Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019

NHỮNG TRANG BỊ CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU TRIẾT VIỆT

Điều trước hết là ngũ hành phải nhận diện thật kỹ về vị trí, số độ, phương hướng, màu sắc. Số chẵn (2, 4) chỉ đất. Số lẻ (1, 3, 5) chỉ trời.
ngu-hanh
Có 2 chiều chiêu mục: vòng sinh: tay mục (hữu nhậm) theo kim đồng hồ, vòng khắc: tay chiêu (tả nhậm) ngược kim đồng hồ.
1
Vòng trong từ 1-5, vòng ngoài từ 6-10. Lấy số 5 làm cốt rồi cộng dọc lên thì được số 7, dọc xuống được số 6, ngang mục số 9, ngang chiêu số 8. Đôi khi thêm số 10 là cộng với 5 (vòng 10 chấm đen trong Hà Đồ là nó).
2
Hồng Phạm Cửu Trù chính là lược đồ của Việt Tỉnh Cương (vì nó do khung chữ tỉnh #) xưa cũng gọi là Cửu Lạc (con số 9 của dân Lạc) sau Nho công thức hóa thành Hồng Phạm Cửu Trù.
3
Nếu lấy các số ra khỏi Hồng Phạm thì sẽ có lược đồ các số như hình Chữ Viên mà tôi gọi nó là chữ Văn tả nhậm, An Độ gọi là sauvastika. Ngược lại với chữ Vạn Đức quốc xã, hữu nhậm, An Độ gọi là swastika. Nếu ta đặt tên bắn vào các số từ to đến nhỏ thì sẽ nhận ra 2 chiều cả Vạn lẫn Vãn trong Hồng Phạm Cửu Trù. Chữ vãn do tôi đưa vào để chỉ đường tiến vào nội tâm để khỏi lẫn với chữ Vạn. Vì thiếu tên gọi.
4
Hà Đồ, Lạc Thư chính là lược đồ bánh dầy bánh chưng. Bánh chưng vuông là Lạc Thư tiến theo chiều khắc (tả nhậm như các vùng trống đồng) tức tiến vào nội tâm gọi là sách mẹ. Nam ngoại nữ nội là thế.
Các bình đèn ở Đông Sơn, các đỉnh, cả lịch là những đồ dùng để tế tự tức đồ cao trọng nhất đều hàm tàng số 2-3 (3 chân 2 tai). cái phủ Việt (cốt yếu ở chỗ lưỡi cong) cũng hàm chứa số 2-3; trên 2 giao long dưới 3 người hoặc 3 con vật. Đủ biết bộ số vài ba quan trọng biết bao.
Điều cần nhận chân là Trống Đồng với Kinh Dịch cũng đặt theo hướng tả nhậm (trọng tả). Về Kinh Dịch bốn quẻ bên chiêu đều là quẻ âm (tốn, khảm, cấn, khôn) cứ xem hào nền tảng (hào bên dưới hay bên trong) là âm – thì gọi là quẻ âm, 4 quẻ bên mục đều dương: kiền, đoài, li, chấn nên là quẻ dương. Chiêu mục là bên trái bên phải, theo tinh thần Kinh Dịch không được nói bên nào trái bên nào phải, âm không xấu, dương không tốt, mà tốt ở tại hai bên hòa hay là thăng bằng động đích: dynamic equilibrium.
10
Mấy phù hiệu trên (Kinh Dịch, Lạc Thu, Trống Đồng) đều xếp theo hướng tả nhậm là hướng phù yểu, nâng đỡ bên yếu, đặt yếu lên trên như quẻ thái xếp Đất (Khôn) trên, Trời (Kiền) dưới thì mới gặp nhau. Vì Đất nặng đi xuống, Trời nhẹ bay lên mới có cơ gặp gỡ. Tu thân là hiện thực quẻ thái, hạ vật dục xuống đưa tinh thần lên. Nên ghi nhận các bình, các đỉnh, các lịch, các giả, các đồ để tế đều xếp theo quẻ Thái là hai tai (số chẵn chỉ đất) ở trên, 3 chân ở dưới (số 3 chỉ trời) tức cũng là tả nhậm phù yểu.
  Ngũ hành còn có vòng trong vòng ngoài như hình trên, vòng trong là 5 số sinh: 1, 2, 3, 4, 5 thêm vòng thành là 4 số: 6, 7, 8, 9/
11
 Các số trong Trống Đồng có đủ cả 5 số sinh lẫn 4 số thành (hay vòng ngoài). 5 số sinh là:
 – Số 1 là mặt trời ở trung cung chỉ bằng số không = zero = 0 = vòng 1.
 – Số 2 là nét song trùng chạy song song giữa có vòng tiếp tuyến. Có 2 còng kép và 2 vòng đơn.
 – Số 3 là các vòng tam giác gốc (tiếp cận mặt trời) và tam giác nhỏ ở ngoài (quen gọi răng cưa).
 – Số 4 là 4 quai trống chỉ 4 phương hoặc 4 người đánh trống ở vòng 3.
– Số 5 là 5 vòng: Mặt trời, 14 tam giác gốc, vòng con người, vòng hữu và chim, vòng ngoài cùng toàn là chim: 36 con.
 Số 5 cũng được tìm ở hàng ngang là:
1 người đánh trống
2 người giã gạo
2 người hát “cài hoa kết hoa”
4 người đánh trống.
12
Xếp theo quẻ Thái:
  Đất trước là số 4 và 2, Trời sau là số 3 và 1. Số 1 và 4 cộng lại 5 (số du mục vì ở hai đầu). Số 3 và 2 cộng lại cũng là 5 số nông nghiệp vì ở giữa có hợp thành. Số 6, 7 ở vòng 3: 6 bên chiêu, 7 người bên mục. Số 8 là chim ở vòng 4 bên chiêu.
  Số 9 là 36 chim ngoài cùng tượng 4 hoa quỳ 9 cánh: 4*9=36 chúng chỉ hoa nhật quỳ vì hoa quỳ hướng về thái dương, đây là 36 con đều đi hướng đó, hướng của “phượng minh triều dương” những con trĩ chào mặt trời (mới mọc).
  Số 10 là 5 cặp nai chà, có thể chỉ “ngày tiên tháng rồng”: ngày tiên là mồng 10 (2*5=10), tháng rồng là tháng 3 ở cung thìn (thì là cung 5: tí sửu dần mão thìn), nên trống có thể hàm chứa cả ngày giỗ tổ. Theo những điều đã nói trên đây ta thấy rằng Trống Đồng hàm chứa toàn nền triết Việt, có thể tóm vào hai chữ Tiên Rồng: tiên là chim trên mặt trống. Còn rồng là thuyền rồng dưới tang trống xếp theo quẻ Thái và tả nhậm tức mặt trống chỉ mẹ tiên ở trên, còn tang trống chỉ cha rồng ở dưới.
 
Vài thế giao chỉ uyên nguyên
 a. Nữ Oa Phục Hy giao chỉ: bà bên chiêu, ông bên mục. Bà cầm cái quy cũng gọi là thập tự nhai + (5 số sinh) làm nội tướng. Ong cầm cái củ (thước vuông) vòng ngoài.
 b. Trống cũng vậy: số chẵn ở bên chiêu, số lẻ ở bên mục tức âm (đất) trên, dương (trời) dưới.
 c. Thái cực đồ cũng âm bên chiêu, dương bên mục.
 d. Chữ Nghệ cũng nét dương theo hữu nhậm, nét mác theo tả nhậm. (Lạc Long Quân đóng đô ở xứ Nghệ An là thế)
 e. Văn Lang: văn kép bởi nghệ và bộ đẩu.
 f. Giao Chỉ: giao là kép bởi chữ nghệ và bộ lục.
Cài hoa kết hoa
  Lối hát giao tay nhiều khi cả giao chân gọi là “cài hoa kết hoa”. Đó là mô thức cho các lối hát hai bè, mà lớn lao hơn hết là hát trống quân. Trong đó hai bè nam nữ hát đối nhau (xem bài trống quân trong Văn Lang Vũ Bộ). Đó là lối hành đạo cụ thể hơn hết nên ta còn gặp đầy.
 Thuyền tình bể ái
   Đây là nét giao chỉ cụ thể để đẻ ra cái bọc trăm trứng. Hình phóng đại từ mũi thuyền trong trống. Au Cơ lao vào miệng rồng. Đó là cánh đồng Tương nơi mẹ Au Cơ gặp bố Lạc Long Quân đẻ ra cái bọc trứng rồi nở ra con, 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống bể. Còn số 5 (ngũ hành) đã tàng ẩn trong truyện.

Lưỡi rìu xoè ở Đông Sơn
Trên 2 giao long giao tay, dưới hình 3 người hoặc 3 con thú.
 Vài trên ba dưới = di vật Đông Sơn.  Giống Phủ Việt (Sứ Điệp 170), Phủ Việt là một cái “búa” có lưỡi cong cong.
 Nhất điểu nhì xà
Nhất điểu nhì xà tìm thấy trên Trường Sa có cả ở Mường: hai chim với hai rắn (xà long) tiền đề cho cặp đôi tiên rồng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: