest poets and politicians | một trong những nhà thơ và nhà chính trị lớn của Bắc Việt Nam | một trong những nhà thơ và nhà chính trị lớn nhất của Bắc Việt Nam |
28 | 47 | Vietnam´s southward march | công cuộc khai phá vùng đất Phương Nam | công cuộc Nam tiến |
29 | 49 | This vast area of swamps and mangrove forests bordering the Gulf of Thailand marks the end of the road in the Vietnam´s southward march. | (bị cắt) | Khu vực rộng mênh mông gồm những đầm lầy và rừng đước nằm sát Vịnh Thái Lan này đánh dấu sự kết thúc công cuộc Nam tiến của Việt Nam. |
30 | 52 | It´s utopian | Khó | Không tưởng |
31 | 52 | As a political analyst, An knew that Communism was a failed god, responsible for millions of deaths in the twentieth century, and he knew intimately the limits of the Communist regime under which he lived. | Là một nhà phân tích chính trị, Phạm Xuân Ẩn (bị cắt) hiểu những hạn chế của chế độ cộng sản mà ông sống | Là một nhà phân tích chính trị, Phạm Xuân Ẩn biết rằng chủ nghĩa cộng sản là một “vị thần đã thất bại”, chịu trách nhiệm về cái chết của nhiều triệu người, ông biết quá rõ những hạn chế của chế độ cộng sản mà ông đã sống. |
32 | 53 | against the Japanese, French, Americans, Chinese, Cambodians | chống lại người Nhật, người Pháp, người Mỹ (bị cắt) | chống lại người Nhật, người Pháp, người Mỹ, người Trung Quốc, người Campuchia |
33 | 59 | Can Tho was originally settled by Khmer krom – downstream Cambodians – who ruled until the end of seventeenth century, when the Nguyen lords began to expand their influence southward. By the 1860s, the French had taken control of the delta and set to work draining and canalizing the marshy land into rice plantations – a project begun eighteen centuries earlier by Indian traders. | (bị cắt) | Trước kia Cần Thơ là nơi sinh sống của người Khmer Krom – tức người Thủy Chân Lạp – những người cai quản vùng này cho đến cuối thế kỷ mười bảy, khi các Chúa Nguyễn bắt đầu mở rộng ảnh hưởng của mình về phương Nam. Đến những năm 1860, người Pháp đã kiểm soát vùng châu thổ và bắt tay vào việc rút nước và đào kênh rạch biến vùng đầm lầy thành những đồn điền lúa gạo – một công trình được các thương nhân Ấn Độ bắt đầu từ mười tám thế kỷ trước đó. |
34 | 65 | Vietnam has a long tradition of criminal gangs | Việt Nam có khá nhiều những băng đảng tội phạm | Việt Nam có truyền thống lâu đời về những băng đảng tội phạm |
35 | 65 | A graduate of the Poulo Condore prison camp, | Là một kẻ từng trở về từ nhà tù (bị cắt) | Là một kẻ từng tốt nghiệp nhà tù Côn Đảo |
36 | 65 | In one sense… in Champa. | (bị cắt 20 dòng) | Xét theo một khía cạnh, toàn bộ lịch sử Việt Nam – tất cả năm mươi thế kỷ đó – có thể được xem như sự tiếp nối dài dằng dặc của cuộc tranh giành giữa những băng đảng. Việt Nam là một giao lộ khổng lồ, một cái nồi hầm đúng nghĩa đối với tất cả các nền văn hóa, dường như tất cả đều đến cắm cọc ở vùng đất này, vì nó là nơi xa quê hương nhất mà người ta tới được. Việt Nam là nơi người ta tìm đến sau một cuộc cách mạng thất bại ở Trung Quốc, Ấn Độ, Campuchia, hoặc Pháp. Nó là vùng đất của những tên cướp biển, những kẻ lưu đày, thủ lĩnh, và các băng đảng tội phạm, tất cả đều hỗn chiến với nhau trong bóng tối của những khu rừng rậm và đồng bằng nhiệt đới luôn có lũ lụt trên đất nước này.Việt Nam là tên gọi xuất phát từ Nam Việt, nghĩa là những người Việt ở “phương Nam”, những người bị buộc phải di cư từ vùng đầu nguồn sông Mê Công ở Tây Tạng xuống vùng châu thổ sông Hồng và sông Đà. Khi người Việt tiếp tục đi xuống phía Nam, họ tiếp xúc với những nhóm người đến từ Ấn Độ, Campuchia và Mã Lai đã định cư ở các khu vực màu mỡ trồng lúa của vùng châu thổ sông Mê Công. Lịch sử tranh chấp của vùng châu thổ bắt đầu nổi lên từ thế kỷ đầu tiên của Công lịch, khi nền văn minh chịu ảnh hưởng của Ấn Độ là Phù Nam được thiết lập. Phù Nam có những thành quách kiên cố với đầy đủ các thư viện và thợ bạc cùng một hạm đội mạnh, cho phép nó kiểm soát được những vùng ven biển của Việt Nam. Ở phía Bắc vương quốc Phù Nam, một nền văn hóa khác chịu ảnh hưởng của Ấn Độ bắt rễ ở đây, tức là nước Chăm Pa. |
37 | 66 | a new band of pirates – the French | (bị cắt) người Pháp | một băng cướp biển mới -người Pháp |
38 | 66 | Cambodia fell in 1863 | (bị cắt) | Campuchia sụp đổ năm 1863 |
39 | 66 | the entire region | toàn bộ nước Việt Nam | toàn bộ khu vực này |
40 | 69-70 | Whenever An and I talk about his Party allegiance, it is the benevolent gods of Communism whom he chooses to worship | Mỗi khi Phạm Xuân Ẩn và tôi nói về lòng trung thành của ông với Đảng, ông thường tỏ ra ngưỡng mộ những bậc tiền bối cao cả của chủ nghĩa cộng sản | Mỗi khi Phạm Xuân Ẩn và tôi nói về lòng trung thành của ông với Đảng, ấy là những bậc thánh nhân từ của chủ nghĩa cộng sảnmà ông đã chọn để sùng bái |
41 | 70 | We were fighting not for Communism but for independence and the unity of Vietnam | “Chúng tôi đấu tranh (bị cắt) trước hết vì độc lập và thống nhất của Việt Nam,” | “Chúng tôi chiến đấu không phải vì Chủ nghĩa cộng sản, mà vì độc lập và thống nhất của Việt Nam,” |
42 | 70 | This is different from fighting for Cummunism | (bị cắt) | Điều đó khác với đấu tranh vì Chủ nghĩa cộng sản |
43 | 70 | What was known as the August Revolution | sự kiện (bị cắt) Cách mạng tháng Tám | sự kiện được gọi là Cách mạng tháng Tám |
44 | 70 | Ho Chi Minh | Chủ tịch Hồ Chí Minh | Hồ Chí Minh |
45 | 70 | the Chinese | quân Tưởng | quân Trung Quốc |
46 | 72 | By then he had lost eveything, all of his father´s estates and property. Today he lives in Saigon, a poor man. This happened to many children of landowners. Their parents were killed by the Communists during the revolution, but they continued to serve their country. | (bị cắt) | Đến lúc này thì ông ta đã mất tất cả mọi thứ, toàn bộ tài sản và của cải của cha mình. Hiện giờ ông ta đang sống ở Sài Gòn, một người đàn ông nghèo khổ. Chuyện này xảy ra với rất nhiều con cái những người điền chủ. Cha mẹ họ bị cộng sản giết trong cuộc cách mạng, nhưng họ vẫn tiếp tục phục vụ tổ quốc của mình. |
47 | 77 | Truong Vinh Khanh was ambushed by the Communists and killed in a roadside attack. | Trương Vĩnh Khánh bị (bị cắt) bắn nhầm trong một cuộc phục kích bên đường. | Trương Vĩnh Khánh bị Cộng sản phục kích và bắn chết trong một cuộc tấn công bên đường |
48 | 77 | They were aiming for the prime minister, a Cao Dai optometrist named Le Van Hoach, but they got Khanh instead. | (bị cắt) | Họ đang nhắm vào viên thủ tướng, một bác sĩ nhãn khoa theo đạo Cao Đài tên là Lê Văn Hoạch, nhưng thế nào họ lại bắn đúng vào ông Khánh. |
49 | 77 | The Communists ambushed… | đã bị (bị cắt) phục kích | đã bị Cộng sản phục kích |
50 | 77 | assassinated | đã bắn nhầm | đã sát hại |
51 | 77 | the tragedy of modern Vietnam | bi kịch của chiến tranh | bi kịch của nước Việt Nam hiện đại |
52 | III, 79 | The Work of Hunting Dogs | Công việc của một điệp viên | Công việc của bầy chó săn |
53 | 85 | ten thousand | hàng nghìn | mười nghìn |
54 | 86 | Bobby described Ho Chi Minh as „an old Communist agitator“ who had no popular support in Vietnam | Bobby miêu tả Chủ tịch Hồ Chí Minh như (bị cắt) là không nhận được mấy sự ủng hộ tại Việt Nam | Bobby miêu tả Chủ tịch Hồ Chí Minh như là một nhà xách động cộng sản già không nhận được mấy sự ủng hộ tại Việt Nam |
55 | 86 | The journalist told the Kennedys about Vietnam´s long-standing hatred of the Chinese – the reason why Ho Chi Minh would never bring Chinese troops into the war. | (bị cắt) | Tay ký giả cho anh em nhà Kennedy biết về lòng căm thù lâu đời của Việt Nam đối với người Trung Quốc – lý do tại sao Hồ Chí Minh sẽ không bao giờ đưa quân Trung Quốc vào cuộc chiến ở Việt Nam. |
56 | 99 | vagina | địa đạo | âm đạo |
57 | 100 | Half of these men would die on a five-hundred-mile forced march down from the mountains to the cost. | (bị cắt) | Một nửa số người này sau đó đã chết trên chặng đường áp giải dài năm trăm dặm từ vùng núi xuống vùng ven biển. |
58 | 104 | the Vietnamese never won the Vietnam war… he says | (bị cắt) | người Việt chưa bao giờ thắng trong cuộc Chiến tranh Việt Nam… ông nói |
59 | 104 | The Americans didn´t lose the war in Vietnam | Người Mỹ đã rút lui khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam | Người Mỹ không hề thua trong cuộc Chiến tranh Việt Nam |
60 | 104 | It wasn´t the fault of those who built the house that it collapsed. It was the fault of those who lived in it. | (bị cắt) | Việc ngôi nhà bị đổ đâu phải do lỗi của những người xây. Lỗi là của những người sống trong ngôi nhà đó. |
61 | 112 | And torture him | (bị cắt) | và tra tấn ông |
62 | 113 | being tortured | bị bắt | bị tra tấn |
63 | IV, 122 | To create a nation where none had previously existed was like Picasso facing a blank canvas. | (bị cắt) | Việc tạo ra một quốc gia từ nơi trước đó không hề có quốc gia nào tồn tại chẳng khác nào Picasso đang đối mặt với tấm bố trắng. |
64 | 131 | For highlighting Communist perfidy | tuyên truyền (bị cắt) chống cộng sản | nêu bật bản chất xảo trá của cộng sản |
65 | 133 | Communist | Việt Minh | Cộng sản |
133 | making it the largest Viet Minh force in Cochin China. This same year the Viet Minh launched a wave of terror attacks against the French. | (bị cắt) | trở thành lực lượng Việt Minh hùng hậu nhất ở Nam bộ. Cũng trong năm đó, Việt Minh đã tiến hành một loạt những cuộc tấn công khủng bố nhắm vào người Pháp. | |
66 | 135 | More troops were involved in the battle than in the Tet Offensive of 1968, and the fighting was almost as destructive. | (bị cắt) | Số lính được huy động vào trận đánh này còn lớn hơn hối Mậu Thân 1968 và sự tàn phá cũng gần bằng |
67 | 139 | could incorporate into their own authoritarian regime | cũng có thể lợi dụng (bị cắt) | cũng có thể đem nhập vào cái chế độ toàn trị của họ |
68 | 147 | national hero | anh hùng (bị cắt) | anh hùng dân tộc |
69 | 154 | It was almost a carbon copy of the Commusnist Party as an organizational weapon | (bị cắt) | Nó gần như một bản sao chép nguyên xi của Đảng Cộng sản như là một vũ khí về tổ chức. |
70 | 155 | How simple it would be to swap the real thing for the carbon copy. | Như vậy đơn giản làm sao! (bị cắt) | Sẽ đơn giản biết bao khi chỉ cần thay thế đồ thật bằng bản sao y hệt của nó. |
71 | 159 | resistant to the training and intoxication of the Communists | khó tiếp thu với bất cứ sự đào tạo nào khác (bị cắt) | khó tiếp thu sự đào tạo và nhồi nhét của cộng sản |
72 | 159 | He corrects himself: „I mean to sayindoctrination of the Communists. Unfortunately… | (bị cắt) | Ông nói chữa lại “Ý tôi muốn nói là sự quán triệt học thuyết của những người cộng sản. Tiếc là… |
73 | 160 | This is how we describe the job of the adviser. It is the work of toads. | (bị cắt) | Đấy là những gì chúng ta miêu tả về công việc của một cố vấn. Đó là công việc của lũ cóc. |
74 | V, 166 | Vietnamese refugees | người định cư Việt Nam | người tị nạn Việt Nam |
75 | 185 | to hope that one day they would go away | đấu tranh buộc họ phải rút đi | hy vọng một ngày nào đó họ sẽ rút đi |
76 | 185 | inside were fighting day and night | (bị cắt) | bên trong thì chúng tôi đấu đá lẫn nhau suốt ngày đêm |
77 | VI, 207 | Appalled by the mistake, Ho Chi Minh sent an apology | Biết tin này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi lời xin lỗi | Kinh hoàng trước lỗi lầm này, Hồ Chí Minh đã gửi lời xin lỗi |
78 | 207 | The dirty work of tactical intelligence | công việc (bị cắt) của tình báo chiến thuật | công việc bẩn thỉu của tình báo chiến thuật |
79 | VII, 237 | General Loan was actually a very sweet man | Thực ra tướng Loan vốn là một người (bị cắt) tử tế | Thực ra tướng Loan vốn là một người rất tử tế |
80 | 237 | His father was a Communist in the Viet Minh during the French Indochina War. | “Cha ông ta (bị cắt) cũng tham gia Việt Minh | “Cha ông ta cũng là một người cộng sản tham gia Việt Minhtrong cuộc Chiến tranh chống Pháp ở Đông Dương. |
81 | 238 | The same thing is true for the Communist Party, for the atrocities committed on our side | Điều tương tự cũng đúng đối với bất kỳ phe nào. (bị cắt) | Điều này cũng đúng đối với Đảng Cộng sản, vì những hành động tàn ác mà phía chúng tôi đã làm |
82 | 248 | the government | cấp trên | chính phủ |
83 | VIII 252 | The Perfect Crime | Những điệp vụ | Tội ác hoàn hảo |
84 | 270 | which involved sending four hundred thousand people to be „reeducated“ in forced labor and prison camps | (bị cắt) | trong đó có cả việc đưa bốn trăm nghìn người đi “cải tạo” trong các nhà tù và trại tập trung lao động cưỡng bức |
85 | 271 | to win numerous battles that might otherwise have been lost | chiến thắng rất nhiều trận đánh (bị cắt) | chiến thắng rất nhiều trận đánhmà lẽ ra đã thất bại |
86 | 274 | They were poor northerners in tattered clothes and flip-flops, a dour, distrustful race, compared to the more jovial and privileged southerners | (bị cắt) | Họ là những người miền Bắc mặc quần áo rách rưới, đi dép cao su, mẫu người khắc khổ, đa nghi, nếu so với những người miền Nam vui tính và khá giả hơn. |
87 | 282 | a perfect crime | các điệp vụ hoàn hảo | một tội ác hoàn hảo |
88 | 285 | They were killed immediately by the Khmer Rouge | Họ bị Khmer Đỏ giết (bị cắt) | Họ bị Khmer Đỏ giết ngay lập tức |
89 | IX, 297 | General Tran Van Tra – the southern commander who had planned the ambush that killed An´s French teacher | tướng Trần Văn Trà – (bị cắt) | tướng Trần Văn Trà – người chỉ huy ở miền Nam đã lên kế hoạch phục kích giết chết ông thầy Pháp văn của Phạm Xuân Ẩn |
90 | 298 | The attack was a military desaster, with the Communists losing over half of their committed forces in the south and perhaps a quarter of their NVA regular forces from the north. „ The offensive destroyed the Vietcong as a fighting force,“ An says. | (bị cắt) | Cuộc tấn công là một thảm họa về mặt quân sự, với việc Cộng sản thiệt hại hơn một nửa lực lượng trung thành ở miền Nam và có lẽ là một phần tư lực lượng chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Bắc. “Cuộc tấn công đã triệt tiêu Việt Cộng như một lực lượng chiến đấu”, Phạm Xuân Ẩn nói. |
91 | 300 | „The Communists wanted people to take a side,“ he says. „ Either you side with the Communists… I mean, the revolution, or with the puppets. They called the Saigon government the puppet government. The other side they called the revolutionary government.“To hide the fact that it was the real power directing the war in South Vietnam, the Communist Party pretended to defer to the National Liberation Front, which was revolutionary but not necessarily Communist. This is why An corrects himself, striking the c-word from his description. Only after 1975 was it publicly revealed that the NLF was indeed a Communist front. This revelation came as a surprise to some members of the NLF, who were shoved aside after the fall of Saigon. The Front was disbanded and many disillusioned partisans joined the boat people fleeing Vietnam. | (bị cắt) | „Những người cộng sản muốn mọi người phải chọn phe,” ông nói. “Hoặc là đi theo Cộng sản… Ý tôi muốn nói là theo cách mạng, hoặc là theo chính quyền ngụy. Họ gọi chính quyền Sài Gòn là chính quyền ngụy. Phía bên kia thì họ gọi là chính phủ cách mạng.”Để che giấu sự thật rằng mình là thế lực thực sự lãnh đạo chiến tranh tại miền Nam Việt Nam, Đảng Cộng sản tỏ ra chiều theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng, một lực lượng cách mạng nhưng không nhất thiết phải là cộng sản. Đó là lý do tại sao Phạm Xuân Ẩn lỡ lời, khi nói đến từ cộng sản, rồi sửa lại là cách mạng trong lời kể của mình. Phải mãi đến sau năm 1975 mọi chuyện mới được thông báo công khai rằng Mặt trận Dân tộc Giải phóng thực ra là một mặt trận của Cộng sản. Sự thừa nhận này đã làm cho một số thành viên của Mặt trận Dân tộc Giải phóng bị ngỡ ngàng, những người đã bị gạt qua một bên sau khi Sài Gòn sụp đổ. Mặt trận bị giải thể và nhiều người vỡ mộng trong số họ đã hòa cùng dòng thuyền nhân, chạy trốn khỏi Việt Nam. |
92 | 301 | Either you are with the Communists… I mean, the revolution, or you are with the puppets.“ I notice that An is again correcting himself by reflex, omitting mention of the Communists. | (bị cắt) | Hoặc là anh đi theo Cộng sản… Ý tôi là theo cách mạng, hoặc là anh theo ngụy.” Tôi nhận ra một lần nữa Phạm Xuân Ẩn lại lỡ lời, và sửa lại từ cộng sản bằng cách mạng theo phản xạ. |
93 | X, 327 | imprisoned and tortured | bị giam giữ (bị cắt) | bị giam giữ và tra tấn |
94 | 327 | For four and a half of these years, he was shackled at the ankle and held in a box the size of a coffin. | (bị cắt) | Trong bốn năm rưỡi của những năm tháng này, ông ta bị cùm chân và giam trong một cái thùng chỉ có kích thước như một chiếc quan tài. |
95 | 331 | Celebrating the Communist victory | tận hưởng niềm vui chiến thắng của Cộng sản | tận hưởng chiến thắng của Cộng sản |
96 | 331 | barbecue my dogs alive | nướng chả lũ chó của tôi | nướng sống lũ chó của tôi |
97 | 331 | Not even military officials as highly placed as Bui Tin… I still didn´t know An was a spy. | (bị cắt 16 dòng) | Thậm chí cả những sĩ quan quân đội cao cấp như đại tá Bùi Tín cũng không biết câu chuyện về Phạm Xuân Ẩn. Trên cương vị Phó Tổng Biên tập tờ báo của quân đội miền Bắc Việt Nam, ông Bùi Tín đi trên một chiếc xe tăng đến Dinh Độc lập ngày 30 tháng Tư năm 1975. Sau khi chấp nhận sự đầu hàng của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa, ông Bùi Tín ngồi xuống bên chiếc bàn Tổng thống để viết bài cho tờ báo của mình. Giống như hầu hết những nhà báo mới đến Sài Gòn, việc tiếp theo ông làm là đi tìm Phạm Xuân Ẩn. Như Bùi Tín nhớ lại: “Vào buổi sáng ngày mồng 1 tháng Năm, tôi đi tìm Phạm Xuân Ẩn ở văn phòng của ông ấy tại khách sạn Continental Palace. Lúc đó tôi hoàn toàn không biết ông ấy là một điệp viên. Tất cả những gì ông ấy kể với tôi là ông ấy làm phóng viên thường trú cho tờ Time-Life. Ông ấy giới thiệu tôi với tất cả phóng viên trong thành phố, và tôi giúp họ gửi bài viết của mình ra nước ngoài. Ba tháng sau khi chiến tranh kết thúc, tôi vẫn không biết rằng Phạm Xuân Ẩn là một điệp viên. |
98 | 331 | Hints of the power struggle over An – between the military intelligence agents who wanted to send him to the United States and reticent officials in the Politburo – were revealed to Bui Tin only when the government moved to get An´s wife and children repatriated to Vietnam. | (bị cắt) | Những thông tin về sự tranh giành quyền lực đối với Phạm Xuân Ẩn – giữa những chỉ huy tình báo quân sự muốn phái ông sang Mỹ và những lãnh đạo kín đáo trong Bộ Chính trị – chỉ được tiết lộ với Bùi Tín khi chính phủ Việt Nam xúc tiến việc hồi hương cho vợ và các con của Phạm Xuân Ẩn. |
99 | 332 | Between Vietnam´s competing intelligence and security departments | giữa những cơ quan tình báo và an ninh (bị cắt) của Việt Nam | giữa những cơ quan tình báo và an ninh cạnh tranh nhau của Việt Nam |
100 | 332 | National Liberation Front | Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam | Mặt trận Dân tộc Giải phóng |
101 | 332 | as the grey net of state security closed in on the city.“ After 1975, Saigon turned into Hochiminhgrad.“, he says. „They cut off the teletype machine and made every story go through the PTT. They crossed out this, crossed out that. The censorship was so tight it was lile back in the days of Graham Greene. I didn´t file many stories because I didn´t know how to dodge the censors. All the wanted was propaganda for the new regime, so I spent my days going to cockfights and fish fights.“ | (bị cắt) | khi tấm lưới xám xịt của bộ máy an ninh Nhà nước chụp xuống thành phố. “Sau năm 1975, Sài Gòn biến thành HoChiMinhgrad,” ông nói. “Họ cắt bỏ máy điện tín và bắt buộc mọi bài viết phải chuyển qua bưu điện. Họ gạch bỏ chỗ này, gạch bỏ chỗ kia. Chế độ kiểm duyệt khắt khe đến nỗi chẳng khác nào cái thời của Graham Green. Tôi không gửi nhiều bài vì tôi không biết phải luồn lách kiểm duyệt như thế nào. Tất cả những gì họ muốn là tuyên truyền cho chế độ mới, thế là tôi suốt ngày đi xem chọi gà chọi cá.” |
102 | 334 | to be shot | bị kỷ luật | bị mang ra bắn |
103 | 334 | forbidden to meet | bị hạn chế gặp gỡ | bị cấm gặp gỡ |
104 | 334 | Vietnam went on to fight other wars against the Cambodian Khmer Rouge and their Chinese allies | Việt Nam lại tiếp tục tham gia vào những cuộc chiến (bị cắt) | Việt Nam lại tiếp tục những cuộc chiến khác, chống lại Khmer đỏ tại Campuchia và đồng minh Trung Quôc của nó. |
105 | 335 | Communist idyll | thiên đường (bị cắt) | thiên đường cộng sản |
106 | 341 | Chinese | Phong kiến phương Bắc | Trung Quốc |
107 | 343 | „They wanted to controll me… its huge neighbor to the north. | (bị cắt 27 dòng) | “Họ muốn kiểm soát tôi,” ông nói. “Đó là lý do tại sao họ giữ tôi trong quân đội lâu đến thế. Tôi ăn nói văng mạng. Họ muốn giữ cho cái miệng tôi ngậm lại.” Tất cả những gì chúng ta có thể nói chắc chắn là ít nhất ba mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, Phạm Xuân Ẩn vẫn là một thành viên tích cực của ngành tình báo Việt Nam.Thường có chút gì đó cay đắng trong giọng của Phạm Xuân Ẩn khi ông nói về cuộc sống của mình ở Việt Nam thời hậu chiến. Chính phủ có thể là ngu ngốc hoặc tham nhũng. Cơ hội để xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, thịnh vượng đã bị bỏ phí vì những sai lầm về tư tưởng, giống như quyết định năm 1978 về việc quốc doanh hóa thị trường gạo và tịch thu của cải của tư thương thành thị, hậu quả là một làn sóng những thuyền nhân người Việt gốc Hoa rời bỏ đất nước. Nếu như Phạm Xuân Ẩn thỉnh thoảng có chỉ trích giới lãnh đạo Đảng ở Việt Nam, thì ông vẫn dành những nhận xét dữ dội nhất của mình cho Trung Quốc, nước mà ông coi là kẻ thù thường trực của Việt Nam và là kẻ thực dân can thiệp tồi tệ nhất trong lịch sử Việt Nam. Chính Trung Quốc trong những năm 1950 đã ngăn cản Bắc Việt Nam phát động chiến tranh chống Ngô Đình Diệm và người Mỹ. Trong khi Phạm Xuân Ẩn chứng kiến những đồng chí cách mạng của mình ở miền Nam bị quét sạch, thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã thu mình lại, trước đòi hỏi kiên quyết của Trung Quốc. Chỉ mãi đến khi những người miền Nam bắt đầu tự đứng lên đánh Ngô Đình Diệm mà không cần sự thông qua của Hà Nội thì miền Bắc mới muộn màng nhảy vào trận chiến. “Người Trung Quốc sợ bị giập mũi như ở Triều Tiên,” Phạm Xuân Ẩn nói. Chỉ đến khi Mỹ leo thang họ mới buộc phải ủng hộ chúng tôi. Ấy thế mà những người Việt Nam chúng tôi vẫn luôn ngậm miệng. Chúng tôi lúc nào chẳng sợ ông anh cả đến chết khiếp,” Phạm Xuân Ẩn nói, sử dụng cách gọi quen thuộc ở Việt Nam để chỉ người láng giềng khổng lồ phương Bắc của mình. |
108 | 355 | wars against Cambodia and China | những cuộc chiến tranh biên giới (bị cắt) | những cuộc chiến tranh chống Campuchia và Trung Quốc |
109 | 355 | three million people | hàng triệu người | ba triệu người |
110 | 355 | „No one listened to me,“ he complains of the apparatchik who came to power after 1975. | “Có vẻ không ai lắng nghe tôi cả,” ông than phiền sau những ý kiến của ông không có lời phúc đáp. (bị cắt) | “Không ai lắng nghe tôi cả,” ông trách móc những cán bộ cốt cán của Đảng lên nắm quyền sau năm 1975. |
111 | 357 | He dismissively flings aside some newer pictures | ông chỉ (bị cắt) những bức ảnh mới chụp | ông hờ hững gạt qua một bênmấy bức ảnh mới chụp |
112 | XI, 372 | But it´s up to them to decide… An too will get a state funeral. | (bị cắt 8 dòng) | Nhưng kệ cho họ quyết định.”Họở đây là Đảng Cộng sản. Theo thói quen vòng vo của người châu Á hoặc cung cách của một điệp viên là không thích gọi thẳng tên người khác ra. Phạm Xuân Ẩn thường không thích nêu đích danh những cấp trên ngày trước của mình. “Tôi không muốn bất kỳ ai đến viếng mộ mình cả,” ông nói. “Người ta nên dành thời gian và công sức cho những thứ hữu ích hơn. Tôi cũng giống như Hồ Chí Minh; ông ấy cũng đâu muốn có một cái lăng.”Mặc dù đã dặn dò trước trong di chúc của mình, nhưng cuối cùng Hồ Chí Minh vẫn có một cái lăng. Cả Phạm Xuân Ẩn cũng sẽ có một lễ tang theo nghi thức nhà nước. |
113 | 374 | I ask An about another sensitive subject, the T4-TC2 affair… he is correct in describing his side. | (bị cắt 11 dòng) | Tôi hỏi Phạm Xuân Ẩn về một chủ đề nhạy cảm khác, vụ T4-Tổng cục 2. Đó là chuyện hai phe kình chống nhau trong Chính phủ Việt Nam. Phía những người Việt Nam yêu nước lớp trước, chẳng hạn như Tướng Giáp, người tuyên bố rằng sự đe dọa của Trung Quốc và nạn tham nhũng hối lộ đang biến Việt Nam thành một nước chư hầu, đã phát biểu chống lại các phần tử thân Trung Quốc ủng hộ việc khai thác những hầm mỏ còn đang tranh cãi. Khi tôi vừa nhăc đến vụ này, Phạm Xuân Ẩn bước tới cái tủ búp-phê dưới cửa sổ, mở một ngăn kéo, lấy ra bức thư mười bảy trang của Tướng Giáp. “Ông ấy đang than phiền về vụ T4-Tổng cục 2,” Phạm Xuân Ẩn nói về bức thư. “Tôi nghĩ rằng ông ấy đúng, mặc dầu tôi không đứng về phe nào. Tôi đã được huấn luyện để giữ sự khách quan. Tôi cần phải nói rằng ông ấy đúng khi trình bầy phương diện của ông ấy.” |
114 | 374 | This is what they are trying to do with General Giap | (bị cắt) | Đó là chuyện người ta đã cố làm với Tướng Giáp |
115 | 375 | It is hard to know… written by foreigners. | (bị cắt 11 dòng) | Thật khó để biết người Trung Quốc có giở ngón đòn hối lộ hay không. Cái vụ đó liên quan đến quá nhiều những thủ đoạn xảo trá. Giờ chúng tôi chỉ biết được rằng phía Việt Nam đã chôn chặt câu chuyện về cuộc chiến của chúng tôi chống Trung Quốc năm 1979. Chúng tôi đã tẩy rửa sạch sẽ trí nhớ của mình.Phạm Xuân Ẩn kể với tôi rằng ba mươi tướng lĩnh đã ký đơn thỉnh nguyện ủng hộ Tướng Giáp. “Thật nguy hiểm để chọn đứng về một phía,” ông trầm ngâm, trước khi quay lại nhìn tôi. “Cái cách anh viết có thể làm anh đi tù như chơi,” ông nói. “Nguyên nhân chúng tôi không có sách lịch sử Việt Nam do người Việt Nam viết là vì anh không thể nói sự thật. Đó là lý do tại sao tất cả các sách trên giá của tôi đều do người nước ngoài viết.” |
116 | 379 | Be considered dangerous to state security | chưa được tin cậy hoàn toàn | bị coi là nguy hiểm cho an ninh quốc gia |
117 | 379 | Like An´s other American friends, I believed he was his own man, the one free soul in Vietnam who could speak his mind while flying the flag of liberty. | (bị cắt) | Giống như những người bạn Mỹ khác của Phạm Xuân Ẩn, tôi tin rằng ông là con người độc lập, một linh hồn tự do ở Việt Nam, người có thể nói thẳng những suy nghĩ của mình và giương cao ngọn cờ Tự do. |
118 | 379 | „You were only doing your duty… because I speak English.“ | (bị cắt 7 dòng) | “Ông chỉ làm nhiệm vụ của ông thôi mà. Ông là một người yêu nước,” tôi nói, cố làm cho ông dịu lại.“Tất cả người Việt Nam đều là người yêu nước, cho dù họ có bất đồng với đảng cầm quyền,” ông nói. “Nhiều người khác còn can đảm hơn và làm được nhiều hơn những gì tôi đã làm. Họ hy sinh cả gia đình họ. Họ hy sinh cuộc đời họ. Thế nhưng người ta chỉ biết đến tôi vì tôi có bạn Mỹ và vì tôi nói được tiếng Anh. |
119 | 381 | The twelve-part TV series the Party is making about him. The old spy, having come in from the cold, must now fend off the warm embrace of the state. | loạt phim truyền hình mười hai tập về ông (bị cắt) | loạt phim truyền hình mười hai tập mà Đảng (Cộng sản) đang làm về ông. Người điệp viên già từ thời Chiến tranh Lạnh nay lại phải lo chống đỡ sự ôm ấp nồng nhiệt của nhà nước. |
120 | 382 | The Saigon streets… These are not easy times.“ | (bị cắt 64 dòng) | Đường phố Sài Gòn đang tấp nập người mua quà cáp và chuẩn bị cho những ngày lễ mừng năm mới. Đây còn là mùa cưới, nên việc được mời dự đến hai đám cưới một ngày cũng không có gì là lạ. Những sự kiện xa hoa này trong các khách sạn của Sài Gòn có sự tham gia của hàng trăm khách, ban nhạc sống, những suối rượu sâm banh, và cả chủ hôn để mời mọc mọi người dốc cạn cơ man nào là bia và rượu. Sau khi được chụp ảnh nâng cốc chúc mừng hạnh phúc cặp trai gái, các vị khách lại đứng lên loạng choạng trèo lên xe máy trước khi hòa vào dòng giao thông đông đúc của Sài Gòn.Trong khi Việt Nam chuyển mình từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tiêu dùng, thì bức tượng Đức Mẹ Đồng trinh trước nhà thờ xây bằng gạch đỏ của Sài Gòn tỏ biểu hiện bất bình. Bức tượng tô điểm cho một công viên nhỏ hình bầu dục trồng đầy hoa, một điểm yêu thích mà những cô dâu của thành phố tìm đến để chụp ảnh. Gần đây, công viên xinh xắn này còn thu hút một loại đám đông khác. Hàng trăm người đã bắt đầu đổ về đây để chứng kiến những sự kiện lạ lùng trong ngày. Đức Mẹ Đồng trinh Maria đang khóc. Người ta thấy những giọt nước mắt chảy ra trên má bức tượng. Nếu như bạn nghi ngờ, cánh săn ảnh của thành phố sẽ ấn vào tay bạn những bức ảnh chụp rất rõ ràng những giọt nước trào lên trong khóe mắt tượng và dấu vết lấp lánh khi chúng chảy trên mặt tượng. Xúm xít xung quanh là những cô dâu mặc váy dài trắng và đám đông tò mò, cánh thợ ảnh này đang làm ăn rất khấm khá.Trước sự thúc giục của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, vị giám mục đã tuyên bố rằng nước mắt của Đức Mẹ Đồng trinh là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên xuất phát từ việc nước mưa đọng quá nhiều và những trận gió mùa dai dẳng mùa trước. Chẳng ai tin lời ông. Đức Mẹ Đồng trinh đang khóc vì bà buồn rầu. Bà cảm nhận được nỗi đau của người dân. Bà nhìn thấy sự chênh lệch ngày càng gia tăng giữa người giàu và người nghèo ở Việt Nam, tham nhũng và hối lộ tăng lên. Bà thông cảm với những người nông dân bắt buộc phải giết gà của mình sau một đợt cúm gia cầm bùng phát. Bà ủng hộ những người lao động tại các nhà máy sản xuất giầy Nike đang tổ chức đình công, đòi những ông chủ Hàn Quốc ngừng đánh đập và phải trả lương thỏa đáng. Bà ủng hộ những người công nhân may Việt Nam, vốn được trả mức lương còn bèo bọt hơn cả những công nhân giày của Nike – bốn mươi đô la một tháng ở thành phố và ở vùng nông thôn thì chỉ có ba mươi đô la một tháng– và cũng đang đình công. Bà biết nỗi đau của sự kiện ngày 11 tháng 9 và xót xa vì thế giới đang tự khủng bố mình bằng lòng hận thù giết chết chủ yếu phụ nữ và trẻ em. Vòng tay dịu dàng của Đức Mẹ Đồng trinh, sự bao dung và nhân từ của Người, không còn đủ để chữa lành thế giới này khỏi nỗi đau.Đức Mẹ Đồng trinh trong công viên đã trở thành điểm hành hương cho những người Việt Nam ở xa tận ngoài Hà Nội. Vị giám mục cố tìm cách giải tán họ, nhưng ai cũng cho rằng những tuyên bố của ông là do Chính phủ viết thay. “Người Việt Nam có một cách giải thích sâu xa cho tất cả,” một người bạn giải thích. Có thể nói rằng họ là những người tán chuyện đại tài. Họ lấp đầy những quán cà phê và quán bia vỉa hè của thành phố với những tốp người sôi nổi chuyện trò luôn mồm. Trong một tràng rộn ràng những câu chuyện tiếu lâm, những câu cách ngôn, và cả chuyện tầm phào, họ mổ xẻ chính trị, phân tích tình hình thế giới, chia sẻ các công thức nấu ăn, hát hò, ngâm thơ. Lúc duy nhất tôi nghe thấy màn huyên thuyên này lắng xuống là khi tôi đứng giữa đám đông đang chăm chú nhìn lên mặt Đức Mẹ Đồng trinh.Một đêm, khi đang lững thững bước trở về Khách sạn Continental sau bữa tối, mấy người bạn và tôi nhận ra đám đông mọi khi đang đứng trước tượng Đức Mẹ. “Tôi tin chắc những gì họ thấy trên mặt bức tượng chỉ là phân chim bồ câu ấy mà,” Thắng nói. Ở Việt Nam vào mùa Thu thường có những cơn mưa dai dẳng, kéo dài cả ngày Giáng sinh. Trời cũng chợt lạnh bất thường, khiến khắp nơi trở nên ẩm ướt và u ám. Những cây mai, loại hoa bình thường vẫn nở vào dịp Tết của người Việt Nam và tượng trưng cho sự thịnh vượng và hạnh phúc của đất nước, năm nay sẽ không nở. “Có thể là có chuyện gì đó thật,” anh thừa nhận. “Đầu tiên chúng tôi có một trận động đất ở Sài Gòn. Sau đó lại đến dịch cúm gia cầm. Giờ thì đến chuyện công nhân đình công và các quan chức chính phủ bị truy tố vì tham nhũng. Đây không phải là quãng thời gian dễ dàng gì.” |
121 | 382 | You wouldn´t stop talking, An, he said. So they finally had to shut you up. An smiled with his eyebrows. | (bị cắt) | Tại ông không chịu thôi nói chuyện đấy mà, Ẩn ạ, ông bạn nói. Nên cuối cùng người ta phải làm cho ông ngậm miệng lại. Phạm Xuân Ẩn mỉm cười bằng cặp lông mày. |
122 | Ghi nhận391 | Tran Tu Thanh, Bui Tin, Seymour Topping | Trần Tử Thanh, (bị cắt), Seymour Topping | Trần Tử Thanh, Bùi Tín, Seymour Topping |
123 | Chú thích395 | The Work of Hunting Dogs | Công việc của một điệp viên | Công việc của bầy chó săn |
124 | 401 | The Perfect Crime | Nhiệm vụ hoàn hảo | Tội ác hoàn hảo |
125 | 404 | The contrary view… he was promoted to General. | (bị cắt 32 dòng) | Quan điểm trái ngược được đưa một cách mạnh mẽ nhất từ người bạn và nhà báo đồng nghiệp của Phạm Xuân Ẩn là Bùi Tín. Bản thân ông cũng là một đại tá và quan chức cao cấp trong Đảng cho đến khi ông trốn sang Pháp năm 1990. Trong thời gian một năm Phạm Xuân Ẩn học tại Học viện Chính trị Quốc gia Nguyễn Ái Quốc, những ngày Chủ nhật ông thường tới nhà Bùi Tín ở Hà Nội ăn trưa, chợp mắt, và phàn nàn về chương trình học cứng nhắc về mặt chính trị và nặng tính tuyên truyền cộng sản, theo lời kể của Bùi Tín.Theo Bùi Tín, việc quân đội thăng quân hàm cho Phạm Xuân Ẩn vừa chậm vừa miễn cưỡng. (Ngay cả ngày tháng thăng quân hàm cũng là một vấn đề tranh cãi.) Bùi Tín nói rằng, từ năm 1945 đến 1947, Phạm Xuân Ẩn đã chỉ huy một tiểu đoàn chiến đấu chống Pháp ở miền Nam. Đến năm 1955 ông giữ một chức vụ trong hàng ngũ cộng sản tương đương với một thiếu tá. Ôngvẫn giữ nguyên cấp bậc này trong suốt hai mươi năm sau đó, trong khi hoạt động trên cương vị điệp viên xuất sắc nhất của Việt Nam. Theo Bùi Tín, Phạm Xuân Ẩn được thăng quân hàm lên cấp trung tá năm 1976, cùng năm ông được phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. “Đây là một sự xúc phạm lớn,” Bùi Tín nói. “Khi chiến tranh kết thúc rất nhiều người được thăng vài bậc, lên thẳng cấp cao. Lẽ ra họ phải phong ngay cho Phạm Xuân Ẩn quân hàm đại tá.”“Những người cộng sản nghi ngờ ông ấy,” Bùi Tín nói. “Ông ấy nuôi chó – một thú chơi tư sản – và ông ấy có quá nhiều bạn bè phương Tây. Họ ngăn ông ấy ra nước ngoài và tiếp khách, rồi họ đặt ông ấy vào chế độ theo dõi nghiêm ngặt.” Ngay cả sau khi những biện pháp giám sát này được nới lỏng trong những năm 1990, Phạm Xuân Ẩn vẫn không thể tiếp khách mà không được phép, và ông phải viết báo cáo về những cuộc trò chuyện của mình. Năm 1980, tiếp sau cái năm ông được đi bồi dưỡng giác ngộ chính trị, Phạm Xuân Ẩn được phong lên quân hàm thượng tá. Mãi đến năm 1982 ông mới lên quân hàm đại tá. Sau đó đến năm 1990, ở tuổi sáu mươi ba, ông được phong quân hàm thiếu tướng. |
© 2014 Bùi Xuân Bách & pro&contra & Thomas A. Bass
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét