Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Khủng bố Hồi Giáo: trước đây và bây giờ


Chương 2 – 2.1 Khủng bố Hồi Giáo: trước đây và bây giờ

12 năm sau khi nhận được lời tiên tri của mình, Mohammed quyết địch chuyển đến thành phố Yathrib với hi vọng sẽ chiêu mộ được nhiều người hơn – đặc biệt là những người Do Thái thành công và một số người Công Giáo – vào đạo của ông. Năm 622 sau công nguyên Mohammed di cư với 50 người đi theo đến Yathrib từ Mecca, một cuộc hành trình 200 dặm (320 km). Cuộc hành trình này được biết đến với tên Hijra, điều các sử gia đánh dấu như sự khởi đầu cho một kỷ nguyên mà Hồi Giáo đã lan rộng không chỉ như một tôn giáo mà còn là một phong trào chính trị và quân sự. Hijra đánh dấu một điểm biến chuyển: đế chế chính trị của Hồi Giáo đã bắt đầu. Đó là thời điểm mà Mohammed và những người theo ông bắt đầu chiến đấu và chiến thắng để truyền bá Hồi Giáo và bắt đầu 1,400 năm của chủ nghĩa khủng bố và thống trị Hồi Giáo. Ảnh hưởng của Hijra lên dân số của Yathrib, và lên tương lai của xã hội và các quốc gia là rất đáng lớn cho đến ngày hôm nay.
Từ Hijra đến Yathrib (đã đổi tên thành Medina ngày nay), lúc đó vốn là trung tâm của cuộc sống của người Do Thái Ả Rập, Mohammed tích cực cố gắng thuyết phục người Do Thái chấp nhận ông như một tiên tri thực sự và Hồi Giáo là một tôn giáo thực sự. Trong những nỗ lực để lôi kéo họ về phía mình, ông thêm vào rất nhiều những tập tục và lễ nghi của họ, như ăn chay, cấm ăn thịt heo và lễ cắt bao quy đầu.
Khi người Do Thái từ chối chấp nhận ông và đạo của ông, Mohammed đã nhận được dấu chỉ từ Allah như sau:
“Và những người Do Thái sẽ không hài lòng với ngươi, người Công Giáo cũng vậy cho đến khi ngươi theo đạo của chúng. Ta phán: dĩ nhiên lời chỉ dẫn của Allah, đó là lời chỉ dẫn thực sự. Và nếu ngươi chiều theo ham muốn của chúng sau những kiến thức mà ta ban cho ngươi, ngươi sẽ không còn nhận được sự bảo hộ của Allah, hay bất cứ người ủng hộ nào nữa.” (Koran 2:120)
Khi Allah đã cho Mohammed biết ông phải đi con đường khác với người Do Thái, người Công Giáo, và bất kỳ ai khác theo đuổi đức tin của riêng họ, Mohammed đã được cho phép tuyên bố chiến tranh với người Do Thái, người Công Giáo vì đã dám xa rời Allah. Ông bắt đầu một chiến lược khủng bố, tấn công họ, cướp bóc tài sản của họ, và lưu đày họ. Sau này, trong các cuộc tấn công của ông tới các bộ lạc, thành phố và quốc gia khác, Mohammed và lực lượng của ông giết hại tất cả những người đàn ông Do Thái hay Công Giáo và bắt giữ phụ nữ và những đứa trẻ của họ như nô lệ.
“Một vài người ngươi sẽ giết và bắt giữ. Và Chúa sẽ cho ngươi thừa hưởng đất đai, nhà cửa và sự giàu có của chúng, những vùng đất ngươi chưa từng đặt chân…” (Koran 33:26-27)
Sau khi lưu đày người Do Thái, Mohammed và những tín đồ của ông trở nên mạnh hơn tại Medina. Ông bắt đầu tấn công các thương đội Meccan đi ngang qua trục đường chính gần Medina. Điều này dẫn đến 3 trận đánh lớn giữa năm 623 và 630 sau công nguyên. Ba trận đánh này đã thành lập những tôn chỉ và thông số cho lực lượng khủng bố Hồi Giáo mà chúng ta đang trải nghiệm ngày nay. Dẫn tới Hồi giáo trở thành đại biểu cho cả quốc quyền lẫn thần quyền, từ Yasser Arafat trước đây đến Osama bin Laden, vẫn áp dụng những cuộc chiến này cũng như hiệp ước Al-Hudaybiyah để khuyến khích đám đông và lên các chiến dịch khủng bố. Hiểu rõ những sự kiện này giúp chúng ta hiểu kẻ thù của chúng ta lấy cảm hứng từ đâu, cũng như những lý do ẩn sau niềm tin tôn giáo của chúng.

2.2 Trận chiến Badr

Vào tháng 3 năm 624 sau công nguyên, Mohammed và 315 người của ông tấn công một đoàn xe Meccan 900 người đi ngang qua Medina. Lực lượng nhỏ bé của Mohammed đã chiến đấu và đánh bại những người Meccan trong một cuộc chiến anh dũng được khơi dậy bằng đức tin vào Thượng Đế và thiên đường. Đội quân nhỏ của Mohammed trở lại Medina với đầy ắp của cải và tù binh. 4/5 chiến lợi phẩm được phân phối cho các chiến binh thánh chiến Hồi Giáo và 1/5 thuộc về Mohammed vì lợi ích của cộng đồng chung.
Còn hơn cả một chiến thắng quân sự, cuộc chiến Badr có một ý nghĩa tôn giáo đáng kể đối với những người Hồi Giáo, họ cảm thấy thắng lợi của cuộc chiến như một lời đáp trả từ Thượng Đế sau nhiều năm khó nhọc. Cuối cùng Thượng Đế đã thưởng họ một chiến thắng trước kẻ thù hùng mạnh của họ. Kinh Koran đã mô tả cuộc chiến Badr: “Các ngươi đã không giết chúng nhưng Thượng Đế đã giết chúng.” (Koran 8:17)

2.3 Trận chiến Uhud

Tháng 3 năm 625, trong một nỗ lực của những người Meccan nhằm đánh bại Hồi Giáo và xóa bỏ sự đe dọa của họ đối với những hoạt động thương mại quốc gia mà nguồn sống chính là các đoàn lữ hành thương mại, 3,000 người Meccan đã tấn công người Hồi Giáo tại Uhud, một ngọn đồi gần Medina. 75 người Hồi Giáo bị giết trong khi người Meccan chỉ mất 27. Cuộc chiến chỉ kết thúc khi người Meccan tin rằng họ đã giết chết Mohammed.
Mặc dù người Mecca đã thất bại trong việc đạt được mục tiêu diệt trừ Mohammed, người Hồi Giáo cảm thấy như tinh thần của họ đã mất. Vì chết nhiều người hơn, họ cảm thấy mình đã đánh mất sự ủng hộ của Allah – những vấn đề quân sự và tôn giáo không thể tách rời trong tâm trí họ. Nếu Thượng Đế đã ban cho họ chiến thắng tại Badr như một dấu hiệu phù hộ, tổn thất của họ tại Uhud biểu thị cho sự mất đi sự ủng hộ của Thượng Đế.
Mohammed đi tới một kết luận là người Hồi Giáo đã quên đi nghĩa vụ với Thượng Đế vì họ trở nên hứng thú hơn với những chiến lợi phẩm. Vì vậy Allah đã trừng phạt họ bằng cách bỏ rơi, và trả giá sự thất bại tại Uhud. Truyền thống Hồi Giáo về sự tự tìm kiếm trong linh hồn và tự sám hối để trở lại thanh sạch khi đối mặt với thất bại và tổn thất đã trở thành một chủ đề lâu dài trong cả cộng đồng Hồi Giáo cho đến tận ngày nay. Sự tận trung vì lý tưởng vì điều tốt dâng cho Thượng Đế và những quốc vương biết mình là kẻ chiến thắng khi họ chiến thắng, và nghĩ rằng mình chiến thắng kể cả khi họ thất bại – mặc dù họ chết họ sẽ trở thành những liệt sĩ và nhận phần thưởng từ Allah trên thiên đường. Họ biết Allah đứng về phía họ khi họ chiến thắng và cố gắng hơn để làm vừa lòng Người khi họ thất bại. Nhiều người Hồi Giáo trên khắp thế giới ngày nay, đặc biệt ở khu vực Trung Đông, tin rằng Allah đã chúc phúc cho Ả Rập Saudi bằng sự giàu có nhờ sự tuân thủ nghiêm ngặt đạo Hồi (như cách họ đã tuân thủ dưới thời Mohammed). Nhiều thủ lĩnh Hồi Giáo dùng ví dụ về sự giàu có và thành công của Ả Rập Saudi như một vương quốc Hồi Giáo để tạo cảm hứng cho các chiến binh thánh chiến khác để họ tuân theo và tín giáo hơn, để được Allah chúc phúc.

2.4 Hiệp ước Al-hudaybiyah

Năm 628 Mohammed du hành tới Mecca với 1,400 người và đóng quân gần đó tại Al-Hudaybiyah. Họ tránh khỏi các trận chiến khi Mohammed và người Meccan đồng ý với một hiệp ước hạn chế những hành vi gây hấn với nhau trong vòng 10 năm. Dựa trên hiệp ước đó, Mecca nhìn nhận Mohammed như một người không hiếu chiến và đưa ông ta vào vùng thân thiện. Tuy nhiên, Mohammed có một chiến lược lâu dài để sáp nhập Mecca vào đạo Hồi. Ông biết mình không thể chiến thắng nếu chiến đấu với người Mecca ngay bây giờ, vì vậy ông dùng thời gian của hiệp ước để xây dựng quân đội, tăng cường lực lượng, chiêu mộ và trẻ hóa nó, và sau đó tuyên chiến với Mecca 2 năm sau vào lúc bất ngờ nhất.

2.5 Trận bao vây Khaybar

Vài tuần sau khi hiệp ước Al-hudaybiyah được ký, Mohammed dẫn dắt người Hồi Giáo tấn công ốc đảo Khaybar của người Do Thái. Ông tra tấn, sát hại, cướp bóc và bắt nhiều người làm nô lệ. Sau một trận đánh hung tàn với 93 người thiệt mạng, người Do Thái đàm phán một hiệp nghị đầu hàng, cho phép người Do Thái tiếp tục làm việc trên mảnh đất của họ nhưng phải cống hiến 1 phần 2 thu hoạch cho người Hồi Giáo như thuế “cống phẩm,” được gọi là jizyah. Vì Mohammed có vị thế tay trên, điều kiện của ông cho ông quyền thay đổi ý định, phá vỡ hiệp nghị và trục xuất người Do Thái, nếu ông lựa chọn làm vậy.
Khi Mohammed và Hồi Giáo trở nên càng ngày càng mạnh, ông xâm chiếm mọi bộ tộc Công Giáo và Do Thái tại Ả Rập. Người Công Giáo và Do Thái đầu hàng Hồi Giáo và bắt đầu trả thuế Jizyah, vừa là sự bảo vệ vừa công nhận họ là hạ cấp của Hồi Giáo, và được gọi là người Dhimmi. Người Do Thái và Công Giáo không cải đạo sang Hồi Giáo được cho phép sống bởi vì họ là “người giữ thánh kinh” nhưng trở thành công dân hạng hai và phải trả thuế Jizyah.
“Hãy chiến đấu với những kẻ không tin vào Allah hay ngày tận thế, hay giữ những lề luật bị cấm bởi Allah và các tông đồ, hay không công nhận tôn giáo của sự thật [mặc dù chính họ làm vậy] của những người giữ thánh kinh, cho đến khi chúng trả thuế Jizyah với lòng khuất phục tự nguyện, và cảm thấy chính mình bị khuất phục.” (Koran 9:29)
Hiệp ước Khaybar đặt ra cản trở tôn giáo giữa những kẻ chiến thắng Hồi Giáo và những người thua cuộc Công Giáo hoặc Do Thái. Khi những kẻ chinh phục Hồi Giáo mở rộng ra ngoài Ả Rập. Thế giới ngày nay bị chia làm 2 cực: Dar Al Islam (ngôi nhà của Hồi Giáo) và Dar Al Harb (ngôi nhà của chiến tranh). Nhà của chiến tranh nghĩa là bất kỳ khu vực nào chưa bị chinh phục, áp bức và thần phục bởi Hồi Giáo và các nghi thức của nó. Đây là nền tảng của khát khao chiến đấu của người Hồi Giáo với những kẻ ngoại đạo cho đến khi họ cải đạo thành Hồi Giáo hay bị giết. Các chiến binh thánh chiến ngày nay xem mọi quốc gia không theo luật Hồi Giáo là Dar Al Harb, và họ có trách nhiệm phải chiến đấu đến khi Hồi Giáo tuyên bố chiến thắng trên mảnh đất của những kẻ ngoại đạo.

2.6 Cuộc đô hộ Mecca

Năm 630 Mohammed đã đạt được sức mạnh trên một vùng rộng lớn. Mecca đã mất cảnh giác, khi hiệp ước Al-Hudaybiyah khiến họ tin rằng Mohammed không có ý định chiến đấu với họ. Trong tâm trí của Mohammed, hiệp ước đó chỉ là một công cụ. 2 năm sau ngày ký hiệp ước, Mohammed và các chiến binh của ông tấn công Mecca, chinh phục nó và cải đạo dân chúng sang Hồi Giáo. Ông phá hủy mọi biểu tượng của Kaaba và dâng hiến đền thờ cho Hồi Giáo, tuyên bố Mecca là thánh địa của Hồi Giáo. Để đảm bảo sự thống trị của Mohammed và Đạo Hồi, người không theo Hồi Giáo bị cấm bước chân vào Mecca bằng hình phạt tử hình.
Năm 631 Mohammed nhà tiên tri, chiến binh và kẻ thống trị với dấu chỉ từ thiên thần Gabriel và kiếm trên tay, dẫn dắt những người Hồi Giáo đi chinh phục và áp bức mọi bộ tộc du mục sa mạc của Ả Rập.
“Khi những tháng cấm kị đã qua, hãy tàn sát những kẻ ngoại đạo ở bất cứ nơi đâu ngươi tìm thấy chúng, và bắt giữ chúng, bao vây chúng, chuẩn bị cho từng cuộc phục kích chúng…” (Koran 9:5)

2.7 Đạo Hồi bùng nổ ngoài Ả Rập

Sau cái chết của Mohammed (năm 632 sau công nguyên), Đạo Hồi tiếp tục bành trướng, dẫn dắt bởi 4 giáo sĩ. Năm 634 caliph thứ 2 Omar bắt đầu tự xưng “chỉ huy của lòng trung thành.” Với kiếm và kinh Koran trong tay, giáo sĩ Omar bắt đầu sự bành trướng dữ dội của Hồi Giáo, chinh phục cả một vùng rộng lớn kéo dài từ Trung Đông cho tới Châu phi.
Với mỗi chiến thắng quân sự, niềm tin của người Hồi Giáo rằng Allah đứng về phía họ được củng cố. Những người Công Giáo và Do Thái bị xâm chiếm, khủng hoảng bởi sự tàn nhẫn của những kẻ xâm lược Hồi giáo trong nhiệm vụ từ Thượng Đế, có thể mua quyền được sống và giữ những nghi thức tín ngưỡng của mình chỉ khi họ đồng ý cống nạp.
Những chiến binh thánh chiến đầu tiên dấn thân vào nhiệm vụ thần thánh của sự thống trị Hồi Giáo chinh phục các đạo quân Ba Tư, chiếm giữ Babylonia, Mesopotamia, Armenia, và Ba Tư. Về phía tây họ chinh phục các vùng Công Giáo ở phía đông Địa Trung Hải, từ Syria và Palestine tới Ai cập, Tunisia, Algheria và Morocco. Năm 711 họ chinh phục bán đảo Iberian và thành lập một điển dừng chân tại Châu Âu, dẫn tới sự chinh phục của Tây Ban Nha và Thổ Nhĩ Kỳ vài năm về sau. Năm 751 Hồi Giáo đã chinh phục Ấn Độ và miền trung Trung Quốc). Chỉ sau hơn 1 thế kỷ từ cái chết của Mohammed, Hồi Giáo, một hệ tư tưởng tôn giáo chính trị toàn trị, đã bao phủ và thống trị nhiều lãnh thổ hơn cả thời kỳ huy hoàng nhất của đế chế La Mã.
Với mục đích nhắm vào cuộc viễn chinh thế giới lần nữa, thử suy nghĩ về những gì chờ đợi các thế hệ tương lai nếu những người Hồi Giáo, được lãnh đạo bởi những kẻ như Osama bin Laden và tổng thống Ahmadinejad của Iran, tiếp tục giấc mơ của họ để xây dựng quốc gia Hồi Giáo tiếp theo.

2.8 Tình trạng của người Công Giáo và Do Thái dưới sự cai trị Hồi Giáo

Người Công Giáo và Do Thái phải trả thuế Jizyah trong một nghi thức công cộng nhục nhã. Khi dâng tặng thuế jizyah, các Dhimmi phải “ngẩng cao đầu khi người công chức tóm lấy râu và đánh vào vùng xương nhô lên dưới tai anh ta.” Trong một số vùng, người Công Giáo và Do Thái phải đeo hóa đơn thuế Jizyah quanh cổ như một dấu hiệu cho sự sỉ nhục của họ.
Những người Công Giáo và Do Thái bị cấm xây dựng các nhà thờ, đền thờ hay những giáo đường mới. Họ cũng bị cấm rung chuông nhà thờ hay thổi kèn shofar báo hiệu giờ lễ, cũng như họ bị cấm ngày nay tại Ả Rập Saudi và Iran. Dhimmi bị buộc phải mặc những quần áo đặc biệt; đó là vua Hồi của Baghdad Al Mutakakkil, trong thế kỷ 9, đã thiết kế ra một bảng vàng cho những người Do Thái dưới sự cai trị Hồi Giáo, điều Hitler đã bắt chước và nhân rộng trong Đức Quốc Xã nhiều thế kỷ sau.
Hồi giáo tiếp tục con đường chinh phục của mình qua các châu lục và đại dương thông qua chủ nghĩa khủng bố tàn nhẫn, gây ra những bi kịch khủng khiếp cho hàng triệu con người. Hồi Giáo đã tự xem mình như người thừa kế chính thống của nền văn minh, văn hóa và lịch sử. Họ thay đổi tên của nhiều thành phố thành những cái tên Hồi Giáo, Constantiople trở thành Istanbul, Jerusalem trở thành Al-Quds. Họ chiếm lấy vinh dự của các phát minh và thành tựu của những người dân họ chinh phục. Các nhà thờ Hồi Giáo xây dựng trên nền các nhà thờ Công Giáo; nhà thờ Hồi Giáo nổi tiếng nhất thế giới, nhà thờ Al-Aqsa, được xây dựng trên nền đền thánh Núi Đồi của người Do Thái.

2.9 Sự nổi dậy của phương Tây

Đến năm 1061 sự phẫn nộ và đối đầu đã bùng nổ giữa đế chế Hồi Giáo và các tín đồ Công Giáo. Người Công Giáo và người Hồi Giáo đã tuyên chiến khi người Công Giáo cố gắng dành lại tự do cho chính mình và những vùng đất của họ.
Những người Công Giáo đã nổi giận khi Hồi Giáo chiếm lĩnh Jerusalem, nơi khởi nguyên của đạo Công Giáo. Nhiều người Công Giáo đã cải đạo thành Hồi Giáo dưới những áp lực, sỉ nhục và những nỗi đau liên tục đổ xuống bởi những người Hồi Giáo. Cuộc Thập Tự Chinh đầu tiên đã được phát động sau khi Giáo Hoàng Urban Đệ Nhị thúc giục những người Công Giáo trên toàn Châu Âu lấy lại những mảnh đất của Chúa và trả lại những mảnh đất ấy về lại đạo Công Giáo.
Năm 1099 Cuộc Thập Tự Chinh Công Giáo đã giải phóng Jerusalem, chưa tới một thế kỷ sau người Hồi Giáo dưới sự lãnh đạo của Saladin đã tái chiếm nó và đẩy lùi những người Công Giáo ngoại đạo. Jerusalem tồn tại dưới sự cai trị của Hồi Giáo cho tới khi người Israel giải phóng nó năm 1967. Đó là lần đầu tiên trong hơn 2000 năm, cả thành phố Jerusalem đã thống nhất dưới chính quyền hợp pháp của người Do Thái, nơi người Do Thái có thể cầu nguyện trong đền thánh đã bị chiếm đóng bởi nhà thờ Hồi Giáo.
Từ năm 1099 cho đến suốt 300 năm kế tiếp, các cuộc Thập Tự Chinh Công Giáo đã được phát động từ Châu Âu như một nỗ lực giải phóng các miền đất Công Giáo bị chinh phục bởi Hồi Giáo, chỉ để bị đánh bại hết lần này tới lần khác. Điều cần thiết không phải một đạo quân hay đức tin nồng nhiệt, mà đến từ cuộc cách mạng công nghiệp đã mang đến cho phương Tây sức mạnh kinh tế để đánh bại Hồi Giáo.
Vào khoảng năm 1600, những thay đổi lớn lao đã được thai nghén trong Công Giáo Châu Âu. Thời kỳ Phục Hưng có ý nghĩa đặc biệt về thương mại và chủ nghĩa thương gia đã dẫn đến cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự khám phá của nước Mỹ. Công Giáo Châu Âu đã biến sự phát triển này thành lợi thế kinh tế và quân sự.
Vào thế kỷ 18, cuộc cách mạng công nghiệp Châu Âu mang đến cho họ sức mạnh kinh tế để bành trướng toàn cầu. Nó cho phép các đạo quân đẩy lùi người Hồi Giáo về lại Trung Đông, sự dẻo dai và ưu thế quân sự tuyệt đối mà những thập tự quân ngày trước không thể có. Khi Châu Âu bành trướng và giải phóng những miền đất Công Giáo, họ trả tự do cho người Công Giáo và người Do Thái để không phải trả thuế bảo vệ nữa. Đây là một đòn kinh tế nặng nề giáng vào sự phát triển và triển vọng của Hồi Giáo, trước đây vốn trông cậy vào việc bóc lột của cải dựa trên chế độ nô lệ của người Công Giáo và người Do Thái.
Ưu thế công nghiệp của Châu Âu đã tiếp nhiên liệu cho những nhiệm vụ tái chiếm các quốc gia bị xâm lược bởi Hồi Giáo. Năm 1798 dạo quân với ưu thế công nghệ của Napoleon Bonaparte tiến tới Ai Cập. Trái tim của lãnh địa Hồi giáo, Dar Al Islam, đã bị đâm thủng.
Năm 1877 đế chế Hồi Giáo đã để mất Romania, Bosnia, Herzagovina, Motenegro, Bulgaria và Cyprus. Pháp tấn công Algeria, Morocco và Tunisia. Anh tấn công Egypt, Ý tấn công Lybia, trong khi người Nga và Anh chia cắt Ba Tư. Năm 1905 phương Tây đã giải phóng những lãnh địa của họ trước đây bị chinh phục và cắn xé bởi Hồi Giáo, và tuyên bố một chiến thắng về kinh tế và quân sự, qua đó đánh dấu sự chấm dứt của 1,400 năm cai trị của Hồi giáo và các chiến binh thánh chiến. Trong suốt giai đoạn này, Hồi Giáo đã sát hại 270 triệu người trên khắp thế giới; 120 triệu người Châu Phi, 60 triệu người Công Giáo, 80 triệu người Hindu và 10 triệu người Phật giáo.
Khi Hồi Giáo mất kiểm soát các lãnh địa rộng lớn và hàng triệu người dân, chịu một thất bại khổng lồ trong tay những kẻ ngoại đạo, người Hồi Giáo trải nghiệm một nỗi đau và sự sỉ nhục chưa từng được họ biết đến trước đây. Làm sao Công Giáo lại có thể vượt qua Hồi Giáo được? Những kẻ ngoại đạo là thấp kém hơn người Hồi Giáo, chúng đã bị nguyền rủa bởi Allah, chúng đã phải khuất phục Hồi Giáo hơn 14 thế kỷ. Tín ngưỡng của chúng thấp kém hơn đạo Hồi, con đường và tín ngưỡng thực sự của Allah trên thế giới. Các Ummah đã và vẫn còn bị sốc.
Các thủ lĩnh tôn giáo, nhà tư tưởng và các học giả Hồi Giáo đã kết luận rằng Hồi Giáo đánh mất sức mạnh của họ vì Allah đã lấy đi điều đó khỏi họ. Họ tin rằng Hồi Giáo đã lạc khỏi con đường thực sự mà Allah đã mạc khải cho họ thông qua nhà tiên tri Mohammed. Vì vậy Allah đã trừng phạt họ để dạy họ một bài học. Chỉ thông qua sự trở về của sự thật, sự kiên trì Hồi Giáo chính thống trong thời đại của nhà tiên tri, Hồi Giáo mới có thể trở lại vinh quang và chiếm lại thế thượng phong của nó. Chỉ khi đó Allah mới tưởng thưởng trở lại cho người Hồi Giáo trên khắp thế giới. Tuy nhiên, Hồi giáo ngày nay đặt mục tiêu chinh phục thế giới – lần nữa! Hồi Giáo ngày nay dùng trữ lượng và triển vọng về dầu hỏa của họ, cũng tương tự như điều đã cho phép người Châu Âu chiến thắng Hồi Giáo, để tài trợ cho chủ nghĩa khủng bố và lan tràn đạo Hồi trên khắp thế giới.
Thấu hiểu lịch sử của Hồi Giáo và cách thức nó ảnh hưởng đến phe Hồi Giáo cực đoan ngày nay là thiết yếu cho sự sinh tồn của chúng ta. Ví dụ, lịch sử về hiệp nghị Al-Hudaybiyah đã cho chúng ta thấy việc sử dụng các hiệp nghị lâm thời và nói dối cả người ngoại đạo để phát triển đạo Hồi không chỉ được chấp nhận mà được tán thành và chúc phúc bởi nhà tiên tri.
Sau khi ký hiệp ước Oslo, trong khi phương Tây và Israel hân hoan chúc mừng nền hòa bình đã được mong chờ quá lâu giữa 2 quốc gia, Yasser Arafat cũng hân hoan, nhưng vì một lý do khác. Arafat cuối cùng cũng có thể trở lại lãnh thổ Palestine, xây dựng chính quyền Palestine và được tài trợ bởi những kẻ ngoại đạo – thậm chí vũ trang và cung cấp cho những đoàn xe lửa và cảnh sát của họ với vũ khí, biết rõ ràng là ông không bao giờ có ý định hòa bình với Israel. Hiệp nghị hòa bình của ông không có mục đích nào khác ngoài một sách lược chiến tranh của Hồi Giáo được răn dạy bởi nhà tiên tri Mohammed sau lệnh ngừng bắn Al-Hudaybiyah.
Arafat bắt đầu nhắc tới Al-Hudaybiyah không lâu sau khi ký hiệp ước Oslo năm 1993 (Lần đề cập đầu tiên của ông là trong bài diễn văn bằng tiếng Anh tại Nam Phi.) Trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình Ai Cập ngày 18 tháng 4 năm 1998, Arafat đã được hỏi về hiệp nghị Oslo. Ông lần nữa trích dẫn Al-Hudaybiyah như nền tảng của sự hòa bình ông dành cho Israel. Sau đó, khi Arafat được hỏi trong một cuộc phỏng vấn của báo Al-Quds vào tháng 5 năm 1998 rằng có bao giờ ông cảm thấy mình đã phạm sai lầm khi đồng ý hiệp ước Oslo, Arafat trả lời: “Không, không. Ngôn sứ của Allah Mohammed đã chấp nhận hiệp ước hòa bình Al-Hudaybiyah, và Saladin đã chấp nhận hiệp ước hòa bình với Trái Tim Sư Tử Richard.” Trong một tuyên bố với hội đồng lập pháp Palestine ngày 15 tháng 5 năm 2002, ông nói “Chúng ta hãy nhớ đến hiệp ước hòa giải Al-Hudaybiyah hơn là những lo âu của quốc gia và tình đoàn kết quốc tế với người dân và lý tưởng của các bạn.” Arafat đề cập đến Al-Hudaybiyah hết lần này đến lần khác trong nhiều tuyên bố.
Tôi đề cập tới những tuyên bố của Yasser Arafat vì chúng không chỉ là những ví dụ tiêu biểu nhất của các nguyên tắc Hồi Giáo về công việc trong những đàm phán chính trị hiện đại. Trong khi đó phương Tây chìm đắm trong tình trạng nhà nước chối bỏ sự thật và sự thiếu hiểu biết, bị lừa dối bởi những đường hướng chính trị và từ chối lắng nghe kẻ thù của chúng ta, kẻ có cách hiểu khác hẳn với chúng ta về hòa bình và lòng khoan dung. Trong khi nhiều người ngày nay sẽ tranh cãi rằng Arafat không phải một người Hồi Giáo mà là một người theo chủ nghĩa quốc gia, không ai có thể tranh luận về sự thật rằng ông dùng các nguyên tắc Hồi Giáo có nền tảng từ kinh Koran và những hành động của nhà tiên tri Mohammed như nền tảng cho các đàm phán và sách lược chiến tranh của ông ta.

2.10 Hồi Giáo hiện đại: Sự lên ngôi của quyền tối thượng Hồi Giáo.

Hồi giáo đã tỉnh dậy sao 300 năm ngủ vùi và từ chối trả thù cho vinh quang cổ đại của nó, sử dụng những công thức thành công từ lịch sử nơi Hồi Giáo cai trị với kiếm và những lời dạy từ Mohammed; nơi tín ngưỡng và chính phủ là một; nơi các Ummah bị cai trị bởi luật lệ Hồi Giáo và tất cả mọi tín ngưỡng khác bị đàn áp.
Từ cuộc cách mạng Iran năm 1979, chủ nghĩa phát xít Hồi Giáo và các hoạt động khủng bố Hồi Giáo khắp nơi trên thế giới đã leo thang đến một cấp độ vượt qua sự tưởng tượng của bất kỳ ai. Tai họa và sự kinh hoàng của chủ nghĩa cộng sản đã bị thay thế bởi tai họa và sự kinh hoàng của Hồi Giáo. Mỗi ngày, truyền thông đem lại bằng chứng từ thế giới về sự sát hại những người dân thường vô tội nhân danh Hồi Giáo, bởi người Hồi Giáo. Từ ngày 11 tháng 9 năm 2001, đã có hơn 10 ngàn cuộc khủng bố Hồi Giáo nổ ra trên khắp thế giới, được thực hiện bởi những người đàn ông và phụ nữ tin rằng việc chết vì đức tin quan trọng hơn cả cuộc sống của chính họ. Từ khi nào và từ đâu hiện tượng này bắt đầu? Và tín hiệu gì đã được gửi đến người Hồi Giáo trên toàn thế giới để trỗi dậy trong một cuộc thánh chiến chống lại phương Tây?
Sự sụp đổ của chế độ Shah Mohammad Reza Pahlavi tại Iran năm 1979 bởi Ayatollah Ruhollah Khomeini đã nhen nhóm lại giấc mơ của những kẻ Hồi Giáo cực đoan về việc thống nhất đạo Hồi trên toàn thế giới và thành lập một quốc vương thống trị chính quyền thế giới với những chính sách chính trị và thần học của ý thức hệ Hồi Giáo. Những người Hồi Giáo bình thường, ôn hòa trước đây trở nên nhiệt tình với chủ nghĩa quốc gia Hồi Giáo và được truyền thụ bởi những kẻ Hồi Giáo cực đoan để hướng tới một thế giới của chủ nghĩa phát xít Hồi Giáo.

2.11 Cuộc cách mạng Iran

Cuộc nổi dậy quyền lực của Khomeini như người thống trị của nước cộng hòa hồi giáo Iran vào tháng 2 năm 1979 là cực điểm của những sự kiện đã khởi đầu trước đó với cuộc cách mạng của Iran và sự sụp đổ của chính quyền Shah. Trong thời kỳ này, chính quyền Shah của Iran đã trở nên ngày càng yếu kém trong việc đáp ứng các nhu cầu của người dân, đặc biệt là sự nổi dậy của tầng lớp trung lưu trên đất nước. Khi doanh thu dầu mỏ của Iran tăng lên, Shah bớt phụ thuộc vào những khoản vay và viện trợ từ Mỹ và ít thiên vị chính phủ Mỹ hơn trong việc tiếp tục điều hành người dân của mình với chính sách dân chủ.
Sau cái chết của cố vấn Ayatollah Boroujerdi, năm 1962, Khomenini bắt tay vào cuộc hành trình để phản bác những tư tưởng và văn hóa của các nước phương Tây và thành lập một chính quyền Hồi Giáo thế giới thông qua những cuộc thánh chiến Hồi Giáo. Là “cha đẻ của thánh chiến Hồi Giáo hiện đại”, Khomeini giới thiệu lại lối tư duy văn hóa cam kết sự hung tàn cho ích lợi của ý thức hệ chính trị dựa trên những niềm tin tôn giáo cơ bản.
Khomeini bắt đầu những cuộc biểu tình chống lại Shah năm 1962, sau khi trở nên ngày càng bực bội trước những chính sách nhà nước dân chủ trong các quốc gia Shiite chủ đạo. Khomeini ghét cay ghét đắng mối quan hệ giữa Shah với phương Tây và những cuộc thanh trừng tàn bạo và nhanh chóng của họ về những bất đồng tôn giáo. Khomeini sớm chuyển đến An Najaf tại Iraq, nơi ông phát triển, giáo dục và truyền bá quan điểm của mình về việc cai trị quốc gia thông qua luật Sharia, và gửi chúng tới Iran để được phát tán thông qua các nhà thờ Hồi giáo.
Năm 1978, Khomeini trốn thoát đến Pháp nơi ông khởi xướng cuộc đảo chính Shah và chế độ của ông ta từ vùng ngoại ô Paris. Yasser Arafat và Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO) là công cụ phế truất Shah Pahlavi và đưa Khomeini lên nắm quyền. (Tình bạn giữa Khomeini và PLO trở nên cần thiết sau đó vì những xung đột giữa Israel và Palestin phản ánh những hành vi hăm dọa và cảnh báo được tiến hành bởi Khomeini và các tu sĩ trung thành tại Iran. Khomeini đã đủ điều kiện để cam kết sự hung tàn trên cơ sở hàng ngày khi không có quá nhiều tin tức báo chí cho tới khi xảy ra cuộc khủng hoảng con tin Iran.)
Chính quyền Carter công khai tìm kiếm tình bạn của Khomeini và cao giọng ủng hộ ông ta trong suốt cuộc cách mạng Iran năm 1979, nhanh chóng phế truất Shah và trao quyền cho Khomeini trở thành kẻ độc tài của Iran. Với thế giới, đặc biệt là những kẻ thù của chúng ta, Mỹ đã quá nhanh chóng vứt bỏ một đồng minh cũ đáng tin cậy đã giúp ích rất nhiều trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Liên Xô là một trong những kẻ thù mà chúng ta lưu ý, và tháng 12 năm 1979, Liên Xô tấn công Afghanistan chỉ 6 tháng sau khi Carter ký hiệp ước vũ trang với tổng thống Nga Brezhnev.
Trớ trêu thay, trong sự bất mãn của thế giới ngày nay, cựu tổng thống (1976-1981) Jimmy Carter xem Shah như kẻ vi phạm nhân quyền nặng nề khi ông đàn áp những người bất đồng chính kiến đe dọa chính quyền của ông. Trong sự ngây thơ của mình, Carter đã cố ý bỏ qua sự thật rằng Iran là một quốc gia kế tục được điều hành bởi một người đàn ông áp dụng những luật lệ tương tự như một xã hội dân chủ. Thay vào đó, Carter thiết lập một chiến dịch để phế truất Shah bởi vì sự vi phạm nhân quyền của ông ta. Trong một sự đảo nghịch mỉa mai hơn nữa, Carter lên án lệnh bắt giữ của chính quyền Shah đối với 3,000 tù nhân chính trị, rất nhiều trong số đó, khi Khomeini lên nắm quyền năm 1979, đã bị xử tử cùng với 10,000 người thân phương Tây khác. Thực ra, chính quyền Ayatollah chặt đầu nhiều người trong năm đầu tiên nắm quyền tại Iran hơn cả 25 năm thống trị của Shah cộng lại.
Tổng thống Carter đã đưa ra ý kiến về một quốc gia mà ông không hiểu rõ văn hóa của nó, tại một thời điểm quan trọng cho sự khai sinh của một phong trào cực đoan toàn cầu. Nước Mỹ chẳng những đã phản bội một trong số đồng minh của mình mà còn trao cho Khomeini (người đã phát minh thành ngữ “Nước Mỹ, đại ác quỷ”) quyền lực để lan tràn nọc độc của hắn khắp nơi.
Trong một tình thế chính trị/văn hóa tương tự, nước Mỹ giờ đang kêu gọi cho nền dân chủ tại Trung Đông, một ý tưởng cao quý tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu các cuộc bầu cử được cổ vũ tại những nơi chưa sẵn sàng cho nền dân chủ, các tổ chức khủng bố cuối cùng sẽ điều hành đất nước: ví dụ, Hamas tại dải Gaza, Hezbollah tại Lebanon và hiệu quả nhất là nhóm mullah tại Iran. Lần nữa, nước Mỹ đối mặt với một quyết định sẽ về phe và ủng hộ hầu hết những thủ lĩnh của Trung Đông hay cổ vũ các cuộc bầu cử dân chủ trên toàn bàn cờ. Nếu các cuộc bầu cử dân chủ diễn ra tại Ai Cập hay Jordan chúng sẽ kết thúc với những chính quyền Hồi Giáo cực đoan trên cả 2 quốc gia thế tục này. Điều duy nhất giữ những kẻ cực đoan trong tầm kiểm soát là sự kiểm soát chặt chẽ chúng, được duy trì bởi Vua Abdullah của Jordan hay tổng thống Mubarak của Ai Cập. Bất kể chúng ta không ưa triều đại Saudi hay các gia đình hoàng tộc khác của Trung Đông, họ là kẻ đỡ ác độc hơn khi so sánh với những phe Hồi Giáo cực đoan.
Từ năm 1979 tới năm 1989, Ayatollah Khomeini đưa Iran lùi lại hàng trăm năm. Ngay sau khi trở thành lãnh tụ tối cao, Khomeini thiết lập một sự áp đặt chặt chẽ bộ luật Sharia và đưa nó vào học thuyết cá nhân của ông về một chính quyền chính trị và tôn giáo. Iran giờ là một quốc gia chính trị thần quyền, điều hành bởi một nhóm giáo sĩ cực đoan lãnh đạo bởi một tên độc tài có khuynh hướng đưa Iran của trào lưu Shia trở thành một siêu cường thế giới.
Bộ luật mới từ chối những quyền cơ bản của đàn ông và phụ nữ. Shia tàn nhẫn hi sinh hàng ngàn sinh viên và trẻ em Iran, đưa họ đi chịu chết để quét sạch những bãi mìn trong thời chiến tranh Iran-Iraq nhân danh sự bảo toàn dân tộc Hồi Giáo Shia. Sinh viên bị dùng như bia đỡ đạn sống và bị gửi đi nổ tung xe tank của Iraq với bom quấn quanh người. Ý tưởng của Khomeini về những kẻ đánh bom cảm tử đặt ra tiền lệ cho “mặt trận” chiến tranh vô nhân đạo này. PLO, Hezbollah, Hamas và các môn đồ khủng bố Iraq bắt đầu đưa đánh bom cảm tử vào chiến lược của chúng, và các nhóm khủng bố Hồi Giáo khác nhanh chóng đi theo.Thế giới Iran như chúng đã biết trước thời Khomeini vừa chìm sâu vào vòng xoáy địa ngục.
Chính quyền Khomeini đã dựng lên nền tảng cho một cuộc quy tụ đáng kể những kẻ Hồi Giáo cùng chung chí hướng trên khắp thế giới, những kẻ mang lòng oán giận với phương Tây. Khomeini đã quy tụ rực rỡ những chiến binh Hồi Giáo để đứng lên chống lại phương Tây hủ bại và tổ chức họ thành những nhóm phản kháng, cam kết những cuộc tấn công khủng bố trên toàn thế giới nhân danh Hồi Giáo.
Ngày 4 tháng 1 năm 1979, lực lượng Hồi Giáo cực đoan xông vào lãnh sự quán Mỹ tại Iran và bắt giữ 52 con tin người Mỹ trong vòng 444 ngày. Một cách mỉa mai, điệu nhảy của Khomeini về sự cố con tin tại Iran làm Carter thất bại trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1981. Carter đã hết lòng giúp đỡ thành lập một xã hội thần quyền tại một vùng giàu dầu mỏ mà ngày nay đã xuất khẩu các vụ khủng bố và phát triển sức mạnh hạt nhân để chiến đấu với phương Tây. Mặc dù ông có ý định tốt, kết quả cuối cùng cũng tương tự: sự ngây thơ của Carter và sự xúc động của đảng Dân Chủ đã được dùng như một công cụ để hủy diệt nền dân chủ.
Sự ủng hộ của Mỹ dành cho Taliban để chống lại Liên Xô ở Afgahnistan đã củng cố và vũ trang lực lượng Hồi Giáo cực đoan trên toàn thế giới. Như một kết quả, từ gốc rễ của cuộc chiến Afganistan/Liên Xô đã khai sinh ra Al Qaeda, và từ một vùng đất đắm chìm trong chủ nghĩa xã hội Hồi Giáo và niềm tin tôn giáo cuồng nhiệt khai sinh nhóm Hezbollah từ Iran và các nhóm khủng bố khác nữa.
Trong 70 năm đầu tiên của thế kỷ 20, chủ nghĩa khủng bố Hồi Giáo chủ yếu đã bị hạn chế tại Trung Đông, Ấn Độ, Châu Phi và vùng Balkan trong suốt Thế Chiến Thứ 2. Ngày 5 tháng 11 năm 1972, với sự kinh ngạc và rùng rợn của thế giới, các sát thủ của Arafat, thành viên của một nhánh phụ trợ của tổ chức khủng bố PLO tháng 9 Đen, chuẩn bị cho lễ ra mắt của chúng tại làng Olympic Munich. 4:30 sáng, chúng im lặng đột nhập vào phòng của những tuyển thủ đấu vật Israel và sau cùng sát hại 11 cảnh sát Israel và Đức. Yêu sách của những kẻ khủng bố? Chúng muốn Israel thả 234 tên khủng bố Ả Rập trong nhà ngục Israel, những kẻ đã nhận tội cho những hành vi bạo lực chống lại Israel, và dĩ nhiên, chúng yêu cầu một đường rút lui an toàn khỏi Đức.
Từ hành động khủng bố này, đã có vô số những chiến dịch khủng bố kinh hoàng không nói nên lời được tổ chức bởi chủ nghĩa Hồi Giáo cực đoan. Với những độc giả chưa quen thuộc với sự bành trướng của thảm họa Hồi Giáo, những tổng kết sau đây về hành vi hiếu chiến của Hồi Giáo/Ả Rập dẫn đến sự kiện 11 tháng 9. Như số liệu của những hoạt động khủng bố trên toàn thế giới từ năm 2001 đã quá nhiều để có thể được liệt kê ở đây, tôi chỉ đưa vào một vài vụ để cung cấp một bức tranh tổng quan. (Danh sách này cũng xuất hiện trong quyển sách “Bởi Vì Chúng Thù Ghét” (Because They Hate); nó được cập nhật ở đây.

2.12 Các vụ khủng bố trên toàn cầu bởi lực lượng vũ trang Hồi Giáo từ năm 2001 tới năm 2007

2001
Các vụ khủng bố nhắm vào Israel.
Ngày 11 tháng 9: cuộc tấn công giết chết gần 3000 người với những chiếc máy bay bị cướp đâm vào 2 biểu tượng của nước Mỹ: tòa nhà thương mại thế giới tại New York và Lầu Năm Góc tại Arlington, Virginia. Một chiếc máy bay thứ 4 rơi tại quận Somerset, Pennsylvania.
Âm mưu tấn công đại sứ quán Paris thất bại.
Richard Reid, cố gắng phá hủy chuyến bay 63 của hãng hàng không Mỹ, bị khống chế bởi những hành khách và tiếp viên máy bay trước khi hắn kịp cho nổ quả bom giấu trong giày.
2002
Tháng 3: PLO, hỗ trợ bởi Hamas và Hezbollah, tàn sát 130 người Do Thái trong vòng 1 tháng tại Israel, hầu hết là dân thường.
Danh sách sau được thu thập từ Information Please Database (IPD), 2007 Pearson Education, Inc., trừ khi đã được đính chính.
Tháng 4: đánh bom tại giáo đường Do Thái lịch sử tại Tunisia, 21 người thiệt mạng, bao gồm cả 11 khách du lịch người Đức.
Tháng 5: Một chiếc xe phát nổ bên ngoài khách sạn tại Karachi, Pakistan, giết chết 14 người, bao gồm cả 11 thường dân Pháp.
Tháng 6: đánh bom bên ngoài lãnh sự quán Mỹ tại Karachi, Pakistan, giết chết 12 người.
Tháng 10: một chiếc tàu đâm vào tàu chở dầu ngoài khơi bở biển Yemen, 1 người chết.
Tháng 10: đánh bom hộp đêm tại Bali, Indonesia, giết chết 202 người, hầu hết là công dân Úc.
Tháng 11: đánh bom tự sát một khách sạn ở Mombasa, Kenya, giết chết 16 người.
2003
Tháng 1: tại Manchester, Anh, thám tử  Constable Stephen Oake bị đâm chết, và 4 quan chức khác bị thương, trong một cuộc vây quét của cảnh sát. Kẻ giết người, Karmel Bourgass – bị tình nghi tham gia các hoạt động của Al Qaeda, đã trải qua huấn luyện tại Afghanistan – sau này đã thú nhận âm mưu phát tán chất độc chết người ricin trên những con đường của Anh. Manscheter đã trở thành một trong những nơi ẩn náu chính của những kẻ khủng bố Hồi Giáo tại Anh, theo các chuyên gia an ninh cho biết.
Tháng 5: đánh bom tự sát giết chết 34 người, bao gồm 8 người Mỹ, tại một khu nhà cho người phương Tây tại Riyadh, Ả Rập Saudi.
Tháng 5: 4 quả bom phát nổ giết chết 33 người, nhắm vào phía Do Thái, Tây Ban Nha và Belgian tại Casablanca, Morocco.
Tháng 8: một chiếc xe đánh bom tự sát giết chết 12 người, làm bị thương 150 người tại khách sạn Marriott tại Jakarta, Indonesia.
Tháng 11: các vụ nổ rung chuyển một khu liên hợp tại Riyadh, Ả Rập Saudi, giết chết 17 người.
Tháng 11: những kẻ đánh bom tự sát bằng xe hơi cùng lúc tấn công 2 đền thờ Do Thái tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, giết chết 25 người và làm bị thương hàng trăm người.
Tháng 11: xe tải mang bom phát nổ tại nhà băng London và lãnh sự quán Anh tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, 26 người thiệt mạng.
2004
Tháng 3: 10 quả bom trên 4 chiếc xe lửa phát nổ gần như cùng 1 lúc vào giờ cao điểm buổi sáng tại Madrid, Tây Ban Nha, giết chết 191 và làm bị thương hơn 1,500 người.
Tháng 5: những kẻ khủng bố tấn công một văn phòng công ty khai thác dầu của Saudi tại Khobar, Ả Rập Saudi, 22 người chết.
Tháng 6: những kẻ khủng bố bắt cóc và xử tử người Mỹ Paul Johnson Jr. tại Riyadh, Ả Rập Saudi.
Tháng 8: Al Qaeda lên kế hoạch đánh bom 11 chuyến bay của hàng không Anh chở những người Mỹ, nhưng thất bại.
Tháng 9: tại Beslan, Nga, một nhóm 33 phiến quân Hồi Giáo xông vào một trường học và bắt giữ khoảng 1,200 trẻ em và người lớn. Cuộc chiếm đóng kết thúc sau 3 ngày với cái chết của ít nhất 339 con tin, gần nửa số đó là trẻ em, và 500 người bị thương.
Tháng 9: xe chở bom phát nổ bên ngoài đại sứ quán Úc tại Jarkarta, Indonesia, 9 người chết.
Tháng 12: những kẻ khủng bố tiến vào lãnh sự quán Mỹ tại Jeddah, Ả Rập Saudi, 9 người chết (trong đó có 4 kẻ tấn công).
2005
Tháng 7: 4 kẻ đánh bom tự sát tấn công vào trung tâm giao thông công cộng tại London vào giờ cao điểm buổi sáng, 52 người chết, 700 người bị thương.
Tháng 10: 24 người chết bởi 3 vụ đánh bom tự sát ở Bali, Indonesia.
Tháng 11: 57 người chết tại 3 khách sạn Mỹ tại Amman, Jordan.
2006
Tháng 1: 2 kẻ đánh bom tự sát mang phù hiệu cảnh sát cho nổ gần một buổi lễ tại học viện cảnh sát Baghdad, giết chết gần 20 sĩ quan cảnh sát. Al Qaeda tại Iraq nhận trách nhiệm.
Tháng 6: tại Ontario, Canada, 17 người bị bắt, phá vỡ một loạt những cuộc tấn công khủng bố đã được lên kế hoạch tại miền nam Ontario. Không có mục tiêu nào được xác định, nhưng cơ quan có thẩm quyền cho biết hệ thống tàu điện ngầm Toronto nằm trong số đó. Cảnh sát và các sĩ quan tình báo đã thực hiện cuộc bắt giữ sau khi nhóm này nhận 3 tấn ammonium nitrate, một loại phân bón thông thường có thể dùng để chế tạo bom khi kết hợp với xăng. Đây là một phần của làn sóng gây shock của người Hồi Giáo trẻ tuổi Canada đã trở nên cực đoan.
Tháng 6: tại Đan Mạch, cảnh sát tăng cường sự chú ý lên hàng loạt các cuộc giết người kinh hoàng và những tội phạm liên quan sau 9 lời tuyên án về việc giết hại một cô gái 18 tuổi, Ghazala Khan, người đã kết hôn không theo ý muốn của gia đình cô ấy. Với gần 50 báo cáo liên quan đến những tội ác vì danh dự, cảnh sát nhận ra vấn đề có thể tệ hơn những gì họ có thể tin nổi.
Tháng 8: cảnh sát bắt giữ 24 người Hồi Giáo gốc Anh, hầu hết đều liên hệ mật thiết tới Pakistan, kẻ đã bị cáo buộc âm mưu cho nổ khoảng 10 máy bay bằng chất nổ lỏng. Các quan chức cho biết chi tiết của kế hoạch giống như những âm mưu khác được đặt ra bởi Al Qaeda.
2007
Tháng 4: những kẻ đánh bom tự sát tấn công một tòa nhà chính phủ tại thủ đô Algiers của Algeria, giết chết 35 người và làm bị thương hàng trăm người khác. Nhóm Al Qaeda thuộc Hồi Giáo Maghreb đứng ra nhận trách nhiệm.
Tháng 4: 8 người, bao gồm 2 nhà lập pháp Iraq, chết khi một kẻ đánh bom tự sát cho nổ trong một tòa nhà nghị viện tại Baghdad. Một tổ chức bao gồm cả Al Qaeda tại Mesopotamia nhận trách nhiệm. Trong một cuộc tấn công khác, cầu Sarafiya bắt ngang sông Tigris bị phá hủy.
Tháng 6: cảnh sát Anh phát hiện bom giấu trong 2 chiếc xe tại London. Theo báo cáo, những kẻ tấn công cố kích nổ bom bằng điện thoại di động nhưng thất bại. Các quan chức chính phủ cho biết Al Qaeda có liên quan đến nỗ lực tấn công này. Ngày hôm sau, một chiếc SUV chứa bom nổ tung khi đâm vào cổng của sân bay Glasgow. Các quan chức cho biết những cuộc tấn công này có liên quan với nhau.
Cuộc cách mạng Hồi Giáo của Khomeini mở đường cho sự nảy nở của các hành động khủng bố Hồi Giáo trên khắp thế giới. Nhiệm vụ của ông nhằm thành lập một nhà nước Hồi Giáo, và biến Iran thành một siêu cường, đã được trao tay từ lãnh tụ này đến lãnh tụ khác và còn tiếp tục. Tháng 11 năm 2007, Cơ Quan Năng Lượng Nguyên Tử Thế Giới (IAEA) báo cáo rằng mặc dù Iran đã tăng cường số lượng các lò li tâm (máy để làm giàu uranium), Iran vẫn nằm dưới hạn mức khả năng để làm giàu đủ uranium nhằm sản xuất vũ khí hạt nhân. Tháng 12 năm 2007, Mỹ tuyên bố tiếp tục theo đuổi lệnh cấm vận với Iran, mặc dù liên bang Nga và Trung Quốc có thể phủ quyết bất kỳ lệnh cấm vận kinh tế nào thêm. Trong một bài báo số tháng 12 năm 2007 trên Washington Post, John Bolton, cựu đại sứ của Liên Hợp Quốc, thảo luận về 5 điểm yếu ảnh hưởng đến báo cáo hạt nhân của Iran. Bolton tin rằng những cá nhân nghiên cứu về chương trình nguyên tử của Iran đã thiên vị Iran và đã quá ngây thơ về quyết tâm của Iran liên quan đến vấn đề phát triển nguyên tử. Hơn nữa, Iran đã thắt chặt an ninh, và điều này đã tạo ra nhiều khó khăn để thu thập các thông tin tình báo.
Tầm nhìn của Iran về việc phát triển vũ khí hạt nhân thông qua sản lượng của uranium được làm giàu có thể đạt thành quả sớm vào khoảng năm 2010. Họ sẽ dùng mọi công cụ trong khả năng để hoàn thành nhiệm vụ sản suất bom nguyên tử. Theo lời của Ayatollah Khomeini:
Chúng ta không biết đến giá trị tuyệt đối nào ngoài việc hoàn toàn thần phục ý chí của Đấng Tối Cao. Mọi người nói: “Đừng nói dối!” Nhưng các nguyên tắc rất khác khi chúng ta phục vụ cho ý chí của Allah. Ông dạy người ta nói dối để chúng ta có thể bảo vệ chính mình tại những thời điểm khó khăn và làm cho kẻ thù bối rối. Chúng ta có nên kiên trì sự thật với cái giá là sự thất bại và đe dọa tới đức tin? Chúng ta nói không. Mọi người nói: “Đừng giết chóc!” Nhưng chính Đấng Tối Cao dạy chúng ta cách giết chóc. Không có những kỹ năng đó con người đã bị quét sạch từ lâu bởi loài thú. Vậy chúng ta có nên giết chóc khi đó là điều cần thiết cho chiến thắng của đức tin?…… Nói dối, lừa đảo, âm mưu, gian lận, trộm cắp, giết chóc, tất cả không là gì trừ những ý nghĩa. [nhấn mạnh thêm] Tự thân chúng không tốt hay xấu. Không có hành vi nào là tốt hay xấu, khi tách rời khỏi ý định đã tạo động lực cho nó.
Điều thúc đẩy các giáo sĩ Hồi Giáo Iran là một tầm nhìn cứu thế về việc mang Mahdi trở lại, Imam thứ 12, người là đấng cứu thế của đạo Hồi. Đấng Mahdi đã biến mất nhiều thế kỷ về trước và chỉ có thể trở lại sau ngày tận thế. Người Iran tin rằng họ có thể mang Mahdi trở lại bằng cách tạo ra những thảm họa toàn cầu cần thiết cho giáo phụ trong cuộc trở về của người, sau đó Hồi Giáo sẽ là người thống trị trong toàn vũ trụ và mọi người có thể chung sống hòa bình trong thiên đường Hồi Giáo. Vài người cho rằng điều này thật điên cuồng và người Iran không thực sự tin tưởng nó.
Nhưng hãy lắng nghe những nói của tổng thống Ahmadinejad khi ông kêu gọi đấng Mahdi trong bài diễn văn tại Liên Hợp Quốc năm 2005: “Ôi Chúa Tối Cao, con cầu người đẩy nhanh sự xuất hiện của kho báu cuối cùng của người, đấng đã được hứa hẹn, con người hoàn hảo, con người sẽ đổ đầy thế giới này với công lý và hòa bình.”
Trong suốt cuộc chiến tranh lạnh chúng ta đã tìm thấy sự an toàn từ một Liên Xô, được trang bị vũ khí hạt nhân, trong các chính sách đảm bảo không tiêu diệt lẫn nhau. Nó hiệu quả vì cả chúng ta và người Nga không ai muốn chết. Điều làm Iran khác với những siêu cường khác vì với Iran, tiêu diệt lẫn nhau nghĩa là cái chết cho nước Mỹ và đảm bảo thiên đường cho những người tử đạo Iran. Họ nhấn nút với nụ cười trên mặt, và 72 trinh nữ đang chờ đợi trên góc thiên đàng.
Facebook Comments

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: