Thách thức cải cách chính trị và kinh tế
Báo cáo Việt Nam 2035 vừa được Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim công bố trong cuộc họp báo sáng 23/2/2016 tại Hà Nội. Đây là sáng kiến chung giữa World Bank và Chính phủ Việt Nam theo đó Việt Nam sẽ phải thực hiện cải cách lớn ở ba trụ cột, thứ nhất là thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường. Thứ hai, Công bằng và hòa nhập xã hội có nghĩa bình đẳng cho mọi người và thứ ba là Nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước. Nếu thực hiện được những cải cách vừa nêu thì hy vọng tới năm 2035, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam có thể đạt từ 15.000 tới 18.000 USD tương đương người Malaysia ở thời điểm 2010. Để đạt tới mục tiêu này Việt Nam sẽ phải vượt qua thách thức cải cách chính trị và kinh tế đồng bộ và sâu rộng.
Nam Nguyên phỏng vấn TS Lê Đăng Doanh, Thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển Liên Hiệp Quốc, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương trong khi ông đang dự một Hội nghị ở TP.HCM. Trước hết TS Lê Đăng Doanh phát biểu:
TS Lê Đăng Doanh: Sáng nay 23/2 Chủ tịch Ngân hàng Thế giới đã thắng thắn đề cập là Việt Nam cần phải mạnh mẽ nâng cao năng suất lao động, nâng cao sự sáng tạo hiệu quả và phải phát triển mạnh mẽ năng lực cạnh tranh. Muốn như vậy thì Việt Nam phải cải cách về mặt thể chế và nếu như những điều đó được giới lãnh đạo được Đại hội 12 đã bầu ra thực hiện, thì Việt Nam với tiềm năng của mình hoàn toàn có thể đạt được những tiến bộ như đã đề ra. Nếu như công cuộc cải cách không vượt qua được sự cản trở của nhóm lợi ích và không tự minh vượt qua được những ràng buộc mà mình tự buộc mình vào, tự hạn chế mình thì Việt Nam sẽ ngày càng bị tụt hậu xa hơn.
Tôi nghĩ rằng, báo cáo đó là nguồn khích lệ và sẽ là một trong những thách thức rất là nghiêm túc để Việt Nam có thể vươn lên được.-TS Lê Đăng Doanh
Sáng nay ông Chủ tịch Ngân hàng Thế giới cũng có nói, vào những năm 1960 người ta đánh giá Hàn Quốc là một đất nước không hy vọng gì, không xứng đáng để nhận bất kỳ một sự trợ giúp nào. Vậy mà bây giờ Hàn Quốc vượt lên như thế và bây giờ Việt Nam có thể lại đưa ra một chứng minh, một ví dụ điển hình là Việt Nam có thể vươn lên mạnh mẽ. Tôi nghĩ rằng, báo cáo đó là nguồn khích lệ và sẽ là một trong những thách thức rất là nghiêm túc để Việt Nam có thể vươn lên được.
Nam Nguyên: Theo tình hình sau Đại hội Đảng 12 và dưới quyền lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật được cho là rất bảo thủ thì liệu có thể chấp nhận những cải cách như thế này hay không, giữa khi Dự luật Biểu tình đã bị các Bộ ngành phản đối cho là đổi mới chính trị quá, mặc dù đây là qui định Hiến pháp. Như vậy vướng mắc của Việt Nam phải cải cách ở ba trụ cột có là thách thức phải thay đổi thể chế dân chủ hay không ?
TS Lê Đăng Doanh: Tôi thấy ông Đinh La Thăng làm Bí thư Thành ủy TP.HCM thì cũng tạo ra được một số đột phá nhất định. Tôi hy vọng rằng, trước những sức ép, trước những đòi hỏi mà năm 2016 này đã là những đòi hỏi rất là gay gắt. Chúng ta chứng kiến việc cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa, chúng ta đang chứng kiến hiện tượng khô hạn và xâm nhập của nước mặn đã gây tác động mạnh mẽ đến đồng bằng sông Cửu Long, thì tôi nghĩ trước tình hình này sẽ có những biện pháp rất mạnh mẽ đột phá để nâng cao năng lực của bộ máy, để phát huy nhân tài, phát huy sự sáng tạo, phát huy vai trò của các doanh nghiệp dân doanh. Tôi hy vọng trước các sức ép, dân tộc Việt Nam lại có sự vươn lên mạnh mẽ.
Nam Nguyên: Cải cách nêu ra ở cột trụ thứ nhất là thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường, cũng có đề cập tới những Bất cập về quyền sở hữu tài sản, bất công trong tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên và tiếp cận thông tin của người dân, đặc biệt vấn đề sở hữu đất đai. Theo TS những cải cách này có quá lớn không ?
TS Lê Đăng Doanh: Vâng, đúng là Việt Nam hiện nay cần phải bảo đảm qui định pháp lý rõ ràng hơn nữa về quyền tài sản đối với đất đai và người dân. Hiện nay người nông dân chỉ có quyền sử dụng còn quyền sở hữu thì đấy là sở hữu toàn dân. Nhưng mà sở hữu toàn dân là ai thì đấy là một trong những điều chưa được rõ ràng. Bởi vì sở hữu luôn luôn phải là một người cụ thể, một pháp nhân rõ ràng thì mới có thể thực hiện được quyền sở hữu đó. Chứ còn bây giờ toàn dân sở hữu thì điều ấy không rõ ràng. Ngoài ra việc bảo hộ các quyền về tài sản cũng là một trong những vấn đề lớn. Nếu như mà không có sự bảo hộ một cách rõ ràng về pháp lý quyền tài sản thì chúng ta thấy doanh nghiệp Việt Nam sẽ không lớn lên được. Người ta sẽ ngại trở nên giàu có, có nhiều tài sản, bởi vì nếu như những tài sản đó không được pháp luật bảo hộ một cách rõ ràng thì tài sản đó có thể bị xâm phạm bị mất đi. Đấy là những thách thức mà Việt Nam cần phải giải quyết trong thời gian tới.
Vì vậy vấn đề cải cách bây giờ trở nên một vấn đề hết sức cụ thể và bước đi cũng rất là rõ ràng chứ không phải là trừu tượng được.-TS Lê Đăng Doanh
Nam Nguyên: Thưa TS, có khả năng giải quyết vấn đề này hay không, khi vẫn còn vướng mắc như Hiến pháp vào kỳ sửa đổi 2013 đã không thực hiện được?
TS Lê Đăng Doanh: Trong công cuộc cải cách thì bao giờ cũng có những ý kiến khác nhau. Nhưng tôi thấy ông Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng gần đây đã có những đòi hỏi rất rõ ràng và phía Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng có những đòi hỏi rõ ràng về Luật Biểu tình, cũng như là có những ý kiến về việc phải khắc phục bộ máy công kềnh, những thủ tục giấy phép… và ông ấy đã dùng những ngôn từ rất là mạnh mẽ. Tôi hy vọng rằng sau khi đã có những ý kiến khác nhau thì cuối cùng Hiến pháp 2013 sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng với tinh thần và lời văn của Hiến pháp là bảo đảm các quyền tự do của người dân về tự do ngôn luận, quyền biểu tình về những quyền như đã được quy định trong Hiến pháp.
Nam Nguyên: Thưa, nhiều chuyên gia đã từng nói không cải cách chính trị song hành thì không thể cải cách kinh tế. Có thể nào Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế mà không cải cách chính trị hay không ?
TS Lê Đăng Doanh: Việt Nam đã cải cách kinh tế và cũng có một số chuyển biến nhất định trong cải cách chính trị, như vai trò của Quốc hội đã được tăng lên và đã có những nỗ lực nhất định trong hội nhập quốc tế. Nhưng bây giờ tình hình về hội nhập quốc tế đã trở nên rất cụ thể, như Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP đã qui định rất rõ về những quyền về Internet, về sự công khai minh bạch về sự cạnh tranh bình đẳng…. Và nếu như Việt Nam không thực hiện nghiêm túc những cam kết đó thì Việt Nam sẽ không được hưỡng những ưu đãi về mặt thương mại như giảm thuế quan...v..v..
Vì vậy vấn đề cải cách bây giờ trở nên một vấn đề hết sức cụ thể và bước đi cũng rất là rõ ràng chứ không phải là trừu tượng được. Ví dụ như theo Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái Bình Dương TPP thì đến năm 2018 thời gian thông quan qua các cảng của Việt Nam là 48 tiếng đồng hồ. Trong khi đó theo Nghị quyết 19 của Chính phủ ngày 12/3/2015 thời gian thông quan là 10 ngày. Như vậy chúng ta thấy khoảng cách từ 10 ngày xuống 48 giờ là một khoảng cách khá xa và được qui định rất cụ thể rồi, cho nên Việt Nam cần phải cải cách một cách rất mạnh mẽ.
Nam Nguyên: Cảm ơn TS Lê Đăng Doanh đã dành thì giờ trả lời phỏng vấn.
2.
Báo cáo VN 2035: Ba trụ cột phải cải cách | |
Tư Hoàng | |
Thứ Ba, 23/2/2016, 15:50 (GMT+7) |
(TBKTSG Online) - Đến năm 2035, Việt Nam đạt mức thu nhập bình quân đầu người từ 15.000-18.000 đô la Mỹ. Để đạt được mục tiêu này con đường duy nhất là phải tăng năng suất.
Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim (giữa) trong buổi họp báo công bố báo cáo Việt Nam 2035. Ảnh TG |
Báo cáo Việt Nam 2035 gồm 7 chương nghiên cứu sâu về 3 trụ cột phát triển với 6 chuyển đổi lớn, đề xuất nhiều khuyến nghị quan trọng để đưa Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2035.
Trụ cột 1: Thịnh vượng kinh tế phải đi đôi với bền vững về môi trường
Thứ nhất, Việt Nam phải có mức tăng trưởng cao và ổn định liên tục trong 20 năm tới với mức tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm bằng 7% (tương đương với mức tăng trưởng GDP 8%/năm) để đến năm 2035 đạt mức thu nhập bình quân đầu người từ 15.000-18.000 đô la Mỹ. Để đạt được mục tiêu này con đường duy nhất là phải tăng năng suất. Mức tăng năng suất lao động của Việt Nam đã liên tục sụt giảm từ cuối những năm 1990 đến nay khiến năng suất lao động Việt Nam ở mức rất thấp so với các quốc gia trong khu vực. Điều đặc biệt năng suất lao động ngay cả khu vực tư nhân của Việt Nam cũng đang liên tục sụt giảm và ở mức rất thấp. Có 3 nguyên nhân chính về vấn đề này:
(i) Cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của Việt Nam rất lạc hậu: Lao động trong khu vực phi chính thức cao hơn nhiều so với trong khu vực chính thức, có tới hơn 44% lao động trong tổng số lao động của đất nước làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, khu vực tạo ra giá trị gia tăng thấp.
(ii) Nền tảng kinh tế thị trường chậm hoàn thiện gây phương hại đến quyền sở hữu tài sản và làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường hàng hóa.
(iii) Thị trường các yếu tố sản xuất như vốn, đất đai, tài nguyên khoáng sản được phân bổ chưa theo cơ chế thị trường, chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính.
Thứ hai, phải tập trung cao độ thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp trong nước (chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân Việt Nam) cả về số lượng và chất lượng, coi đây là nhiệm vụ của bộ máy nhà nước các cấp. Sức khỏe của doanh nghiệp trong nước chính là sức khỏe của nền kinh tế. Trước mắt phải nâng cao được năng lực cạnh tranh và hiệu quả cho các doanh nghiệp trong nước thông qua việc hoàn thiện, củng cố nền tảng của kinh tế thị trường, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản và xác định các chính sách công bằng, cạnh tranh lành mạnh trong tiếp cận vốn, đất đai, tài nguyên và thông tin.
Thứ ba, phải thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp. Nhà nước phải tạo dựng môi trường thuận lợi, xây dựng những trung tâm hướng dẫn và đào tạo cho các doanh nghiệp mới khởi nghiệp, cung cấp những kiến thức cũng như nguồn vốn thông qua việc hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm, ngân hàng đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này… nhằm tạo ra một làn sóng khởi nghiệp và tinh thần doanh nghiệp mạnh mẽ trong xã hội. Phải coi vị thế của doanh nghiệp là vị thế của quốc gia.
Thứ tư, để duy trì tăng trưởng cao trong một thời gian dài, bền vững cần tăng cường cải cách và tích cực đẩy mạnh học hỏi và đổi mới sáng tạo. Cả doanh nghiệp lẫn các tổ chức nghiên cứu khoa học hiện nay đều chưa có động lực để theo đuổi một chương trình tăng năng suất. Do vậy xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia chính là cách thức để cải thiện tình hình về năng suất lao động của Việt Nam.
Trụ cột 2: Công bằng và hòa nhập xã hội (bình đẳng cho mọi người).
Bên cạnh sự phát triển nhanh vận động theo cơ chế, quy luật thị trường, sự cạnh tranh gay gắt sẽ tạo ra sự gia tăng khoảng cách giầu nghèo và cơ hội tiếp cận các phúc lợi xã hội cơ bản. Do vậy bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế nhanh, mạnh mẽ, chúng ta phải xây dựng những chính sách đảm bảo sự công bằng trong phát triển cũng như cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho mọi người, nhất là đối với những đối tượng yếu thế, thiệt thòi trong xã hội như dân tộc thiểu số, người khuyết tật, người nghèo… Đây cũng chính là tính ưu việt của CNXH và cũng chính là trách nhiệm của Nhà nước trong thực thi nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và cũng là hành động thiết thực để thực hiện tốt các kế hoạch hành động của Liên hợp quốc về mục tiêu thiên niên kỷ sau năm 2015.
Để đảm bảo công bằng và thúc đẩy hòa nhập xã hội, cần tiếp tục thực hiện các chương trình đang được triển khai, đồng thời thực hiện chương trình cải cách hướng tới sự hình thành của tầng lớp trung lưu. Các chương trình này đặt trọng tâm vào việc cải cách thể chế, mang lại cơ hội phát triển cho mọi người như mục tiêu được Liên hiệp quốc đưa ra: “không để ai bị bỏ lại phía sau”.
Trụ cột 3: Nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước.
Thứ nhất, năng suất trì trệ hiện nay và môi trường yếu kém cho phát triển khu vực tư nhân là do nhà nước còn thiếu hiệu quả. Do điều kiện lịch sử của Việt Nam, những thiết chế công đã bị thương mại hóa, cát cứ, manh mún và thiếu sự giám sát của người dân.
Thứ hai, hiệu lực của nhà nước dựa trên 3 trụ cột hỗ trợ: (a) Chính phủ được tổ chức tốt với công chức thực tài và có kỷ luật, phải nỗ lực để xử lý các vấn đề để tạo ra một cấu trúc nhà nước chặt chẽ hơn, mạnh mẽ hơn và đảm bảo chế độ chức nghiệp thực tài; (b) Nguyên tắc thị trường cần được áp dụng đầy đủ hơn trong hoạch định chính sách kinh tế trên cơ sở phân định rõ các lĩnh vực công cộng và tư, hạn chế xung đột lợi ích, tăng cường bảo vệ quyền tài sản (đặc biệt là về đất đai), thực thi cạnh tranh thị trường và hợp lý hoá sự tham gia của nhà nước trong nền kinh tế; (c) Nâng cao hơn nữa trách nhiệm giải trình thông qua việc xây dựng một cơ chế hữu hiệu về kiểm soát và cân bằng giữa ba nhánh quyền lực, tạo dựng khung khổ pháp lý thúc đẩy quyền công dân. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin chính xác và kịp thời của công dân, và tăng cường vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ ba, khung khổ pháp lý của Việt Nam đã tạo không gian nhất định cho công dân tham gia vào quá trình quản trị nhà nước. “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là những điều được khẳng định rõ trong Hiến pháp. Nhưng trên thực tế, vẫn tồn tại khoảng cách giữa những cam kết này với thực tiễn tham gia của công dân trong quản trị nhà nước. Quy trình bầu cử và cơ chế cho sự tham gia của các tổ chức xã hội chưa thực sự bảo đảm tính đại diện đích thực của người dân.
Một số quan điểm, tư tưởng lớn của Báo cáo, theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh, đã được chắt lọc, đưa vào nội dung nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Đồng thời, Bộ này đã và đang đưa các nội dung nghiên cứu này để bổ sung, hoàn thiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020 trình Quốc hội phê chuẩn trong tháng 3 năm 2016.
Bài liên quan:
http://www.thesaigontimes.vn/142633/Bao-cao-VN-2035-Ba-tru-cot-phai-cai-cach.html
1.
Tư Hoàng | |
Thứ Ba, 23/2/2016, 19:34 (GMT+7) |
(TBKTSG Online) - Sáng 23-2 tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp Chủ tịch Ngân hàng Thế giới (WB) Jim Yong Kim đang thăm và làm việc tại Việt Nam.
Kết thúc buổi tiếp, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim đã tặng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng Báo cáo “Việt Nam 2035 - Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ” (Báo cáo VN 2035) vừa được công bố trước cuộc gặp.
Báo cáo được phối hợp thực hiện trong hơn một năm bởi các chuyên gia Việt Nam và Ngân hàng Thế giới nhằm đề xuất, khuyến nghị các định hướng, giải pháp về các lĩnh vực Việt Nam cần chú trọng phát triển trong thời gian tới nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, có thu nhập trung bình cao vào năm 2035, đạt được tiến bộ và công bằng xã hội; và năng lực, trách nhiệm giải trình của Nhà nước được tăng cường.
Tại buổi tiếp Thủ tướng đánh giá cao và cảm ơn sự đồng hành, hợp tác tốt đẹp của WB với Việt Nam trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong công cuộc chống đói nghèo, phát triển bền vững; đồng thời mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác của WB, nhất là hỗ trợ nguồn lực, tư vấn chính sách, trợ giúp kỹ thuật trong quá trình thực hiện thành công các mục tiêu phát triển.
Thủ tướng cũng đánh giá cao các cơ quan chức năng của Việt Nam và WB đã phối hợp chặt chẽ trong xây dựng Báo cáo VN 2035 với các mục tiêu, khuyến nghị rất cụ thể, phù hợp với định hướng phát triển bao trùm của Việt Nam; đồng thời đánh giá cao việc ông Jim Yong Kim có mặt tại Việt Nam để công bố Báo cáo này.
Ông Dũng cho biết sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Việt Nam cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn, nhất là thách thức về trình độ phát triển; là một trong số ít nước trên thế giới chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; phải tập trung khắc phục những hậu quả và di chứng nặng nề từ các cuộc chiến tranh xâm lược.
Bên cạnh đó, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, chất lượng đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đặt ra; thách thức từ hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn.
Do đó, Việt Nam mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác, đồng hành của WB trong thực hiện thành công các mục tiêu phát triển của mình, nhất là trong hỗ trợ nguồn lực; tìm kiếm, tiếp cận các nguồn tài trợ ưu đãi; tư vấn chính sách, hỗ trợ kỹ thuật… nhằm giúp Việt Nam giữ vững thành quả phát triển cũng như tiếp tục phát triển nhanh, bền vững.
Ông Jim Yong Kim cho rằng Việt Nam đã đạt rất nhiều thành tựu trong quá trình phát triển của mình, nhất là trong phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách phát triển, cải thiện đời sống người dân; và tin tưởng trên nền tảng kết quả đạt được, với tầm nhìn dài hạn, hội nhập quốc tế sâu rộng cũng như nỗ lực làm việc của mỗi người dân, Việt Nam sẽ tiếp tục có những bước tiến lớn hơn trong tương lai.
“Chúng tôi luôn theo dõi và ngưỡng mộ Việt Nam. Các bạn đã trở thành một câu chuyện thành công lớn trên thế giới. Chúng tôi luôn sẵn sàng sát cánh cùng các bạn và tin tưởng Việt Nam sẽ trở thành nước phát triển có thu nhập cao”, Chủ tịch Jim Yong Kim phát biểu và cho biết sự có mặt của Đoàn tại Hà Nội để Công bố Báo cáo 2035 là sự thể hiện mạnh mẽ cam kết của WB đối với tiến trình phát triển của Việt Nam.
Ông Jim Yong Kim cũng khẳng định, WB sẽ quan tâm hỗ trợ Việt Nam trong tiếp cận nguồn vốn ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian vay dài để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo, phát triển giáo dục, y tế, trong đó có việc hạ thấp tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, còi cọc từ 0-5 tuổi hiện đang còn ở mức khá cao (khoảng 30%);…
“Đối với các mục tiêu này, tôi muốn nói một cách chắc chắn rằng chúng tôi sẽ tìm được các nguồn lực ưu đãi cho Việt Nam”, ông Jim Yong Kim cam kết.
---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét