Trong bài tác giả cho chúng ta biết “có hàng loạt các hành động của chính quyền Việt Nam và Pháp từ thế kỷ 18 cung cấp bằng chứng không thể chối cãi được là Việt Nam đã liên tục kiểm soát quần đảo Hoàng Sa một cách bình yên và có hiệu quả. Chủ quyền Việt Nam lần đầu tiên được thành lập vào thế kỷ 18 do Công ty Hoàng Sa được chính phủ tài trợ và được phê chuẩn bởi các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng vào thế kỷ 19; được tạm thời tiếp tục thừa hành bởi người Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20. Sau đó đã được công khai bình thường hóa bởi quốc gia độc lập miền Nam Việt Nam sau khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương vào năm 1956, và nối tiếp bởi một nước Việt Nam thống nhất sau năm 1976”. --LTP.
***
Trong thời gian nửa đầu năm 2014 người ta thấy có sự gia tăng đáng kể những hành vi hung hăng của Trung cộng khi nước này tiếp tục chiến dịch cắt biển của họ ở Biển Đông. Bắc Kinh tìm cách thay đổi hiện trạng trong khu vực để củng cố việc tuyên bố chủ quyền của họ trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như các vùng biển kề cận.
Trong tháng hai, Trung cộng đã bắt đầu một dự án thu hồi lãnh thổ quy mô lớn tại Johnson South Reef trong quần đảo Trường Sa, trong đó có thể chứa một sân bay quân sự mới của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) để kiểm soát các tuyến đường biển chiến lược trong khu vực xuyên qua Biển Đông. Các tháng tiếp theo, chính quyền Trung cộng bắt đầu thực thi các quy định đánh cá mới đòi hỏi phải có tàu cá nước ngoài để được phê duyệt trước khi hoạt động trong hơn 2 triệu cây số vuông, cộng với không gian đại dương bao quanh bởi “đường chín đoạn” khét tiếng của Trung cộng.
Vào tháng Năm, Trung cộng đặt một giàn khoan dầu biển sâu (HD 981) tại một vị trí cách ngoài khơi bờ biển Việt Nam 120 hải lý và bắt đầu khoan dầu ở vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Tàu chiến của Hải quân Trung cộng và tàu tuần tra khác của chính phủ, cũng như một số lượng lớn tàu cá dân sự, đã được điều động và bố trí chặt chẽ để bảo vệ hoạt động khoan dầu. Trong tuần sau đó, những chiếc tàu của Cục An toàn Hàng hải Trung cộng đã ngăn cản sự tái tiếp tế của 10 đơn vị thủy quân lục chiến Philippines đồn trú trên tàu BRP Sierra Madre vùng biển đánh cá lớn thứ nhì (Thomas Shoal) trong quần đảo Trường Sa, mặc dù các đội ngũ trên tàu quân sự này của Philippines đã được thường xuyên tái tiếp tế kể từ năm 1999.
Cuối cùng, trong sự đối đáp hiển nhiên về một đề xuất của Mỹ tại Diễn đàn Khối ASEAN nhằm ngăn chận tất cả hành động khiêu khích ở Biển Đông, Bắc Kinh công bố vào tháng Tám rằng họ sẽ xây dựng các ngọn hải đăng có năm tính năng, bao gồm hai hòn đảo nhỏ trong quần đảo Hoàng Sa, mà họ tự cho là nhằm tăng cường an toàn hàng hải. Hai tuần sau, một chiến đấu cơ của Trung cộng, Su-27, tiến hành một cuộc xung kích nguy hiểm, đánh chặn chiếc phi cơ thám thính, P-8, của Hải quân Hoa Kỳ khi đang tuần tra giám sát thường xuyên qua vị trí cách đảo Hải Nam 135 dặm về phía đông. Điều này gợi nhớ biến cố EP-3 hồi năm 2001, khi máy bay chiến đấu Trung cộng thực hiện nhiều vòng bay lướt bên dưới và cạnh chiếc phi cơ thám thính P-8 của Hoa Kỳ trước khi thực hiện một cú bay lộn mèo, lăn tròn và đảo lộn trên đầu chiếc máy bay Mỹ, chỉ cách chiếc máy bay này trong khoảng từ 20 tới 30 feet, tức là từ khoảng 6m tới 9m mà thôi.
Trung cộng biện minh cho những hành động này qua tuyên bố rằng họ có “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các đảo ở Biển Đông và các vùng biển kế cạnh, cũng như chủ quyền và quyền tài phán trên các vùng biển và đáy biển có liên quan bao gồm trong “đường chín đoạn.” Tuy nhiên, qua việc xem xét kỹ các ghi chép lịch sử và pháp luật, người ta thấy rằng các tuyên bố của Trung cộng ở Biển Đông là vô căn cứ.
Trung cộng tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa dựa trên sự trưng bày rộng rãi và liên tục của chính quyền đối với quần đảo sau khi họ phát hiện các chứng tích trong triều đại nhà Hán. Mặc dù thủy thủ Trung cộng có thể đã biết có sự tồn tại của những hòn đảo ở Biển Đông, nhưng không có bằng chứng cụ thể cho thấy rằng Trung cộng thực sự đã “phát hiện” những hòn đảo này trước khi có sự xuất hiện của những người đi biển từ các vương quốc láng giềng của họ, bao gồm Việt Nam, Malaysia, Indonesia, và Philippines.
Hơn nữa, cho dù Trung cộng đã phát hiện ra các đảo, luật pháp quốc tế xác định rõ ràng rằng việc khám phá mà không có các hành động chiếm giữ và kiểm soát hiệu quả tiếp theo thì tự nó không cho là có chủ quyền lãnh thổ được. Hiệu quả chiếm giữ đòi hỏi phải có ý định hành động chủ quyền và một số thực hành hoặc hiển thị chủ quyền đó. Mặc dù không có bằng chứng chủ quyền đáng tin cậy, Trung cộng đã lặng lẽ và liên tục chiếm đóng quần đảo, hoặc thực hiện thẩm quyền của họ trên các đảo này.
Hầu hết Trung cộng dựa trên các dữ kiện cho thấy ngư dân Trung cộng từng sống rải rác trên một số quần đảo Trường Sa trong thời gian ngắn. Tuy nhiên theo luật pháp quốc tế thì những hành vi cá nhân không đủ điều kiện để coi là hành động của “nhà nước” trừ phi ngay sau đó được theo dõi hay bị xử phạt bởi các cơ quan chính phủ. Không có bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy chính phủ Trung cộng từng ủy quyền hoặc sau đó xử phạt các hành vi nêu trên.
Các hành vi có thể kiểm chứng đầu tiên về chủ quyền của Trung cộng trên quần đảo Hoàng Sa đã không xảy ra cho đến năm 1909. Tuy nhiên những hành vi này đã xảy ra gần 100 năm sau khi vua Gia Long của Việt Nam chính thức chiếm hữu các quần đảo này vào năm 1816. Việt Nam và Pháp đã quản lý hiệu quả và liên tục các hòn đảo này cho đến khi họ bị trục xuất bởi quân đội Nhật Bản trong Thế chiến II.
Hành động có thể kiểm chứng đầu tiên của Trung cộng về chủ quyền ở quần đảo Trường Sa xảy ra sau đó nữa, vào năm 1933, và cũng sau khi Pháp công khai tuyên bố chủ quyền vào năm 1929 với lý do là các đảo này vô chủ. Pháp chính thức chiếm đóng các đảo này vào năm 1933 đồng thời sáp nhập vào quần đảo Trường Sa. Sự chiếm hữu như vậy vẫn còn là một phương pháp được công nhận chủ quyền lãnh thổ theo luật quốc tế. Tính chất hợp pháp này được tiếp tục tồn tại cho đến khi Hiến chương Liên Hiệp Quốc ra đời có hiệu lực vào tháng Mười năm 1945.
Trung cộng cũng tin cậy vào một số điều trong Công ước Quốc tế về việc chứng minh chủ quyền trên các đảo ở Biển Đông. Tuy nhiên, theo các điều trong Công ước Quốc tế thì các tài liệu và báo cáo của Trung cộng muốn chứng minh chủ quyền của mình đối với các đảo ở Biển Đông hoàn toàn không hỗ trợ vị trí của Bắc Kinh. Nói một cách khác, dựa theo Công ước Quốc tế thì Trung cộng không có chủ quyền trên các đảo ở Biển Đông.
Trung cộng cho rằng nước Pháp từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi ký kết Hiệp ước Trung-Pháp năm 1887. Tuy nhiên luận cứ này của Trung cộng không được hỗ trợ bởi nội dung đơn giản của Hiệp ước hoặc bởi các hành động tiếp theo của các bên tranh chấp. Đường ranh giới được thành lập bởi Hiệp ước năm 1887 chỉ quy định quyền sở hữu của các đảo gần bờ biển chớ không phải là các hòn đảo ở giữa đại dương trong vùng Vịnh Bắc Bộ hoặc xa hơn nữa là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự phụ thuộc của Trung cộng vào Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam để hỗ trợ cho tuyên bố chủ quyền của mình rõ ràng được đặt không đúng chỗ. Những tài liệu này chỉ cung cấp cho rằng Trung cộng sẽ khôi phục Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ sau chiến tranh. Các câu tiếp theo tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi “vùng lãnh thổ khác” mà họ đã mua bằng vũ lực, nhưng nó không có nghĩa là những “vùng lãnh thổ khác” sẽ được trả lại cho Trung cộng. Chỉ có kết luận hợp lý là những “vùng lãnh thổ khác” bao gồm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, đã bị thu giữ bằng bạo lực từ Pháp, chứ không phải Trung cộng. Những hòn đảo này do đó sẽ được phục hồi cho Pháp, không phải cho Trung cộng, vào lúc kết thúc cuộc chiến.
Kết luận này được hỗ trợ bởi thực tế là Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới Thạch đã có mặt tại Hội nghị Cairo, nhưng không có tài liệu tham khảo đối với các đảo ở Biển Đông trong tuyên bố cuối cùng. Chắc chắn, nếu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được coi là lãnh thổ của Trung cộng trước khi chiến tranh, Tưởng Giới Thạch đã có thể khẳng định rằng quần đảo được trả lại cho Trung cộng kiểm soát tại Hội nghị; nhưng điều này đã không xảy ra.
Trung cộng bổ sung tuyên bố rằng chủ quyền của Trung cộng đối với các đảo ở Biển Đông đã được công nhận trong việc soạn thảo Hiệp ước Hòa bình năm 1951 với Nhật Bản. Tuy nhiên, văn bản cuối cùng của Hiệp ước liên quan tới sự từ bỏ chủ quyền của Nhật Bản đối với Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong hai tiểu mục riêng biệt của Điều 2. Như vậy, Nhật Bản có lẽ đã từ bỏ chủ quyền của mình [trên các đảo] Đài Loan và Penghu cho Trung cộng; còn quyền lợi của Nhật Bản trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì nhường cho nước Pháp. Những người biên soạn dự thảo Hiệp ước dự định trao trả quần đảo chỉ cho một quốc gia, họ sẽ không bao gồm chúng trong hai tiểu mục riêng biệt.
Lập luận của Trung cộng cho rằng Nhật Bản đã trả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung cộng trong hai thỏa thuận riêng biệt để chính thức chấm dứt sự thù địch giữa hai quốc gia Trung cộng và Nhật Bản là không có cơ sở. Điều 2 của Hiệp ước Đài Loan-Nhật Bản 1952 chỉ đơn giản nói rằng Nhật Bản từ bỏ chủ quyền của mình đối với Đài Loan, quần đảo Bành Hồ, và các đảo ở Biển Đông. Nếu mục đích của hiệp ước để chuyển quyền sở hữu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đến Đài Loan thì sự phân cấp rõ ràng về quyền lợi của Đài Loan đã được đưa vào Hiệp ước. Tương tự như vậy, năm 1972 Thông cáo chung Trung cộng-Nhật Bản không ủng hộ lập trường của Bắc Kinh. Các Thông cáo chỉ nói rằng Điều 8 của Tuyên Ngôn Potsdam sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, cả hai Tuyên Ngôn Potsdam và Tuyên bố Cairo đều không hỗ trợ tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên các đảo ở Biển Đông.
Trung cộng cũng duy trì lập trường, mặc dù không đúng đắn, rằng họ đã tái chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1946 khi các lực lượng Quốc gia chấp nhận đầu hàng quân Nhật ở Đông Dương, vùng thuộc địa Pháp phía bắc vĩ tuyến 16. Quân đội quốc gia đã được gửi đến chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) và quần đảo Woody (đảo Hoàng Sa) theo Lệnh Số 1 của Tướng MacArthur. Tuy nhiên lệnh này không chuyển nhượng chủ quyền trên các hòn đảo ở Biển Đông cho Trung cộng. Ngược lại, sau đó, vào ngày 31 Tháng Ba 1946, Trung Hoa Dân Quốc và Pháp đã đồng ý rằng quân đội Pháp sẽ giảm bớt lực lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở phía bắc Đông Dương, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Là một lực lượng chiếm đóng, quân đội [Trung Hoa Dân] Quốc đã có một nghĩa vụ pháp lý rời khỏi thuộc địa Đông Dương Pháp, nhưng họ đã không làm như vậy.
Thực tế là sự hiện diện của lực lượng Trung cộng vẫn còn bất hợp pháp trên đảo Ba Bình và quần đảo Hoàng Sa sau khi sự chiếm đóng [của] quân đồng minh Đông Dương chính thức kết thúc vào tháng 3 năm 1946. Điều này rõ ràng là một sự vi phạm Điều 2 (4) của Hiến chương LHQ, và do đó, Trung cộng không có chủ quyền trên hai quần đảo này. Tương tự như vậy, sự chiếm giữ của Đài Loan trên đảo Ba Bình vào năm 1956, và việc Trung cộng thu giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và sự cưỡng chiếm một số cứ điểm quan trọng của quần đảo Trường Sa vào năm 1988 và năm 1995 bởi lực lượng vũ trang Trung cộng cũng vi phạm Hiến chương LHQ, và do đó không đưa đến chủ quyền pháp lý có hiệu lực của Trung cộng trên các đảo này.
Trung cộng cũng khẳng định rằng miền Bắc Việt Nam từ bỏ chủ quyền của mình trên các đảo ở Biển Đông trong các thập niên 1950 và 1960. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của Trung cộng vào các báo cáo này là có vấn đề bởi nhiều lý do. Quan trọng nhất là miền Bắc Việt Nam không có gì để từ bỏ trong khoảng thời gian này. Hiệp định Geneva 1954 chia Bắc và Nam Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm ở phía nam vĩ tuyến 17. Khi kế thừa danh hiệu của Pháp, các đảo Biển Đông do đó là dưới quyền quản lý và kiểm soát miền Nam Việt Nam, không phải Bắc Việt Nam. Do đó, miền Bắc Việt Nam không có tư cách gì để mà từ bỏ chủ quyền lãnh hải liện hệ; như vậy, bất kỳ tuyên bố nào của các quan chức Bắc Việt Nam về hai quần đảo đó đều vô nghĩa trên mặt pháp lý.
Dựa theo những bằng chứng do các bên tranh chấp và theo các nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế liên quan đến việc thu nhập lãnh thổ, rõ ràng là sự đòi chủ quyền của Việt Nam trên các đảo ở Biển Đông chiếm ưu thế hơn.
Hàng loạt các hành động của chính quyền Việt Nam và Pháp từ thế kỷ 18 cung cấp bằng chứng không thể chối cãi được là Việt Nam đã liên tục kiểm soát quần đảo Hoàng Sa một cách bình yên và có hiệu quả. Chủ quyền Việt Nam lần đầu tiên được thành lập vào thế kỷ 18 do Công ty Hoàng Sa được chính phủ tài trợ và được phê chuẩn bởi các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng vào thế kỷ 19; được tạm thời tiếp tục thừa hành bởi người Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20. Sau đó đã được công khai bình thường hóa bởi quốc gia độc lập miền Nam Việt Nam sau khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương vào năm 1956, và nối tiếp bởi một nước Việt Nam thống nhất sau năm 1976.
Tương tự như vậy, Pháp, đại diện cho Việt Nam, đã thực hiện nhiều hoạt động khác nhau xác nhận chủ quyền của Pháp trên quần đảo Trường Sa, đặc biệt là việc sáp nhập chính thức và sự chiếm giữ một số đảo trọng yếu trong quần đảo này vào năm 1933. Vào thời điểm đó, việc sáp nhập các đảo được coi là vô chủ, như vậy của Pháp là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế hiện hành và là việc làm thực tiễn quốc gia. Vương quốc Anh, đã kiểm soát một số quần đảo Trường Sa trong thập niên 1800, đã từ bỏ chủ quyền của mình sau sự sáp nhập của Pháp, vì vậy danh hiệu chủ quyền của Pháp trên quần đảo Trường Sa đã được thành lập hợp pháp. Sau đó, hành động của Pháp và Việt Nam thể hiện rõ ràng sự hiện diện có hiệu quả và tích cực của họ cũng như thực hiện chủ quyền của họ một cách bình yên trên quần đảo Trường Sa. Chủ quyền của Pháp trên quần đảo này được nhượng lại cho miền Nam Việt Nam vào thập niên 1950 và chính phủ miền Nam Việt Nam (và sau đó một nước Việt Nam thống nhất) kiểm soát quần đảo Trường Sa một cách hiệu quả và hòa bình cho đến khi Đài Loan chiếm đóng bất hợp pháp đảo Ba Bình vào năm 1956 và Trung cộng chiếm đóng bất hợp pháp một số đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Biển Đông là nơi có một số tuyến đường bận rộn nhất trên thế giới và là những trục giao thông có vị thế chiến lược nhất trên biển (SLOC). Về mặt thương mại xuyên qua tuyến đường biển này, mỗi năm có hơn 5 ngàn tỷ USD, trong đó có hơn một nửa số tàu chở dầu của thế giới và hơn một nửa đội tàu buôn của thế giới. Điều này bao gồm hơn 1 ngàn tỷ USD trong thương mại của Hoa Kỳ. Do đó, xung đột trong khu vực này sẽ có tác động gây ra sự bất ổn định cho kinh tế thế giới.
Mỹ phải chứng minh lập trường đối phó vững chắc của họ đối với sự hung hăng của Trung cộng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và khuyến khích bạn bè và đồng minh của mình cũng làm như vậy. Việt Nam cần được khuyến khích theo gương Philippines và tìm cách giải quyết tranh chấp bắt buộc trên diễn đàn quốc tế. Đối với Hoa Kỳ, sự tiếp tục kêu gọi các bên tranh chấp làm sáng tỏ yêu sách của họ phù hợp với luật pháp quốc tế là một điều vô ích. Có nhiều sự kiện và pháp luật khá rõ ràng cho thấy tuyên bố chủ quyền Trung cộng trên biển Đông là vô căn cứ. Hành vi đối kháng của Trung cộng đe dọa hòa bình và an ninh khu vực. Giả vờ trung lập là hành vi hiếp đáp của Bắc Kinh đối với các nước láng giềng yếu hơn, và hành vi này cho thấy Trung cộng bước gần hơn trong việc thừa nhận thái độ chiếm hữu bất hợp pháp của họ trên các hòn đảo ở Biển Đông.
Ts. Lê Thiện Phúc
phiên dịch
http://tamnhin.net/ngan-chan-van-ly-truong-thanh-bat-hop-phap-cua-trung-quoc-tai-bien-dong.html
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét