Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Vì sao..


Vì sao Trung Quốc làm nên kỳ tích kinh tế nhưng lại chưa trỗi dậy về văn hóa ?

  •   TRỊNH VĨNH NIÊN*
  • Thứ tư, 15 Tháng 5 2013 14:26
  • font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ


Vì sao Trung Quốc làm nên kỳ tích kinh tế nhưng lại chưa trỗi dậy về văn hóa ?
Trung Quốc đã trở thành nền kinh tếlớn thứ hai thế giới. Dù GDP bình quân đầu người vẫn còn rất thấp, song xét từ bất cứ góc độ nào thì Trung Quốc đã làm nên kỳ tích trong lịch sử kinh tế thế giới.
Nhưng Trung Quốc đã có sự trỗi dậy về văn hóa chưa ? Rõ ràng là chưa. Trung Quốc đã trỗi dậy, đời sống kinh tếgiàu lên, nhưng nước này vừa chưa giành được sự tôn trọng của cộng đồng quốc tế, lại cũng chưa làm cho dân chúng trong nước được sống hạnh phúc hơn.
Ngày càng có nhiều người Trung Quốc cảm thấy rất bực bội với tình hìnhnội chính hay ngoại giao của nước mình. Nhưng trên thực tế, hiện tượngnày rất dễ hiểu. Người ta muốn nêu ra câu hỏi : ngoàisức mạnh kinh tếra, Trung Quốc còn có thể cung cấp được thứ gì nữa ?Có thể cung cấp một kiểu đời sống đạo đức cho nhân dân được không ? Có thể cung cấp cho cộng đồng quốc tế một loại văn hóa hoặc giá trị có thể lựa chọn không ?
Câu trả lời là hiển nhiên. Xét từ bên trong, sự trỗi dậy về kinh tếđã dẫn đếncuộc khủng hoảng đạo đức của toàn xã hội. Cho dù sự phát triển kinh tếxã hội tất nhiên sẽ dẫn đếnsự giải thể hệ thống đạo đức cũ, vậy thì hệ thống đạo đức mới như thế nào đây ? Một xã hội không có hệ thống đạo đức sẽ khó có thể sinh tồn. Xét từ bên ngoài, khi thiếu vắng một nền văn hóa thu hút mọi người và hệ giá trị mà nó thể hiện, thì sự trỗi dậy về kinh tếthường hay bị coi là chuyện rất đáng sợ, hoặc là một mối đe dọa.
Trung Quốc cũng ý thức được điều đó, vì vậy họ cũng cố gắng giới thiệu nền văn hóa nước mình ra nước ngoài. Vì không có những tư tưởng mới và giá trị mới, Trung Quốc đành phải nhờ tớiKhổng Tử. Họ lập các Học viện Khổng Tử. Nhưng các Học viện ấy lại bị đơn giản hóa thành nơi họcngôn ngữ, chữ viết của Trung Quốc. Bất kể người lập Học viện Khổng Tử hay người làm công tác truyền bá truyền thông khác, họ đều không biết mình cần phải truyền bá thứ văn hóa và giá trị như thế nào.
Ông Vương Canh Vũ ** gọi sự trỗi dậy của Trung Quốc hiện nay là lần trỗi dậy thứ tư. Trong lịch sử, Trung Quốc ít nhất từng có 3 lần được công nhận là quốc gia lớn mạnh nhất trong vùng, vì thế người ta gọi sự trỗi dậy lần nữa này của Trung Quốc là sự « phục hưng ». Bởi lẽ Trung Quốc từng trỗi dậy nên người ta có thể họcđược rất nhiều bài họckinh nghiệm từ lịch sử trỗi dậy, như quốc gia trỗi dậy như thế nào ? suy thoái như thế nào ?
Theo quan điểm của ông Vương, lần trỗi dậy thứ nhất xảy ra vào quãng từ thế kỷ III trước CN đếnthế kỷ III sau CN, tức từ khi triều nhà Tần thống nhất Trung Quốc cho đếntriều nhà Hán. Vào thời nhà Hán, sức ảnh hưởng của Trung Quốc lan tới bán đảo Triều Tiên và vùng Đông Nam Á. Rất nhiều nước xung quanh Trung Quốc thời nhà Hán đã nhập khẩu hàng hóa và công nghệ của triều Hán, chủ yếu là tơ lụa, giấy viết, đồ gốm sứ và các công nghệ lục quân và hải quân. Trong giai đoạn này, ấn tượngsâu sắc nhất mà Trung Quốc đem lại cho mọi người là về kinh tếvà văn hóa.
Trong hơn 400 năm sau đời Hán, Trung Quốc chia năm xẻ bảy thành mấy tiểu quốc rối loạn bất an. Nhưng việc kiến lập triều nhà Đường hồi thế kỷ VII đã tuyên bố lần trỗi dậy thứhai của Trung Quốc. Sức ảnh hưởng của triều Đường truyền bá tới Nhật và các vùng khác ở Đông Á, duy trì được gần 300 năm. Trung Quốc bấy giờ hoàn toàn khác với triều nhà Hán. Triều nhà Đường lớn mạnh và ảnh hưởng ra bên ngoại là nhờ có sự mở cửa [khai phóng] cao độ. Thời Đường chẳngnhững văn hóa mở cửa mà chính trị cũng mở cửa, Trung Quốc được các họcgiả phương Tây gọi là « Đế quốc mở cửa ». Sự truyền bá đạo Phật và việc các bộ lạc du mục phương Bắc định cư tại vùng trung nguyên —lực hỗn hợp lớn mạnh của hai loại ảnh hưởng đó đã tạo dựng nên một quốc gia mới, thể hiện tính thế giới cao độ của nó. Sự mở cửa cao độ cũng đem lại một thời đại không ngừng tăng trưởng về thương mại và công nghiệp. Các nhà buôn và du khách đếntừ những đất nước xa xôi chẳngnhững làm phong phú đời sống của người Trung Quốc mà còn có đóng góp cho văn hóa nước này. Nhờ thế đã tạo dựng được một thời kỳ toàn thịnh thực sự trong lịch sử Trung Quốc.
Triều nhà Minh được lập vào năm 1368, nhờ đó Trung Quốc thực hiệnlần trỗi dậy thứ ba, duy trì được khoảng 400 năm. Trong thời giannày, tư tưởng Nho giáo được tái xác lập là tư tưởng chính thống của tầng lớp thống trị. So với hai lần trước thì lần trỗi dậy này thua kém nhiều, bởi lẽ văn hóa chính trị của Trung Quốc bắt đầu trở nên rất bảo thủ. Chính sách bế quan tỏa quốc dẫn đếntình hình đất nước ngày một xấu đi. Mặc dầu triều Minh tăng cường phòng ngự nhưng vẫn không ngừng bị các nước xung quanh xâm nhập và cuối cùng bị người dân tộc Mãn chinh phục. Tuy rằng triều nhà Thanh lúc mới thành lập rất hùng mạnh và càng có tính xâm lấn hơn trước, nhưng sau đó tầng lớp cai trị lại tiếp tục kéo dài nhiều hơn nữa chính sách bảo thủ và bế quan tỏa quốc của triều nhà Minh, cuối cùng suy sụp dần. Năm 1840, khi Anh Quốc lớn mạnh tấn công Trung Quốc thì nước này dưới sự thống trị của nhà Thanh đã không còn sức chống trả nữa.
Sự trỗi dậy thiếu hồn đổi mới
Sự trỗi dậy của Trung Quốc ngày nay, ít nhất cho đến bây giờ, không giống như sự trỗi dậy của thời nhà Hán Đường, mà càng giống như thời nhà Minh (Thanh). Đã không có sự sáng tạo đổi mới chế độnhư đời Hán, lại cũng không có sự mở cửa và sự trỗi dậy về văn hóa như đời Đường.  Điều duy nhất giống sự trỗi dậy 3 lần trước là phát triển kinh tế và kèm theo là tăng cường sức mạnh quân sự. Cho dù do toàn cầu hóa mà kinh tế thay đổi trở nên tương đối mở, nhưng văn hóa về cơ bản vẫn còn ở trạng thái bế quan tỏa quốc, trong khi từ chối tiếp thụ các giá trị phổ quát lại đồng thời không có sức sáng tạo văn hóa ở bên trong.
Mô hình trỗi dậy của Trung Quốc ngày nay có khả năng lặp lại tấn bi kịch của triều nhà Minh, tức là trước khi quốc gia trỗi dậy thực sự thì đã bắt đầu suy thoái. Chính sách bế quan tỏa quốc về thể chế và về tư tưởng của triều nhà Minh đã làm cho Trung Quốc bỏ mất cơ hội trở thành một quốc gia biển. Thời kỳ triều nhà Minh là thời mở đầu thế kỷ hàng hải của thế giới. Hồi ấy dù là về mặt nhà nước hay xã hội, Trung Quốc đều có năng lực trở thành quốc gia biển hơn bất cứ quốc gia nào. Trịnh Hòa đi ra biển phía Tây là sự tượng trưng cho năng lực [biển] của nhà nước. Nạn « cướp biển » « điên cuồng lạ thường » ở vùng ven biển Đông Nam là sự tượng trưng cho năng lực biển của dân gian Trung Quốc. Thế nhưng trong điều kiện không có sự đổi mới về tư tưởng và chế độ, nhóm người từng giành được những lợi ích đặc quyền to lớn dưới sự che chở của vương quyền đã chặt đứt con đường Trung Quốc đi lên thành quốc gia biển.
Ý nghĩa của trỗi dậy văn hóa đối với sự phát triển bền vững của quốc gia bị [người Trung Quốc] đánh giá cực thấp. Trỗi dậy thời Hán Đường là trỗi dậy về văn hóa ; suy thoáisau chót cũng là suy thoái về văn hóa. Nếu văn hóa không thể trỗi dậy thì tất nhiên sẽ phát sinh sự chế ước nghiêm trọng đối với kinh tếthậm chí chính trị. Xét từ bên trong, không có sự sản sinh tư tưởng thì không thể có sự đổi mới về chế độ, cuối cùng tất nhiên dẫn đếnkhép kín và suy thoái. Xét từ bên ngoài, không sinh ra tư tưởng thì không thể tạo dựng được một nền văn hóa và giá trị quan có sức thu hút. Nếu chỉ có trỗi dậy về kinh tếvà tiến trình quân sự hóa liên quan với nó, thì [quốc gia ấy] sẽ bị coi là « bá đạo » và là mối « đe dọa », từ đó làm xấu môi trường quan hệ quốc tế.
Sở dĩ văn hóa không trỗi dậy theo kinh tế, nhân tố hàng đầu là mối quan hệ giữakinh tếvới văn hóa. Dù cho người ta có thể quan sát thấy thí dụ kinh tếvà văn hóa đồng thời trỗi dậy (thời Hán Đường) nhưng người ta cũng có thể quan sát thấy thí dụ kinh tếtrỗi dậy mà không dẫn đếnsự trỗi dậy của văn hóa (triều nhà Minh). Trỗi dậy kinh tếvà trỗi dậy văn hóa không tồn tại mối quan hệ tất nhiên với nhau, hai cái đó không phải là cùng một sự việc. Cho dù không có trỗi dậy kinh tếcũng có thể vẫn có trỗi dậy về văn hóa. Bất kể ở Trung Quốc hay ở phương Tây, rất nhiều sáng tạo tư tưởng và văn hóa vĩ đại đều được tiếnhành dưới trạng thái cực kỳ nghèo khó.
Ba nhân tố phi kinh tế của trỗi dậy văn hóa
Sáng tạo văn hóa và sự phân quyền củanhà nước, văn hóa mở cửa, người văn hóa độc lập—ba nhân tố phi kinh tế này càng có liên quan với nhau. Nếu tồn tại một trong ba nhân tố đó thì có thể xuất hiện sáng tạo văn hóa. Phân quyềnvà mở cửa dẫn đến trỗi dậy văn hóa, đây là kinh nghiệm của lịch sử Trung Quốc. Trong lịch sử, mỗi lần xuất hiện trạng thái phân chia quyền lực, nhất là khi hoàng quyềnsuy thoái, thì ngược lại, văn hóa sẽ xuất hiện tình cảnh phục hưng. Ngày nay mọi người không muốn dùng sự suy thoái của chính quyềnnhà nước để đạt được sự trỗi dậy văn hóa. Ngược lại phần lớn mọi người mong muốn chính quyềnnhà nước lớn mạnh. Một quốc gia lớn mạnh cần có sự nâng đỡ của chính quyềnnhà nước lớn mạnh. Nhưng mối quan hệ giữaphân quyềnvà văn hóa đúng là đã nói rõ vấn đề chính quyềnnhà nước nên quản lý cái gì, không nên quản lý cái gì.
Trung ương tập quyềncũng không có mối quan hệ tất nhiên với suy thoái văn hóa. Mô hình tập quyềnthời nhà Minh dẫn đến sự suy thoái văn hóa ; mô hình tập quyềntriều nhà Đường thì lại dẫn đến sự trỗi dậy văn hóa. Tại sao vậy ? Thứ nhất, do mô hình tập quyềnkhác nhau. Thứ hai, do có sự mở cửa. Chính quyềntriều nhà Minh thâm nhập lĩnh vực văn hóa, chính quyềnnhà nước nắm lấy và kiểm soát văn hóa, đồng thời nhà Minh lại thực hành « bế quan tỏa quốc » về văn hóa. Chính quyềnnhà nước đời nhà Đường về cơ bản không đặt chân vào lĩnh vực văn hóa. Dưới thời nhà Đường, lĩnh vực văn hóa có hình thức tự trị rất điển hình, hình thành « xã hội thị dân » [ta gọi là xã hội dân sự hoặc xã hội công dân] văn hóa tự trị cao độ. Đồng thời Trung Quốc triều nhà Đường là một đế quốc mở, trong khi văn hóa mở cửa toàn diện với bên ngoài lại đồng thời chỉnh hợp văn hóa ngoại lai để đưa nó vào văn hóa chủ thể tự thân.
Một nhân tố quan trọng hơn nữa là nhân cách độc lập của người văn hóa [văn hóa nhân]. Nếu có nhân cách độc lập thì không một nhân tố nào, kể cả chuyên chế và nghèo đói, có thể ngăn trở sự sáng tạo văn hóa. Nước Nga là một thí dụ điển hình. Bất kể nền chuyên chế của Sa Hoàng hay của chủ nghĩa cộng sản đều không thể ngăn cản sự sáng tạo tri thức của các nhà trí thức Nga. Dưới ách chuyên chế, các nhà trí thức Nga đã sáng tạo được một nền văn học nghệ thuật, tư tưởng triết học huy hoàng. Người văn hóa Trung Quốc chưa thể tiến hành sáng tạo văn hóa dưới ách chuyên chế —điều đó có liên quan tới việc người văn hóa ỷ lại cao độ vào chính quyền. Trong lịch sử Trung Quốc chưa từng xuất hiện cái mà phương Tây gọi là quần thể « nhà trí thức », tức quần thể lấy sự sáng tạo tư duy làm nghề nghiệp suốt đời của mình.
Rất rõ ràng, muốn thực hiện sự trỗi dậy văn hóa Trung Quốc, khâu mấu chốt là ở chỗ điều chỉnh mối quan hệ giữa chính trị với văn hóa. Xưa nay chính quyền chưa bao giờ là chủ thể của sáng tạo văn hóa. Ý tưởng muốn chính quyền sáng tạo văn hóa hoàn toàn chỉ là không tưởng. Như vậy không phải là nói chính quyền không có bất kỳ mối quan hệ nào với sáng tạo văn hóa, mà hoàn toàn ngược lại. Trong hoàn cảnh ở Trung Quốc, chính quyền quyết định sự thành bại của sáng tạo văn hóa.
Thứ nhấtlà ranh giới phạm vi tác động [nguyên văn biên giới] của quyền lực chính quyền. Thời nhà Đường, ranh giới đó của chính quyền không tạo ra trở lực lớn với sáng tạo văn hóa ; nhưng thời nhà Minh và nhà Thanh thì lại bóp chết sự sáng tạo văn hóa. Ngày nay, ranh giới phạm vi tác động của chính quyền Trung Quốc không giống nhà Đường mà giống nhà Minh Thanh. Quyền lực của Ban Tuyên giáo Trung ương và của Bộ Văn hóa đặt chân lên mọi xó xỉnh của lĩnh vực văn hóa. Nhiều năm qua các ban ngành đó không thực hiện cải cách có tính thực chất, mà suy sụp trở thành một kiểu cơ chế kiểm soát đơn giản. Việc chính quyền thâu tóm toàn bộlĩnh vực văn hóa cũng dẫn đến sự chính trị hóa cao độ và quan liêu hóa cao độ trong lĩnh vực văn hóa, khiến cho những gien [gene] sáng tạo văn hóa nguyên sơ nhất cũng hoàn toàn không thể xuất hiện.
Thứ hailà sách lược của chính quyền, chính quyền ủng hộ cái gì và phản đối cái gì đều sẽ gây ra ảnh hưởng sâu sắc đối với sự trỗi dậy văn hóa. Trên tầng nấc quốc tế, chính sách của chính quyền có thể là mở cửa hay đóng kín. Mở cửa dẫn đến sự trỗi dậy văn hóa thời nhà Đường. Chính sách đóng cửa làm cho thời nhà Minh không có sự trỗi dậy văn hóa. Tại Trung Quốc có hiện tượng quá nhiều nguồn lực của chính quyền bị dùng vào việc kiểm soát, và dùng quá ít nguồn lực cho sự sáng tạo cái mới. Cho dù rót nguồn lực vào sáng tạo mới thì cũng chỉ rót vào lĩnh vực văn hóa nào chính quyền tán đồng mà thôi. Nhưng có một thực tế là trong bất cứ xã hội nào, rất ít quan chức chính quyền hiểu được nội dung của sáng tạo văn hóa.
Hiện tượng bậy bạ [hoang đường] nhất ở Trung Quốc là việc chính quyền ủng hộ văn hóa thường hay đi tới phản diện, dẫn đến sự suy thoái của sự nghiệp văn hóa được nhà nước ủng hộ. Thí dụ điển hình là lĩnh vực Phật giáo. Bất kể là về chính sách hay về nguồn lực, chính quyền ra sức ủng hộ sự phát triển của Phật giáo, kết quả dẫn đến sự tham nhũng trên diện tích lớn trong nội bộ Phật giáo. Các lĩnh vực văn hóa như văn nghệ, văn học … cũng vậy. Thực ra sự ủng hộ của chính quyền đã làm cho các lĩnh vực đó không thể tránh được sự suy thoái. Logic rất đơn giản : một khi các quần thể đó có thể dựa vào chính quyền để sinh tồn thì họ sẽ mất đi động lực tiến lên, kết quả tất nhiên là suy thoái. Tại một số nước khác cũng có trường hợp chính quyền ủng hộ sự nghiệp văn hóa, nhưng nhất thiết là phải thông qua trao quyền cho cấp dưới để các nhân sĩ chuyên ngành thực thi. Phương pháp trao quyền đó chưa chắc sẽ dẫn đến sự trỗi dậy văn hóa song cũng không dẫn đến sự suy thoái. Tại Trung Quốc, chính quyền cũng biết trao quyền, nhưng mục đích thường không nhằm vào bản thân văn hóa mà là thông qua phương pháp chính trị để đạt được mục đích chính trị.
Sự dính líu giữa chính quyền với văn hóa đem lại cục diện cả hai đều thua. Việc chính quyền kiểm soát văn hóa đưa đếntình trạng phần lớn mọi người ỷ lại cao độ vào chính quyền, kết quả sẽ dẫn tới suy thoái văn hóa. Đối với những người văn hóa muốn giữ được một số tính độc lập, họ muốn sinh tồn và phát triển thì biện pháp duy nhất họ dùng là chống lại [đối kháng] chính quyền, qua đó tạo ra một loại văn hóa khác đối lập với chính quyền, cũng là một loại văn hóa chính trị hóa quá mức. Việc thách thức nền chính trị hiện có trở thành nguồn lực quan trọng cho sự sáng tạomới văn hóa của quần thể này. Rất dễ hiểu là tại Trung Quốc, bản thân sự sáng tạovăn hóa ấy (bất kể là tôn giáo hay nghệ thuật và văn học) không được chính quyền tiếp thụ mà còn thường xuyên bị chèn ép bài xích, nhưng người phương Tây thì khen hay, gọi đấy là sự trỗi dậy văn hóa của Trung Quốc. Nếu xem xét từ lập trường khách quan, dù là sáng tạovăn hóa do bản thân chính quyền tiếnhành hay là sáng tạovăn hóa được tiếnhành vì để chốnglại hiện trạng chính trị, cả hai đều rất khó đi đếnsự trỗi dậy của văn hóa.
Trên thực tế, bất kể sự chính trị hóa của phía chính quyền hay sự chính trị hóa của phía chốnglại hiện trạng chính trị, cả hai đều đang chế ước sự trỗi dậy văn hóa của Trung Quốc trên mức độ lớn nhất. Chính trị vốn dĩ chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong xã hội ; phần lớn không gian của xã hội thì có tính phi chính trị. Cho dù là tập quyền và chuyên chế, chỉ cần quyền lực chính trị có sự giới hạn thì lĩnh vực sáng tạovăn hóa vẫn có không gian sáng tạorộng lớn.
Chắc chắn là nếu Trung Quốc muốn đi con đường trỗi dậy thời nhà Đường mà tránh đi con đường trỗi dậy thời nhà Minh thì biện pháp duy nhất là phải tiếnhành cải cách thể chế văn hóa, giải phóng văn hóa ra khỏi chính trị, ra khỏi thể chế quan liêu, giải phóng người văn hóa ra khỏi quá trình quan liêu chính trị. Chỉ có « nhốt quyền lực vào trong cũi » thì văn hóa Trung Quốc mới có thể trỗi dậy được.◆
Ghi chú
* Tác giả Trịnh Vĩnh Niên 郑永年, s. 1962,Thạc sĩ Luật ĐH Bắc Kinh, Tiến sĩ chính trị học ĐHPrinceton, hiện là Giám đốc Viện Nghiên cứu Đông Á thuộc ĐH Quốc gia Singapore, nhà bình luận nổi tiếng của Báo Buổi Sớm (Singapore), thường viết về chủ đề Trung Quốc với thái độ phê phán nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, được nhiều báo TQ đăng lại.
** Vương Canh Vũ, s. 1930, Tiến sĩ sử học ĐH London, thời gian 1957-86 từng dạy ở ĐH Malaya (Malaysia) rồi ĐH Quốc gia Australia, 1986-95 Hiệu trưởng trường ĐH Hong Kong, 1997-2007 Giám đốcViện Đông Á thuộc Đại học quốc gia Singapore, từ 2007 tới nay là Giáo sư đặc cấp Đại học Quốc gia Singaporekiêm Chủ tịch Viện Nghiên cứu Đông Á.
Nguyễn Hải Hoành   lược dịch và ghi chú
Nguồn:
http://business.sohu.com/20130424/n373836036.shtml

郑永年:中国创造经济奇迹但为何文化没有崛起?

Bài đã đăng trên VHNA số 244 phát hành ngày 10.5.2013.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: