Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 7 tháng 4, 2014

Thử nhận diện:

 Chân Dung Nhà Văn - 49

Lê Xuân Quang

Con số 49 là con số độc.
Dân ta đã có câu tổng kết: ’’Bốn chín chưa qua, Năm (mươi) ba đã tới’’ - đó là 2 cột mộc - Xung và Hạn, rất ‘’nguy hiểm’’ cho một đời người. Có lẽ Xuân Sách đã đánh số 49 cho bức chân dung hoàn toàn ngẫu nhiên ?
Chúng ta hãy cùng nhau nhận diện chân dung số 49: Đây là ai?

49.

Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá Vây xong lại chết mòn trong vây.

Biển Lửa (truyện phim), Phá Vây (tiểu thuyết), Con nuôi của trung đoàn (truyện) - là tên các tác phẩm của nhà văn PHÙ THĂNG.

Phù Thăng - tên thật là Nguyễn Trọng Phu, sinh tại Hải Dương, đi kháng chiến chống Pháp từ năm 1947. Phù Thăng - đọc, đảo lái đi thành ‘’Thằng’’ Phu. Thiếu úy Đỗ Đức Dân, bạn thân, đồng hương, cùng đơn vị chiến đấu với Phù Thăng chuyển ngành (đợt 8 vạn binh sĩ giải trừ quân bị) - về làm phó chỉ huy công trường Khoan - Bắn mìn của mỏ Cọc 6 - Công ty than Hồng Gai - kể lại khi báo chi phê phán cuốn tiểu thuyết Phá Vây - hồi hơn 40 năm trước : ‘’Cậu ấy lấy bút danh Phù Thăng, ngay từ khi viết Báo tường của đơn vị’’!

Sau này, trở thành hội viên Hội nhà văn, trên văn đàn Việt Nam, Nguyễn Trọng Phu vẫn dùng bút danh Phù Thăng, và ngay sau đó Phù Thăng đã trở nên nổi tiếng qua cuốn tiểu thuyết Phá Vây. Và sự kiện ‘’Phá Vây‘‘ - xứng đáng xếp vào loại ’’độc nhất vô nhị’’ trong lịch sử văn học của làng Văn Chương Việt, ở nửa sau thế kỷ 20! 

Phá Vây viết về đề tài chiến tranh.
Nhân vật chính (hóa thân của tác giả) là cán bộ chỉ huy đơn vị trinh sát, có những suy tư về chiến tranh, về hòa bình khác thường, độc đáo. Lãnh đạo Văn Nghê thời đó rất ’’cay’’ nhà văn mượn nhân vật để phê phán chủ trương giải quyết các tranh chấp bằng chiến tranh, phát triển thành nguyên lý: '' Làm Cách Mạng không thể đeo găng tay'' (J.Stalin),'' Súng đẻ ra chính quyền'' (Mao Trạch Đông) và gần nhất - Pol Pot đã tiến hành ‘’Đấu tranh giai cấp’’ với chính dân tộc mình, bằng cuộc Diệt chủng man rợ...

Trần Đăng Khoa nói văn tắt trong Chân Dung Và Đối Thoại về nguyên nhân Phù Thăng ‘’mang hoạ’’: ‘’Tập sách sẽ là con thuyền xuôi chèo mát mái nếu không có vài dòng Phù Thăng luận về chiến tranh…’’ (CD&ĐT trang 66).

Nguyễn Quang Thân trên TT&VH số 55 ngày 24.02.2008 - thì trích ‘’cụt lủn’’ về nguyên nhân tai họa của Phù Thăng chỉ do một câu than vãn: ‘’… Đời Lính là đời quá nhọc nhằn’’.
Nói và trích dẫn như vậy quá thiếu, khiến người đọc dễ gây phản cảm : Lẽ nào chỉ viết có thế mà ‘’đầy đoạ’’ một con nguời - một nhà văn đến tận đáy cuộc đời ?

Sự thực đoạn văn nặng kí ‘’vài dòng’’ do Nguyện Hưng Quốc trích - đưa vào một tiểu luận - như sau : ''... Chiến tranh đã gây lên và sẽ gây lên bao nỗi đau khổ, vất vả, tủi nhục, căm giận khác nữa… Chiến tranh không có gì đáng ca ngợi cả, và đời lính chỉ là cuộc đời nhọc nhằn mà thôi.  Nếu như trong chiến đãu có thu được cái vinh quang chân chính của nó, thì cũng đã trả một gía quá đắtPhải sớm kết thúc cuộc đổ mắu cùng những thảm họa của nó !''.

Có thế chứ ! Đây mới là nguyên nhân chính khiến tác gỉa mang họa.
Đoạn văn, tác gỉa viết ra hoàn toàn không đúng lúc. Chiến tranh đang bao trùm không gian Việt Nam, được lí giải : Có 2 loại Chiến tranh - Chính nghĩa và Phi nghĩa. Chúng ta làm chiến tranh dù dưới hình thức nào, với lí do gì cũng là Chính nghĩa. Bọn Đế quốc và bè lũ tay sai gây chiến tranh là Phi nghĩa. Cần phải ủng hộ triệt để cuộc chiến tranh CHÍNH NGHĨA, chống lại chiến tranh PHI NGHĨA...

Thế mà Phù Thăng lại coi chiến tranh chung chung… và cần phải ‘’sớm kết thúc’’. Trong thời điểm khi mà nghị quyết 9 đã đưa ra, các đoàn quân đã rùng rùng chuyển động hướng ra chiến trường… làm sao có thể chấp nhận, cho ‘’luồng tư tưởng’’ này tồn tại. Hệ thống tuyên truyền và nền Văn Nghệ được huy động tối đa ủng hộ, cổ vũ cho cuộc chiến nhằm thống nhất đất nước. Bỗng dưng cuốn sách của Phù Thăng công khai nói ngược thậm chí phủ định - một ý kiến ‘’lạc lõng’’. Không bị xếp vào rọ ‘’Phản động’’ là may cho Phù Thăng lắm rồi. Sẽ không nghi ngờ lòng trung thành của một sĩ quan quân đội nhiều năm cầm súng chống Pháp, giờ cấm bút chiến đấu trên mặt trận Văn Nghệ, chỉ gọi lên phê phán rồi yêu cầu phải sửa lại tác phẩm, (cắt bỏ những đoạn văn luận bàn về chiến tranh).

Phù Thăng không chịu, công khai từ chối lời yêu cầu kia : ''Thực tâm tôi nghĩ thế nào thì tôi viết ra một cách trung thực thế. Nếu các anh cảm thấy không được thì thôi, không in nữa. Nếu trót in rồi thì không phát hành nữa, chứ bây giờ bảo tôi chữa khác đi, thì thú thực tôi chẳng biết chữa thế nào''. (Chân dung và Đối thoại trang 67).

- ’’Thế là thế nào ? Nuôi quân ba năm xử dụng một ngày. Đảng và Nhà nước nuôi anh, cho anh cơm ăn, áo mặc, môi trường để viết rồi gíup anh in ấn, phổ biến, quảng bá tác phẩm để anh gặt hái vinh quang. Giờ cần anh ủng hộ ‘’bằng… mồm’’, anh lại từ chối à’’ ?
- Ơn đó tôi ghi nhận, nhưng đây là lương tâm, lương tri, bản lĩnh của người cầm bút, tôi không thể làm khác.
- Thế thì…được… được ! ‘’

Ngay sau đó, các Báo, Tạp chí đăng tải những bài viết phê bình Phá Vây mà không cho ông lên tiếng thanh minh, bảo vệ, cũng giống như trường hợp các nhà Văn khác, từng bị ''Trói vào mà đánh, khen thay chịu đòn''. Kết quả là : Phá Vây bị thu hồi, tác giả bị chuyển đi, lần lượt từ cơ quan này đến cơ quan khác, bị ‘’treo bút ngầm’’. Từ đó không thấy ông xuất hiện trên văn trường nữa. Ông sống lặng lẽ cho tới khi đủ tuổi hưu trí, về quê nhà đi cầy, vui với đồng ruộng và lũ ... Gà - Vịt (1).  

Đề tài này quả thật gai góc : Cả chục năm sau - Việt Phương cũng viết, bàn  về Chiến tranh, bằng những câu thơ ‘’Không hợp thời’’ : 

Ta thắng Mỹ cho ngàn vạn năm đời sắp tới
Cho cả thời con cháu ta sẽ hỏi
Vì đâu ?
Ngày xưa trước năm 2000
Người ta giết nhau,
mạng người như hòn sỏi ?...

Sau Hiệp định Paris (1973) - Phạm Tiến Duật - cũng lại ‘’than thở’’ về chiến tranh - trong  bài thơ Vòng Trắng :

''...Khói bom lên trời thành một vòng đen
Trên mặt đất hiện bao nhiêu vòng trắng
Có mất mát nào lớn bằng cái chết
Khăn tang vòng tròn như một số Không...''

Việt Phương, Phạm Tiến Duật - cũng giống như Phù Thăng -  có những suy nghĩ ‘’lệch lạc’’ về chiến tranh khiến ‘’Con thuyền… cuộc đời’’ họ đều không ‘’xuôi chèo mát mái’’.

Cũng không thể ‘’trách’’ những người lãnh đạo được, vì lúc đó, chủ trương, đường lối, nghị quyết giải phóng miền Nam bằng chiến tranh đã ban hành, muốn thực hiện được mục đích, người lãnh đạo buộc phải làm như vậy…

Nhưng cũng không thể ‘’chê’’ Phù Thăng qúa cố chấp (…). Đó là ‘’nghiệp chướng’’ của người cầm bút có bản lĩnh, chân chính và sự kiên trì trong ý thực hệ của người lãnh đạo văn nghệ của chế độ ! Cả hai phía hành động đều đúng theo ‘’chức trách’’ của mỗi bên… Cuộc đấu sức qúa chênh lệch khiến nhà văn phải lãnh nhận hậu qủa.

Có điều : Hành động của Phù Thăng khiến chúng ta nhớ đến chuyện viên quan viết Sử thời Đông Chu Liệt Quốc bên Trung Hoa, cách đây hơn 2000 năm, Sử gia Tư Mã Thiên đã ghi lại, có thể tóm tắt :
''Một người thoán đoạt ngôi vua. Sau khi tại vị, ông ta ra lệnh cho các quan trong triều tìm mọi cách ca tụng mình. Trong khi các quan thực thi ý kiến của vua mới, riêng viên quan chép Sử lại ghi vào sách :
''Năm ấy... tháng ấy... ngày ấy... ông X  giết vua...''. Nhà vua vô cùng tức giận, cho gọi người chép Sử đến, bắt ông phải sửa lại đoạn văn. Người chép Sử không nghe, vua tuyên bố: Nếu không sửa lại sẽ bị chém đầu. Người chép Sử vươn cổ ra chịu chém chứ nhất định không sửa câu văn mình đã viết.

Con ông ta nghe tin, đến thay Cha, lại bị chém.
Người Cháu noi gương Cha, Ông tiếp tục lặp lại: '' Ngày... ông X giết vua''. Nhà vua đọc đoạn văn, nhìn đứa cháu của viên quan ngự Sử, ngửa mặt lên trời than: Ta chịu thua các ngươi ! đoạn tha tôi chết cho Cháu người chép Sử.

Người Cháu thoát chết ra về, tới cửa thấy có nhiều người xếp hàng chờ mình. Anh ta ngạc nhiên. Những người đứng chờ giải thích: Chúng tôi chờ, nếu ông bị chém đầu, sẽ lần lượt thay thế chức vị của ông''.

Ta cũng lại liên tưởng tới hoàn cảnh của nhà bác học Ga li lê trước lúc đao phủ châm lửa giàn thiêu, hỏi ông lần cuối rằng, có thừa nhận trái đất đứng nguyên không ? Trước ngọn lửa, Ga li lê đành chấp nhận và đồng ý cải chính: ‘’trái đất đứng nguyên’’… Khi được cới trói, chưa ra khỏi giàn thiêu, ông đã lại thốt lên : Dù sao thì trái đất vẫn cứ… quay !
Gía - Phù Thăng hành xử như Ga Li lê thì…

Nhưng ‘’Thằng - Phu - Chữ’’ đã nêu tấm gương sáng về lòng dũng cảm của người Nghệ sĩ chân chính! Có thể coi ông là người chép Sử của Việt Nam thời hiện đại.
Qua Phá Vây, Phù Thăng muốn gửi tới người đọc đương thời bức thông điệp về chiến tranh và hòa bình. Sự bất đồng quan điểm với lãnh đạo cấp cao đã đến điểm đỉnh. Phù Thăng lại không nhân nhượng... Guồng máy chỉ đạo chiến tranh không thể để cho vật chắn cản đường: Phải ‘’gạt - xúc - quẳng’’ đi ! Nó không thể tồn tại trước ‘’Ba giòng thác cách Mạng’’ : Giải phóng miền Nam, Thống nhất đất nước ‘’dù có phải đốt cháy cả dẫy trường Sơn’’ !

Kết cục ‘’Không xuôi chèo mát mái’’ đã đến với nhà văn tài năng !

Việt Nam ta có câu ngạn ngữ: ''Về đuổi gà cho vợ'', là ám chỉ việc các đấng trượng phu thất bại trong sự nghiệp, trở thành phế nhân, chỉ còn làm ông chồng suốt ngày ngồi bên bếp lữa vuốt… đuôi mèo (2), hoặc đuổi gà cho bà xã, sống qua ngày. Câu ngạn ngữ đó vận ngay vào Phù Thăng. Chỉ khác một điều, ông không thất bại theo nghiã hẹp của câu nói kia. Ông về phục vụ bà nhà : Đi cầy, hàng phục ‘’Trâu điên’’ - như Trần Đăng Khoa kể trong CD&ĐT - và chăn… Vịt !
Thế nhưng con GÀ cứ ám ảnh ông...

Chân dung và Đối thoại, xuất bản gần 10 năm trước (1999), Trần Đăng Khoa dành cho Phù Thăng những giòng chứa chan ân tình rồi tóm tắt, giới thiệu Hạt Thóc - Truyện ngắn có thể xem là ‘’Nặng Kí’’ trong sự nghiệp sáng tác sau Phá Vây của Phù Thăng. Người đọc ‘’rùng mình’’ khi nghe đoạn văn của Hạt Thóc, (cũng như đã từng rùng minh khi đọc ‘’vài giòng’’ trong Phá Vây) : ''... Thật tội nghiệp cho gã ! Thà gã cứ coi mình là một cục cứt  để rồi mà sợ chó thì đời gã chẳng đến nỗi khổ như vậy....''.

Câu văn gợi cho ta nhớ tới câu ví: '' Trí thức không đáng gía bằng cục... Phân'' ! Nhưng ‘’Trí - ta’’ hãy dẹp sự tự ái sang bên, tiếp tục nghe Phù Thăng tâm tình:

''... Chó đang thưa vắng dần...  Chỉ ở Hà Nội mới có chó. Rất nhiều chó. Chó ngào ngạt suốt một rẻo đê Nhật Tân...

Nhưng đó lại là những con chó hoà bình, chẳng có gì phải sợ. Khốn nỗi gã lại là hạt thóc, một hạt thóc bé nhỏ nên mới sợ Gà. Mà Gà thì ở đâu chẳng có. Chúng sinh sôi nẩy nở đàn đàn lũ lũ... đến cả những phố phường xầm uất... cũng có thể bất thần nghe tiếng gà gáy te te... bởi vậy tính mạng gã luôn bị đe dọa''. (CD&ĐT Trang 62 - 63).

Chó thì được bà con nông dân nuôi ở làng quê để giữ nhà chống trộm, để giúp các cháu bé ''làm sạch'' sau khi các chắu bĩnh ra, chứ ở Hà Nội có điện, có nước máy, cần gì chó, ai nuôi chó… ta. Thế mà bây giờ chó ở làng quê, miền ngược đang thưa dần... chỉ ở Hà Nội mới có chó... thậm chí rất nhiều chó là đằng khác ! Sao lạ vậy nhỉ ?

Chó nhiều - chẳng việc gì phải sợ : Không phải chó điên, chó sói, chó Berger to như con bê, được nuôi phục vụ việc bắt trộm cướp, bắt hung thủ trong các vụ án hình sự! Đây là những con chó không thể làm hại người - chó thuần chủng,’’chó hoà bình’’. !

 Chó ngào ngạt chẳng những suốt rẻo đê Nhật Tân, mà dường như còn ảnh hưởng ''mùi'' cả Hà Nội rồi lan ra xung quanh, khiến hàng ngày người ta ‘’đánh hơi’’ thấy, lũ lượt kéo về thưởng thức : Rựơu - Thịt Chó !

Chó - nhưng ''đó là những con chó hoà bình chẳng có gì phải sợ'' - nghĩa là chúng không thể cắn người được. Ngược lại, chúng còn bị người ‘’cắn’’… lại rồi nhai ‘’chín’’, nuốt ‘’tươi’’ !

Một số ông chủ của đất Ngàn năm văn vật và ngay cả ở Sài Thành Hoa Lệ ''Hòn ngọc của Viễn Đông'' - dùng chúng làm phương tiện hốt bạc. Họ biến việc nuôi, cung cấp, kinh doanh, nhập khẩu… chó - thành Vàng và Đô la, khiến đi trên đường phố, khách du lịch, vãng lai luôn gặp những bảng hiệu : ''A ! đây rồi - thịt cầy 7 món'' !

Rượu - Thịt Chó đã trở thành món hấp dẫn của cả dân Việt khiến ngành kinh doanh ăn uống phục vụ, nhanh nhậy khai thác biến ngành ẩm thực thuần Việt ngày một phồn thịnh phát đạt. Và trong nền kinh tế thị trường (có giai đoạn được định hướng XHCN - bây giờ thì không), họ hàng nhà Khuyển được nhanh chóng phân loại, xếp hạng : Nhất Vện, nhì Vàng, tam Khoang, tứ Mực - đáp ứng nhu cầu, khẩu vị của người ăn !

Thế là người này bảo người kia, rủ nhau ùn ùn, nghìn ngịt kéo đến Nhật Tân... rồi hình thành từng mâm, từng nhóm, từng cặp... Từ gìa đên choai choai. Từ các ông, gã, thằng... Phu đến các Sỹ Phu đủ kích cở, chủng loại - đều có mặt trong bữa nhậu. Đến ngay cả các nam thanh, nữ tú - Sinh viên, học sinh - cũng hăng hái tham gia mâm rượu. Tất cả (xếp chân bằng tròn trên chiếu)... đồng loạt vui vẻ, hả hê ''đưa cay'', ‘’trăm phần trăm’’ rồi cắn, nhai ngồm ngoàm, thưởng thức hương vị của khúc dồi, đĩa chả, bát nhựa mận trong tâm trạng ‘’Thăng hoa’’, say sưa nghẫm nghĩ về câu nói của dân gian:

Sống ở trên đời ăn miếng Dồi chó
Chết xuống âm phủ liệu có hay không.

Tiếp đó, TĐK diễn giải - Hạt Thóc (3).
Chuyện kể về nhân vật - nhà văn bị tâm thần. Gã tâm thần mang trong lòng nỗi ám ảnh, tưởng mình là một hạt thóc... và vì là ''Thóc'' nên luôn sợ... Gà... ''Mổ'' !

Nỗi ám ảnh ngày một tăng... đến độ gã phải vào nhà thương điên để chữa trị. Rất may, được người bác sỹ tài giỏi, thân ái, thậm chí kính trọng trí tuệ gã người bệnh của mình. Ông bác sĩ nhân ái kia chăm sóc gã tận tình đúng như câu khẩu hiệu do đích thân cụ Hồ nói về trách nhiêm của thầy thuốc, được ghi khắp nơi trên tường của các trạm xá, bệnh viện : Lương y ‘‘kiêm‘‘ từ mẫu. (Thầy thuốc kiêm mẹ hiền - nguyên văn lúc đầu phát ra, sau sửa ‘‘Kiêm‘‘ thành ‘‘Như‘‘).  Gã được sống trong căn phòng : ''... chẳng có cửa rả, ngày đêm mở thông thống... bệnh viên chẳng có tường ngăn, rào chắn, bệnh nhân chẳng ai bị trói giữ giam nhốt...'' (Sách đã dẫn, trang 63) - nghĩa là gã tâm thần được sống và chữa trị trong môi trường thoải mái, tự do !
Nhờ vậy, nhà văn tâm thần kia khỏi bệnh. Người ta cho gã xuất viện. Thế nhưng trên đường từ bệnh viện về nhà, nghe thấy tiếng gà gáy... căn bệnh cũ lại tái phát... Người Bác sỹ ngạc nhiên hỏi, gã trả lời : Quả thực tôi đã khỏi bệnh, tôi là NGƯỜI hẳn hoi !
- Thế sao nghe tiếng GÀ... anh lại sợ như trở cơn vậy ?
- Đúng ! Dù tôi là NGƯƠI... Nhưng lũ GÀ kia lại cứ coi tôi là... HẠT THÓC, thì sao?...

Thực ra Phù Thăng không phài là ''Thóc''... cũng chẳng phải ‘’Gà’’, lại càng không về... đuổi ''Gà'' ! Theo Trần Đăng Khoa nhận xét : Ông là chỉ huy của một đoàn quân... ''ông chỉ khẽ vẫy tay là cái đoàn quân ấy rùng rùng chuyển động...'', (CD và ĐT trang 67).
- Phù Thăng là ''Tư Lệnh'' của đoàn quân... ''VịT'' !

Việt Nam ta khi xưa thường gọi những người lao động là PHU : Phu Mỏ. Nông Phu. Phu Xe. Phu Mộ. Phu Bốc xếp, Phu... Phu... Nếu là người có chữ nghiã, trí thức thì gọi là SỸ PHU. Còn nếu là kẻ vô tích sự thì là THẤT PHU ! Nhà văn tự nguyện đại diện cho họ hàng nhà Phu bằng bút danh PHÙ THĂNG - THẰNG  PHU, là bởi ông sinh ra từ giới cần lao này. Phù Thăng tình nguyện đại diện cho những Ông, những Gã, những Thằng Phu... vì Ông muốn làm một người Phu chân chính, thực hiện lời dậy cuả tiền nhân : ''Quốc Gia hưng vong, Thất Phu hữu trách'' !

Nhưng, ông đã phải trả gía quá đắt cho hành động tích cực của mình bằng sự trả thù của ý thức hệ, dám đi ra ngoài khuôn mẫu. Phù Thăng chết dần, chết mòn trong vòng vây thù địch chỉ vì yêu quý chế độ, giữ vững khí tiết của nhà văn chân chính, ‘’vắt’’ ra những giọt, những giòng… mắu lầy nhầy tủy - não, mà lẽ ra ông cần phải biết : Người cầm quyền không thích loại ‘’mắu’’ này!
Nếu ông chiụ làm ’’cục cứt’’ chồm hỗm để mà đợi lũ chó ngoạm - như ông nghĩ - thì đời ông chắc sẽ khác đi nhiều !
Nhưng khốn nỗi : Ông là Phù Thăng - Thằng Phu… Chữ !
Sau sự kiện Phá Vây, trên văn đàn Việt Nam, tên tuổi ông bị sổ thẳng.

Cho đến nay, hơn 40 năm trôi qua, kể từ ngày nổ ra sự kiện Phá Vây, người đương thời không còn ai biết đến bút danh Phù Thăng nữa. Tuy muôn, châm nhưng Văn Chương Việt vẫn dành cho Phù Thăng chỗ, để đăng tải toàn văn truyện ngắn Hạt Thóc và khi ông về với cát bụi đã có những giòng cáo phó chân tình. Thiết nghĩ, thế cũng là nén nhang thắp cho Phù Thăng về nơi chín suối thanh thản.

Liệu VCV có thể làm tiếp việc nữa : Cho đăng tải toàn văn hay trích đọan Phá Vây?

Hoặc gỉa, cổ súy Mạnh Thường Quân nào hảo tâm cho xuất bản những di cảo của nhà văn - ‘’sử gia’’ (tin rằng những tác phẩm như Hạt Thóc - vẫn còn), tạo điều kiện cho Phá Vây chính thức bước vào đời (nếu chưa xuất bản), hoặc tái xuất giang hồ (tài bản) - mà lúc tại thế, từ hơn 40 năm trước - Phù Thăng đã mong muốn Đứa con đẻ của Thăng - Phu - Chữ (chứ không phải Con nuôi của Trung Đoàn) được sống đời của nó.

Thế nhưng, ác thay, vừa sinh ra đã bị ‘’cầm tù’’, bây giờ đã sắp lên lão (50).  Đứa con tinh thần nào của Nhà văn cũng muốn được sống thoải mái, tự do trong cuộc đời của chúng. Những đứa ‘’con… đẻ’’ của Phù Thăng - Nếu được như thế - chắc người cha khốn khổ sẽ ngậm cười mà an nghỉ ở thế giới bên kia ! 

08. 08. 08

(1) . Trong phim Chuyện Tử Tế, Đạo diễn Trần Văn Thủy đã dùng câu bình rất ‘’sắc’’ :’’Xem ra khoảng cách giữa nhà quay phim và gã chăn vịt chỉ là gang tấc’’. Phù Thăng cũng từng là ‘’Gã chăn vịt’’…
(2) - Nguyên văn câu ca dao : Chồng người đi ngược về xuôi/ Chồng em ngồi bếp vuốt đưôi con mèo .
(3) - Hạt Thóc - VCV đăng ngày 23.02.2008. http://vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=7452&LOAIID=2&LOAIREF=1&TGID=1514


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: