Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019

“Lực lượng đặc biệt” của Minh triều: tam xưởng nhất vệ

Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương (1328-1398).
Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương (1328-1398).
Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương một hôm hỏi Tống Liêm: “Tối qua, nhà khanh có tiệc rượu thì phải? Các ngươi gồm những ai, có được những thức nhắm gì?” Vị Hàn lâm học sĩ trọng thần triều đình vốn tính thật thà, nên nhất nhất đều thuật lại với hoàng đế. Nghe xong, Chương mỉm cười gật gù, buông một câu khiến Liêm không rét mà run: “Tốt, ngươi quả không dối trẫm!”
Chu Nguyên Chương nắm rõ nhất cử nhất động của bá quan văn võ là nhờ sự đắc lực của Cẩm Y vệ. Triều Minh, kể từ Chu Nguyên Chương, đã sáng lập nên các cơ quan thanh tra mật thám kiểm soát khắp trong triều ngoài nội. Sau Cẩm Y vệ, còn sinh ra “tam xưởng”, là Đông xưởng, Tây xưởng và Nội Hành xưởng chuyên theo dõi động tĩnh cả quan tình lẫn dân tình.
1/- Nhất vệ:
Sau khi lên ngôi (1368), nỗi lo canh cánh trong lòng khiến Chu Nguyên Chương ăn không ngon ngủ không yên chính lại là bọn khai quốc công thần. Chương thất học, bản tính đa nghi đố kỵ, lại tự ti về xuất thân hèn kém của mình, nên bị ám ảnh bởi mối lo rằng con cháu dòng dõi mình rồi đây sẽ bị tuyệt diệt bởi chính những đại thần thân cận. Chương bèn cho lập “Củng vệ ty”, đây là vệ đội ngự lâm quân chuyên việc hầu cận bảo vệ hoàng đế. Năm sau, 1369, Chương sáp nhập ty này với “Nghi loan ty” (chuyên lo về nghi vệ) thành “Thân quân Đô úy phủ”, cơ quan này chưởng quản nghi trượng kiêm thị vệ cho hoàng đế. Đến 1382, Thân quân Đô úy phủ chính thức đổi tên thành Cẩm Y vệ. Chương thực hiện cuộc cải cách qui chế Cấm vệ quân, thành lập 12 vệ Thân quân, và Cẩm Y vệ là lực lượng quan trọng nhất trong 12 vệ thân binh ấy, do Chương trực tiếp quản lý.
Đội Cẩm Y vệ hộ giá tuần du.
Đội Cẩm Y vệ hộ giá tuần du.
Là đội thân quân thị vệ kiêm nghi trượng của hoàng đế, Cẩm Y vệ tập hợp toàn những tay dũng sĩ, hình vóc lực lưỡng, võ nghệ cao cường, chia làm Hiệu úy chưởng quản dàn lỗ bộ và tàn lọng, Lực sĩ đặc trách chiêng trống và cờ phướn. Theo cơ cấu quân sự của triều Minh, mỗi “vệ” 5.000 quân, chia làm các “Thiên hộ sở” và “Bách hộ sở”. Cẩm Y vệ lúc ban đầu thành lập ban đầu chỉ 1.500 người, gấp rưỡi một “sở”, đều là thành phần ưu tú tinh tuyển; sau 5 năm thì khuếch trương thanh thế nảy cành đâm nhánh sâu rộng khắp hang cùng ngõ hẻm, đến lúc giải tán thì quân số đã hơn 6 vạn, và đồ sát cũng ngần ấy sinh linh.
Cẩm y vệ là cơ cấu quân sự nằm ngoài lục bộ, trực thuộc hoàng đế. Cơ quan này cai quản mọi việc hình ngục, toàn quyền trinh thám, dò xét, thẩm vấn, và định tội bất kỳ ai, kể cả hoàng thân quốc thích, văn võ trọng thần, cho chí bá tánh mà không cần phải thông qua Hình bộ. “Cẩm y vệ Chỉ huy sứ” có cấp Đô đốc trở lên, là nhân vật thân tín và chỉ có bổn phận phải giải trình với riêng hoàng đế.
Không phụ lòng tin của thiên tử, trong vòng vài năm, tất cả công thần của Chương đều bị vu tội và hành hình để trừ hậu hoạn. Riêng trong hai vụ án của Hồ Duy Dung và Lam Ngọc (tức “Hồ Lam chi ngục”) đã có hơn bốn vạn mạng người bị tru diệt. Sau khi thanh trừng trọng thần xong thì tiếng oán than về sự lộng quyền tàn độc của Cẩm Y vệ cũng lan truyền khắp thiên hạ. Chương lúc này lại dùng ngón đà đao, trở lại chém luôn bọn tai mắt nha trảo của mình. Vào năm 1387, Chương hạ lệnh tiêu hủy những hình cụ của Cẩm Y vệ, tất cả phạm nhân còn lại chuyển giao Hình bộ tra xét, những án ngục nội ngoại do Tam pháp ty thụ lý; Cẩm Y vệ được giải tán hầu lấy lòng, trấn an bá tánh, nhưng hậu quả nặng nề do Cẩm Y vệ gây ra đã khiến nhân tâm ly tán, luân thường điên đảo, không khí khủng bố bao trùm, người người ngờ vực nghi kỵ lẫn nhau, nguyên khí thịnh vượng đã chẳng cách nào phục hồi lại được.
Minh Thành tổ Chu Lệ (1360-1424).
Minh Thành tổ Chu Lệ (1360-1424).
Sau này, con thứ tư của Chu Nguyên Chương là Chu Đệ dấy binh thoán nghịch giết cháu ruột để lên ngôi, lấy niên hiệu Vĩnh Lạc, chính là Minh Thành tổ, vị vua tàn bạo hoang dâm nhất triều Minh. Biết lòng dân bất mãn, quần thần dị nghị, chẳng ai phục mình, nên chỉ vài tháng sau khi đăng cơ, Đệ đã cho khôi phục qui chế Cẩm Y vệ (vào đầu năm 1403). Từ đó, cơ quan khủng bố này được duy trì mãi cho đến khi Minh bị diệt (1644), tổng cộng Cẩm Y vệ tồn tại và hoành hành ngót 250 năm.
Cẩm Y vệ được giao cho đặc quyền ưu tiên tuyệt đối trong thực thi chức trách mật thám và xét xử toàn bộ thần dân trong triều ngoài nội, được đặt cơ quan xuống từng phủ huyện hương thôn biên giới hải đảo. Người của Cẩm y vệ tuy làm mật thám nhưng không cần cải trang, họ đều có phẩm phục theo thứ bậc để mọi người nhận ra: nhất phẩm thêu đẩu ngưu (trâu), nhị phẩm phi ngư (cá), tam phẩm mãng xà (trăn), tứ và ngũ phẩm thêu kỳ lân, lục và thất phẩm thêu hình hổ báo. Từ tòng tam phẩm (chức Chỉ huy Đồng tri), tứ phẩm (Chỉ huy Kiểm sự) của Cẩm Y vệ đều là những nhân vật cực kỳ thân tín từng vào sinh ra tử với hoàng đế.
Trang phục một Cẩm Y vệ.
Trang phục một Cẩm Y vệ.
Cẩm Y Vệ quyền lực rất lớn, Minh triều tuy có sự phân chia thẩm quyền giữa cơ quan này với chính quyền địa phương, Cẩm Y vệ chủ yếu chỉ điều tra tội phản nghịch, án mạng liên quan đến triều đình, huân quý, quan lại… Nhưng khi cần thì chỉ một viên Chỉ huy Đồng tri tòng tam phẩm của Cẩm Y vệ bảo chứng là đã đủ hiệu lực để một vụ án thuộc thẩm quyền địa phương phải chuyển giao cho Cẩm Y vệ thụ lý.
Là tai mắt của hoàng đế, mỗi viên Cẩm Y vệ đều phải trải qua quá trình huấn luyện khắc nghiệt, chẳng những họ phải tinh thông võ nghệ mà còn phải có tư chất lạnh lùng phi nhân. Minh sử còn chép lại câu chuyện một vụ phá án tiêu biểu của Cẩm Y vệ: Hồ Nam có bốn quan chức đang đêm chui vào mật thất bày tiệc với nhau, đang khi đối ẩm cao hứng, một trong bốn người buột miệng phẩm bình chính sự hà khắc, đột ngột đội Cẩm Y vệ gồm 3 viên nhị phẩm xuất hiện như từ trời rơi xuống, họ phá tường mà vào, lôi kẻ cuồng ngôn kia ra lột da mà rút từng sợi gân. Cẩm Y vệ có quyền thẩm vấn trong bí mật, thường thì ai đã sa vào tay họ dù không có tội cũng thành trọng tội, khó mong được chết êm thấm chứ đừng nói là sống còn. Hình phạt thông thưòng để bức cung là đánh bằng trượng cho đến chết, hoặc dùng gông nặng hơn trăm cân đè cho gãy cổ nát ngực chết từ từ cách thảm khốc kinh hoàng; ai sớm chịu tội thì họa may còn bảo toàn được cho gia quyến, bằng nghịch lại thì toàn gia tru diệt, gà chó cũng không còn.
2/. Tam xưởng:
Sau khi tái lập Cẩm Y vệ, Chu Đệ vẫn cho là chưa đủ để củng cố quyền lực, vì phạm vi của Cẩm Y bị hạn chế, không thể hoạt động trong nội cung, nên năm 1420 lại đặc cách thành lập Đông xưởng để giám sát trong cấm cung, chuyên trấn áp những lực lượng phản đối.
Biểu trưng của Đông xưởng.
Biểu trưng của Đông xưởng.
“Đông tập sự xưởng”, gọi tắt Đông xưởng, được lập nha môn ở bên cạnh Đông Hoa môn của Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay). Vì cửa nha môn này gồm 6 cánh ghép lại nên người ta còn dùng uyển danh Lục phiến môn để gọi Đông xưởng.
Đây là cơ quan đặc vụ bí mật, do nội thị đảm nhiệm, có trọng trách giám thị toàn bộ từ nội các đến trong quân đội, quan viên, nhân sĩ trí thức, học giả danh gia, mọi cơ quan quyền lực của triều đình. Kết quả giám thị này nếu điều tra ra tội nhẹ thì Đông xưởng toàn quyền liệu lý, không cần phải trình qua cơ quan tư pháp; tội trọng thì trực tiếp báo cáo với hoàng đế để ngài định đoạt. Được giao quyền lực nghiêng trời, Đông xưởng có thể khảo tra bất kỳ hoàng thân quý tộc nào.
"Lục phiến môn"
“Lục phiến môn”
Biên chế Đông xưởng hơn ngàn người, do bọn thái giám nắm giữ chức vụ trọng yếu, tai mắt rải khắp nơi, cả Cẩm Y vệ cũng phải chịu quyền Đông xưởng điều động. Thanh Tú Xuân đao lừng danh của Cẩm Y vệ, dưới trướng Đông xưởng, được chạm hai chữ “Đông” và “Xưởng” ở hai mặt chuôi cầm; đó là thứ vũ khí bất khả kháng cự, hễ ai cả gan cưỡng lại thì phải mang họa tru lục cả nhà. Mỗi sáng sớm, lục bộ phải tổng hợp binh tình các nơi có gì bất thường để làm báo cáo trình Đông xưởng tham cứu. Các thái giám quyền lực đời Minh: Vương Chấn, Lưu Cẩn, Phùng Bảo, Ngụy Trung Hiền… đều từng được bổ nhiệm thống lĩnh Tổng đốc Đông xưởng (còn gọi Xưởng công).
Tú Xuân đạo.
Tú Xuân đạo.
Quyền lực vô độ khó kiểm soát của Đông xưởng khiến ý trời lòng dân thảy đều căm giận, nhưng xem ra vẫn chưa làm bậc đế vương minh chủ hài lòng. Đời Minh Hiến tông Chu Kiến Thâm, vào năm Thành Hóa thứ 12 (1476), có viên đại thần Lý Tử Long xuất kỳ bất ý lạc bước vào tẩm viện trong nội cung, việc này khiến Thâm lấy làm lo lắng cho an nguy của bản thân, nên năm sau, 1477, đã thành lập “Tây tập sự xưởng” gọi tắt là Tây xưởng, do Đại thái giám Uông Trực đứng đầu.
Biểu trưng Tây xưởng.
Biểu trưng Tây xưởng.
Tây xưởng chẳng những kiêm nhiệm những chức năng của Cẩm Y vệ và Đông xưởng, lại có thêm quyền lực vượt bậc, là có pháp đình và lao ngục riêng. Tây xưởng lại được đặc cách không cần phải thông qua hoàng đế, toàn quyền quyết định thẩm án và đề ra hình phạt cho bất kỳ nghi can nào, dù là văn võ đại thần, quan chức địa phương hay thường dân bá tánh. Đã vậy, chức năng chính của Tây xưởng lại là giám sát hoạt động của Đông xưởng, nên thế lực càng ghê gớm phi thường. May là Tây xưởng tồn tại không lâu, chỉ hơn 5 tháng sau, dưới áp lực đàn hặc của bá quan cũng như dị nghị của dân chúng Chu Kiến Thâm đã phải đóng cửa Tây xưởng, nhưng tai tiếng hôn quân của Thâm đã kịp lưu vào sử sách.
Sang đời Minh Vũ tông Chu Hậu Chiếu, năm 1506 lại tái lập Tây xưởng. Chiếu là kẻ chơi bời chỉ ham trác táng, chán sợ khi phải nghe lời gián nghị nên được mệnh danh là “Ngọa hoàng đế” (vua nằm); Đại thái giám Lưu Cẩn chuyên quyền là “Lập hoàng đế” (vua đứng). Lúc bấy giờ, Đông xưởng do Mã Vĩnh Thành chưởng quản, Tây xưởng do Cốc Đại Dụng nắm quyền, hai tên này đấu đá nhau quyết liệt để tranh giành quyền lợi. Cáo già Lưu Cẩn nhân cơ hội ngao cò tương tranh đó đã bỏ nhỏ vào tai thánh thượng, năm 1508 được vua hạ chiếu lập ra Nội Hành xưởng để thống lãnh cả Đông Tây nhị xưởng.
Là cơ quan do Lập hoàng đế đích thân quản lý, nên tuy xuất hiện trễ nhất nhưng Nội Hành xưởng lại có quyền thế lớn nhất, tha hồ hoành hành bá đạo. Từ thiên tử trở xuống, trong triều ngoài nội đều bị Cẩn khuynh đảo, tất cả những ai phản đối y đều bị tiêu diệt tận gốc: tội nhẹ thì cả nhà bị đày ra miền biên viễn, chung thân không được đặt chân trở lại Trung nguyên, nặng thì phải bị gông sắt 150 cân đè cho chết thảm, đại nghịch nữa thì bị trượng đả liên hồi thịt nát xương tan hồn du địa phủ, hoặc chém đầu xẻo thịt thị chúng. Chỉ trong hai năm, tội ác do Nội Hành xưởng gây ra đã thảm tuyệt nhân hoàn, người người rởn óc; sa vào tay Nội Hành xưởng, thường người ta đều chọn con đường tự sát để trốn thoát hình phạt ghê rợn do bọn biến thái này bày ra. Năm 1510, Lưu Cẩn bị giết vì tội mưu phản, Nội Hành xưởng mới được phế bỏ. Trong hai năm, Nội Hành xưởng đã giết hại vài ngàn mạng, lưu đày ngót vạn người, chưa kể số tự vẫn không thể thống kê.
* * *
Dòng dõi nhà Minh nối nhau thống trị chỉ cậy vào bạo quyền để chế ngự bá tánh, chúng lập ra những cơ quan đặc vụ mong kiểm soát trị an phòng ngừa nội loạn. Chẳng tự tin ở chính nghĩa do mình thực thi, nên phải dùng đến nha trảo để đàn áp dân tình. Họa diệt vong của Minh triều chính tại nhãn tiền: là do tự mình gây ra quả báo cho chính mình mà thôi.
Xưa nay, bạo quyền nào có thể đè bẹp được khát vọng sinh tồn của vạn dân, than ôi than ôi!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: