Nếu lịch sử Trung Quốc có từ nghiêng nước nghiêng thành để chỉ những phụ nữ xinh đẹp khiến đất nước chao đảo như Hỷ Muội thời vua Kiệt nhà Hạ, Đát Kỷ thời vua Trụ nhà Thương hay Bao Tự thời vua U Vương nhà Chu thì có thể liệt Đặng Thị Huệ vào trong số đó.
Đặng Thị Huệ quê ở làng Trà Hương, huyện Phù Đổng, trấn Kinh Bắc, nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội. Bà xuất thân nghèo khó làm nghề hái chè mưu sinh kiếm sống. Nhưng nhờ có sắc đẹp nhất vùng nên được tiến vào phủ Chúa. Vì xuất thân hèn kém nên ban đầu chỉ là nữ tỳ. Một hôm, Tiệp dư Trần Thị Vịnh sai bà bưng một khay hoa đến trước nơi chúa Trịnh Sâm ngồi. Trịnh Sâm nhìn thấy bà rất bằng lòng, bèn ân ái với bà. Từ đó bà ngày càng được Trịnh Sâm yêu quý, phong làm chính cung của mình, gọi là Tuyên Phi. Tĩnh đô vương Trịnh Sâm là con của Minh Vương Trịnh Doanh. Trong số các chúa Trịnh thì có thể coi Trịnh Sâm là Chúa giỏi khi võ công văn trị đủ cả. Về tài văn chương thì Trịnh Sâm nổi tiếng là người hay chữ. Gia phả Trịnh tộc có chép Tĩnh Vương từ nhỏ đã có tiếng giỏi thơ hay chữ, làm thơ từ năm 14 tuổi – đã cùng Ngô Thì Sĩ đối đáp. Đựơc biên soạn thành bộ Tâm thanh tồn duỵ tập – Tiếng cõi lòng gìn giữ và luyện tập. (gồm 4 quyển, thơ chữ Hán và chữ Nôm). Về võ công thì Trịnh Sâm làm được điều mà các chúa Trịnh nổi tiếng là giỏi trước đây như Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương, Trịnh Doanh trước đây không làm nổi là vượt sông Gianh đánh chiếm tận đô thành của chúa Nguyễn. Nhiều sử gia than rằng nếu Thịnh Vương Trịnh Sâm mà sống thọ được như Khang Vương Trịnh Căn thì sử phong kiến của Việt Nam có thể viết sang trang khác (ám chỉ việc nhà Trịnh có thể nhất thống sơn hà). Nhưng cũng phải thấy rằng từ sau khi lấy được Thuận Hóa thì Trịnh Sâm bỏ bê chính sự, si mê Đặng Thị Huệ. Thời gian đầu lên ngôi Chúa, Trịnh Sâm sáng suốt, sửa sang chính trị bao nhiêu thì sau khi sủng ái Đặng Thị Huệ, Thịnh Vương lại càng u mê bấy nhiêu. Bởi vậy, chính trị suy đồi, nơi kinh đô lắm lời than vãn. Nếu không phải vì bị Đặng Thị Huệ dùng sắc đẹp quyến rũ thì Trịnh Sâm vẫn là minh chúa và việc đánh chúa Nguyễn, thống nhất sơn hà cũng dễ thành. Còn việc Trịnh Sâm khi 30 tuổi vẫn tráng kiện lên ngôi Chúa rồi mất vì tửu sắc khi mới 44 mà không trách Đặng Thị Huệ thì biết trách ai. Đặng Thị Huệ có người em là Đặng Lân nhờ cậy thế chị làm nhiều điều bại hoại trong kinh thành. Trong cuốn Tang thương ngẫu lục thì Nguyễn Án có chép: “Quận mã Đặng Lân là em bà Đặng Tuyên phi của chúa Tĩnh Vương (Trịnh Sâm), thường hay ngông càn phạm phép. Y cưỡng gian một người đàn bà không được bèn cắt vú người ta. Người chồng kiện đến quan, y bị bắt giam ở ngục Ngự sử đài rồi vì có Phi xin cho mà được tha. Tĩnh vương đem nàng Quận chúa thứ hai gả cho Lân, các đồ trang liêm và của hồi môn, so với các triều trước nhiều gấp mười lần. Phủ đệ dựng ở phía Tây nam kinh thành Thăng Long, đồ ăn thức dùng đàng hoàng như một vị vương giả. Lân càng làm nhiều sự càn rỡ, nuôi trong nhà hơn trăm gia đồng, thường cho đội mũ đeo gươm, ra ngoài chợ phố đi nhung nhăng, uống rượu say đánh người bị thương, quan Kinh doãn không kiềm chế nổi. Mỗi khi Lân đi ra, đem theo đến hàng mấy chục con chó săn, con nào cũng đeo nhạc vàng, khoác áo thêu, hét trước hò sau, lấp cả đường lối. Một lần nhân cơn tức giận, Lân giết chết nội giám là Sử thọ hầu, rồi cắm thanh gươm ở trước cửa để không ai dám vào bắt”. Lân giết chết nội giám là Sử thọ hầu là do bị Sử thọ hầu không cho vào động phòng với con gái của Tĩnh vương do chưa đủ tuổi. Lân phạm tội tày đình với con gái yêu của Trịnh Sâm, ấy vậy mà Chúa vẫn tha không bắt tội là bởi vì Trịnh Sâm quá si mê Tuyên Phi. Cũng vì bị Tuyên Phi ngày đêm than khóc mà Trịnh Sâm vốn là một người con chí hiếu đã cãi mẹ để làm chuyện phế trưởng lập thứ. Sâm phế bỏ ngôi thế tử của Trịnh Tông đã trưởng thành để lập con của Tuyên Phi là Trịnh Cán mới 4 tuổi lên làm thế tử. Chính vì thế mới tạo ra mầm mống bất ổn giữa phe Trịnh Tông và Trịnh Cán. Sau này, phe kiêu binh đất thang mộc diệt Cán, phù Tông lên ngôi Chúa nhưng lại cậy công làm náo loạn kinh thành. Cơ đồ vững chắc nhà Trịnh vì thế mà tiêu tan. Số phận của Đặng Thị Huệ sau đó cũng đúng với chữ hồng nhan bạc phận. Sau chính biến năm Nhâm Dân (1782), tức chỉ 1 tháng sau khi Trịnh Sâm mất, kiêu binh nổi loạn đưa Trịnh Tông lên ngôi. Trịnh Cán bị giáng xuống làm Cung quốc công, rồi hơn tháng sau thì bị bệnh qua đời. Sách Hoàng Lê nhất thống chí có viết đoạn cuối cuộc đời Đặng Thị Huệ như sau: “Khi chúa nhỏ bị bỏ, Thái phi (mẹ của Trịnh Tông) liền sai người bắt Tuyên phi hặc tội, rồi buộc bà phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy, Thái phi bèn sai hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất, nhưng bà vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa lời. Thái phi giận quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà Hộ Tăng ở vườn sau. Tại đây, Đặng Thị Huệ bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một bữa, bà trốn ra khỏi cửa Tuyên Vũ, chạy đến bến đò phố Khách thì bị quân lính đuổi kịp...Sau một thời gian giam giữ ngặt, Thị Huệ được cho làm cung tần nội thị, vào Thanh Hóa hầu hạ lăng tẩm chúa Trịnh Sâm. Ở đây, bà ngày đêm gào khóc xin được chết theo chồng. Đến ngày giỗ của chúa Trịnh Sâm, Tuyên phi uống thuốc độc mà chết, được táng cách Vọng lăng (lăng Trịnh Sâm) một dặm”.
Cách gọi tên các nhân vật lịch sử trong bài viết: Trịnh Sâm có tước hiệu là Tĩnh Đô Vương (hay Tĩnh Vương), miếu hiệu là Thịnh Vương. Đặng Thị Huệ được phong là Tuyên Phi. Theo MỘT THẾ GIỚI
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét