|
N
|
ó phá bỏ ngôi nhà cũ ba gian lợp ngói, cửa khung tranh, xây tường hậu. Cột
kèo thứ bằng xoan ngâm, thứ tre gai già, đinh đóng không vào. Kể ra thì ngôi
nhà còn ở được vài chục năm nữa mới hỏng. Chỉ cần vài năm đảo ngói lại một lần.
So với nhà cửa trong vùng, ngôi nhà không đến nỗi lụp sụp, tồi tệ. Vì đa phần
nhà cửa trong vùng còn lợp rạ, cột bằng xoan non mọt rủn, đòn tay bằng tre tươi
mối ăn hết ruột, chỉ còn lớp vỏ bên ngoài. Người ta có thể bóc lớp ngoài cột
tre mỏng tanh ra làm đóm hút thuốc lào.
Ông Thước bố nó bảo:
- Ngôi nhà thất cách. Đã mặt quay ra hướng tây lại
khuyết hậu, đằng sau có cái ao. Mặt tiền của ngôi nhà lại bị bức tường hậu của
nhà hàng xóm án ngữ. Chỉ có người chủ là đàn bà mới dựng nhà như vậy. Tôi đồ rằng
ông cả có ý không hay mới cắm hướng nhà cho mẹ con bà ấy như thế. Tôi mua lại
cho con tôi, tôi sẽ cho nó làm lại. Ăn ở ngược đời như thế, mẹ con bà ấy bỏ
làng đi là phải.
Nó mua gạch, cát, xi măng về quyết thay đổi lại ngôi
nhà. Đang lúc cái đói rình rập khắp nơi, tính chuyện xây nhà thì quả là to gan.
Trong làng bên đã có hai vợ chồng rang một mẻ ngô, không biết trộn với thứ thuốc
gì cùng với ba đứa con trên dưới mười tuổi ăn bữa cuối cùng. Mấy ngày sau, hàng
xóm thấy bên nhà vợ chồng này im ắng lạ lùng, mới đẩy cửa bước vào nhà. Năm cái
xác đã bốc mùi, ruồi nhặng bu đen mặt mũi hai vợ chồng nhà nọ. Thì ra trong nhà
không còn hạt gì ăn sống người, người chồng đau dạ dày kinh niên, người vợ buôn
sắn khô đã hết cách chạy ăn cho cả nhà.
Nhiều cảnh cha bỏ con, tớ bỏ thầy, vợ chồng lia lọi
nhau chỉ vì miếng cơm manh áo. Làng quê như bị vắt kiệt giọt sống cuối cùng.
Ấy vậy mà nó tính chuyện làm nhà. Nó không có quyền
cao chức trọng gì. Nó chỉ đơn giản là anh thương binh về làng, thương tật không
lấy làm nặng vì nó chỉ là viên đạn thủng qua phần mềm dưới bụng. Để lại vết sẹo
bằng đầu ngón tay. Trong một trận giáp chiến với tàn quân Pôn Pốt ở biên giới
phía nam. Một vết thương như thế với người khác chưa chắc đã được hưởng chế độ
thương binh. Nhưng vốn lanh lợi, khéo mồn, luồn như lươn, nó từ trại an dưỡng về
mang theo cái thẻ thương binh loại 3 trên 4. Trợ cấp thương tật lúc này chưa
cao nhưng cũng còn hơn chán vạn những anh phục viên, xuất ngũ về làng chẳng có
chế độ gì.
Nó thường tự mãn trước mặt mọi người:
- Đây chẳng là cái ông đếch gì. Nhưng cứ sáng ngày
ngủ ra là có vài cân gạo gối đầu giường, không bao giờ đứt bữa hoặc sơi củ chuối!
Kể nó nói cũng phải. Trên trợ cấp tính chia cho mỗi
ngày dự sức mua vài cân gạo cho hai vợ chồng và hai đứa con. Ở cái làng này đó
là điều mơ ước nhiều người không bao giờ với tới. Ngày đủ hai bữa trưa và tối
cơm trắng, canh rau bỏ mì chính thế là mãn nguyện lắm rồi. Còn bữa sáng có
khoai thì ăn khoai, không thì cái bắp nướng, củ sắn luộc cũng là đủ.
Việc nó xây được nhà không liên quan gì đến chế độ,
lương bổng. Cũng chẳng phải ông bố giàu có cho. Ngoài mảnh vườn và ngôi nhà cũ
của bà bác, bố nó mua lại cho nó, ông không cho gì thêm. Vì ông còn đông con,
ba trai ba gái nữa sau nó. Với một ông bố lo cho bảy người con thì với nó đã là
quá tốt rồi. Nếu ông bố không căn cơ, tính đếm chưa chắc nó đã được chỗ ở như
thế này.
Đây là mảnh đất của bà nội nó mua lại của bà Vượng từ
hồi chưa khởi nghĩa cho hai người con của bà là bác trai và bố nó.
Bà nội phận làm lẽ lấy chồng đâu có được hương hoả
nhà chồng. Ông nội tuy gọi là cụ chánh nhưng hữu danh vô thực, không có của cải
gì lo cho bà hai. Sinh bố nó được vài tháng, bà nội nó đã phải lên tỉnh làm vú
em chăm con người ta. Bà còn đi làm thuê, làm mướn chẳng thiếu đâu để ki cóp một
chút tiền mua miếng đất này. Nó chỉ rộng hơn sào đất ở khuất lấp tít hút mãi
trong ngõ nhỏ, lại gần bãi tha ma. Giá trị tiền bạc không đáng là bao, nhưng đó
là mồ hôi nước mắt, một phần máu xương của bà nội. Hai anh em bố nó lớn lên
trên mảnh đất này. Cả hai vào du kích sau ngày toàn quốc kháng chiến. Người anh
bị địch giết trong một trận càn bỏ lại vợ dại, con thơ. Người em là bố nó ra
vùng tự do vì vỡ cơ sở, bỏ lại người vợ mới cưới được ít ngày. Bà này đẹp, mắt
đen láy, răng đều nhánh đen hạt mướp, lúc nào cũng má hồng hây hây.
Tây đen, tây trắng về làng. Bà bị một thằng tây quân
thừng vồ được hãm hiếp đến gần chết. Người nhà nhặt được mang về nhà thuốc
thang. Khỏi bệnh, nghĩ hổ ngươi, bà bỏ làng đi đâu biệt tích.
Chiến thắng Điện Biên, bố nó phục viên về làng. Nông
hội, phụ nữ xã đứng ra làm đám cưới tập thể cho năm đôi vợ chồng.
Đám cưới chỉ có hái hoa dân chủ, hát bài " Đoàn
kết đấu tranh ". Một thúng kẹo bột, gánh nước chè tươi, hai tút thuốc lá.
Không một miếng thịt, chén rượu ở nơi liên hoan. Mười giờ đêm, tan đám, ai về
nhà nấy. Có cháo gà thì ăn cháo gà. Không có thổi nồi xôi liên hoan cả nhà. Bà
nội nó chỉ có nồi khoai lang mật. Thứ khoai để héo lâu ngày, vừa dai, vừa mềm,
ngọt như ăn kẹo mạch nhà.
Hai ông bà lấy nhau mà không có nhà ở. Cụ Cử ông ngoại
nó nhận cho bố nó ở rể vì cụ sinh con một bề. Hai người gái lớn đã lấy chồng, mẹ
nó là con út. Cụ Cử là người chữ nghĩa, cao đạo, nhưng lại xa cách đời sống
hàng ngày. Cụ bà ngược lại là người cẩn thận đến thành chi li. Tính nết tinh vi,
lại hay để bụng vặt vãnh.
Người ta bảo ở rể là cái anh chó chui gậm trạn. Bố
nó lấy được vợ trẻ mà trong lòng không vui. Ông trở nên con người gay gắt, cay
nghiệt. Đến cả thương con ông cũng thương khác người. Đánh con lần nào không khỏi
mấy đứa không ốm, không sốt. Năm nào thằng em nó trèo cây gẫy tay, bố không ra
đỡ, lại vỗ tay: " hoan hô " mặt thản nhiên như không, bỏ vào nhà, làm
mẹ nó khóc sưng vù hai mắt.
Nhà bác nó gặp nạn, rồi dậu đổ bìm leo. Bà phải tính
đến chuyện bán đất bán nhà dời đi nơi khác. Thủ tục giấy tờ làm xong, người ta
chuẩn bị giao tiền thì bố nó đứng ra. Ông bảo ông cũng có phần trong cái hương
hoả nhỏ nhoi ấy. Cuối cùng bà bác chỉ nhận được một nửa số tiền và giao lại cho
ông đất đai nhà cửa.
Hồi đó làm thủ tục giấy tờ chuyển đi nơi khác đâu phải
chuyện dễ? Nào hộ khẩu, hộ tịch. Nào cắt chuyển lương thực, một thứ tiêu chuẩn
tượng trưng không có thực tế... Phải hàng tháng, hàng năm mới xong, đủ loại giấy
tờ. Trong khi chờ đợi, bà tạm ở lại ngôi nhà cũ. Sợ người chị dâu đánh tháo, hoặc
có ý lần khân, ông đánh chuối trồng sát vào cửa nhà, không còn lối ra vào... Bà
chị dâu âm thầm bưng nước mắt sang hàng xóm ở nhờ.
Mối lo thường trực trong lòng ông là một ngày nào
đó, thằng cháu đích tôn đi tù về sẽ đòi lại đất, đòi lại nhà. Nó có quyền làm
như thế vì khi bán mua nó không có mặt. Nó sẽ bác bỏ mọi thoả thuận mà ông ép mẹ
nó phải chịu.
Nhiều người trong làng bảo: " À thì ra thằng ấy
đi tù không phải không có duyên cớ . Chú nó đứng ra bảo lãnh trong lúc có quyền
chức trong tay thì có khó gì? Nhiều việc tày đình người ta còn cho qua, chứ tội
lỗi của nó thì không đâu vào đâu. Nhưng nếu thế còn chuyện gì để nói. Làm sao
ông ấy có thêm mảnh đất dành phần cho con trai ông sau này ở riêng dễ thế được?
".
Bây giờ nó xây nhà, bố nó không giúp thêm gì được.
Ông lo như thế là quá đủ rồi. Nó cũng không trông cậy vào ai, Hỏi thử mấy đám
không kết quả. Người có tiền thì chắc như cua gạch. Không mong gì. Người có
tình thì sờ đít ba ngày không có cứt. Nhưng nó không lo.
Chẳng biết con sông Hồng đỏ nước phù sa với các nhà
thơ, nhạc sĩ họ dào dạt, lãng mạn, thơ ngây đến thế nào. Với nó là dòng sông cụ
thể, mang về ý nghĩa thiết thực. Xuôi ngược trên sông là những con tàu chở
hàng, những đoàn xà lan đầy ắp than đá chở ngược. Những đoàn xà lan che bạt kín
mít chở đường, phân đạm về xuôi. Rất nhiều mặt hàng thiết yếu chiến lược như vải,
muối, xăng, dầu chuyên chở dọc sông.
Người khác đứng trên bờ sẽ rất thờ ơ với những đoàn
tàu xà lan như thế, với họ "Nhất cận thị, nhị cận giang" chả có ý
nghĩa gì. Với nó lại khác. Nó biết trên những con tàu đó là những con người. Họ
cũng có những nhu cầu sinh hoạt và quý giá đồng tiền như ai. Quan hệ với những
con người như thế không bao giờ thừa. Tàu nào không cần có bến đậu? Nó cất công
về tận bến đất Hà Nội, lên bến Hạc Trì lân la làm quen. Cuối cùng nó cũng
" Thiết kế " được đường dây làm ăn. Công phu tỉ mỉ chả kém công trình
vạch tuyến đường mòn trên biển, mà một lần nó được vinh hạnh từ Đồ Sơn vào vịnh
Vũng Rô.
Ông bố vợ nó làm nghề chèo đò ngang. Nó bảo ông lên
bờ về nhà nghỉ cho khoẻ để nó và thằng em cậu chèo chống cái thuyền gỗ sứt mũi.
Ngày hai anh em ngủ, nửa đêm hai anh em bơi thuyền ra giữa sông. Cứ nhằm hướng
có ánh đèn và tiếng máy canô mà lướt. Trên thuyền sắp mấy can rượu Bá giang, mấy
bu gà. Chỉ thế thôi cũng không làm được trò trống gì. Trong túi nó còn mấy xấp
bạc. Sẽ tuỳ theo số lượng và giá trị hàng hoá sang mạn được mà trang trải. Hôm
vài tấn than, hôm vài tạ đường, vài chục xách dầu. Xếp đầy lên thuyền hai anh
em thả xuôi dòng, xuống đến Truy Hà, chỗ mấy bụi tre um tùm sát mép nước thì
neo thuyền lại. Chỉ cần bấm đèn pin từ xa chớp nháy mấy cái, như kiểu đánh tín
hiệu là khi vào đã có người đón hàng. Sau một vài lần, cuộc mua bán trở thành
quen, chỉ diễn ra chớp nhoáng. Hai anh em nhận tiền rồi bơi thuyền về. Hôm nào
chở than thêm chút việc là phải cọ thuyền, cũng chỉ một loáng là xong, không
đáng kể.
Cái trò "đánh quả" ấy chỉ mới chấm dứt gần
đây khi ông Thước đã nghỉ hưu và đã có con mắt dòm ngó của một vài người.
Làm gì cũng phải biết điểm dừng và nó đã dừng đúng
chỗ, không một sai sót nhỏ. Bây giờ nó sử dụng kết quả của những đêm nào mò mẫm
trên sông. Có kẻ tò mò hỏi
- Thời buổi này chú xây nhà, anh chịu chú. Chắc hẳn
phải có bí quyết gì?
Đôi mắt chuột dái của
nó hấp háy:
- Bí quyết gì. Bọn em ăn chắt, hà tiện. Không bóc ngắn
cắn dài vung tay quá trán thôi! Cũng là cố, các cụ chả bảo của cố là của được đấy
ư?
Rồi nó cười hức hức. Cười
gì mà như nhạo, như cù người ta? Gã đến, nó chột dạ. Nó cũng nghĩ như ông Thước
bố nó: Thế nào rồi cũng có ngày gã mò về. Một người như gã chắc không bao giờ
chịu chôn vùi cuộc đời mình nơi rừng xanh, núi đỏ. Nơi trâu, gõ mõ, chó leo
thang xa cách đời sống bình thường. Gã về, biết đâu nơi ăn chốn ở của nó sinh
chuyện? Nhưng nó khác hẳn với bố nó. Nó không xưng xưng cái mặt đâm lê ra vẻ đối
phó. Làm thế chưa chắc đã hay. Có khi lại kích thích gã điên lên. Một kẻ như gã
không việc gì không làm khi quá uất ức. Người ta bảo " Thứ nhất sợ kẻ anh
hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng khố dây ". Cả hai cái đó gã có cả. Có thêm sự
không còn gì để mất: Gã không vợ, không nhà, không tiền của, tiền đồ. Gã dám lắm
chứ? Nó dại gì trêu vào tổ ong mặt quỷ? Mà người ta bảo khôn không qua lẽ, khoẻ
không qua lời. Chi bằng lấy sự mềm mỏng là hơn. Tính cách gã nó biết. Một thằng
đầu óc sách vở đến mụ cả người. Chữ nghĩa ám nhiều, gã chẳng giống ai. Được lời
là cởi cả tấm lòng không tính thiệt hơn. Đầu óc với ai chứ với gã, nó không lạ
gì. Hơn nữa còn chút tình máu mủ. Mình cư xử khéo, biết đâu gã cảm động không
nghĩ đến chuyện tranh giành. Mình được tiếng là người tử tế biết anh trên, em
dưới.
Trong bụng nó không mong cuộc gặp gỡ này. Ngoài mặt
lại làm ra đon đả:
- Bác vào trong lán nghỉ cho mát. Mãi bác mới về, lại
đúng hôm em cho thợ đào móng. Thế bà với cháu trên nhà khoẻ cả chứ?
Rồi nó quay ra bảo vợ:
- Mẹ mày cứ bỏ chỗ gạch đấy đã, chốc nữa xếp. Pha
ngay cho tao cốc nước cam mang lại cho bác. Bác đi xa về chắc mệt. Anh em lâu
ngày lắm mới lại gặp nhau. Số em vất vả như bác, chỗ ăn chỗ ở cứ phải tự tay
mình lo. Thế bác về đã đi chơi đâu chưa? Cứ ở đây đã, rượu xong, tối anh em
mình mới có điều kiện nói chuyện. Em nhờ người làm nó bận rộn, chật tý bác bỏ
qua.
Gã nói:
- Tôi ghé qua một tý. Chú bận việc cứ làm đi. Anh em
thiếu gì lúc.
Nó lại hức hức:
- Thế bác thông cảm nhé. Em phải ra xem thợ giác
móng thế nào. Bây giờ không xem, lúc làm rồi muốn sửa cũng không được. Xảy một
ly đi một dặm mà.
Nói rồi nó lại chỗ mấy người đang chăng dây, lựa đi
kéo lại để đóng cọc.
Gã nhớ chỗ đất đang đào móng bây giờ trước là gốc
cây bưởi vàng. Thứ bưởi thơm nức, tôm mọng mà ráo, ngọt lừ, vỏ bưởi vàng tươi độ
áp tết. Nguồn thu quan trọng hồi gã còn ở nhà. Những bộ quần áo mới, cái cặp tới
trường, đôi dép nhựa tiền phong từng được sắm cho gã nhờ cây bưởi này. Gã đảo mắt
nhìn quanh, không còn dấu vết gì, kể cả cái lá bưởi khô hay sợi rễ cây. Không
biết nó đã triệt phá đi từ khi nào? Cách đó một quãng ngày xưa là khoảng sân trống.
Bọn trẻ trong xóm thường kéo đến chơi ô ăn quan. Mẹ gã tính sởi lởi, chẳng khó
với ai bao giờ. Thậm trí người ta đi tắt thành hẳn con đường ngang qua vườn nhà,
thông giữa ngõ trên ngõ dưới mà bà không nói một câu. Người khác thì đã rào chặn
lại hoặc ca cẩm không muốn cho người ngoài đi như thế. Đường đi qua nhà người
ta kiêng. Nhưng bà vẫn để thông thống, ai qua lại mặc lòng, tự do như đường cái
quan.
Chỗ ấy là nơi anh em gã sưởi nắng khi mùa đông về.
Sáng ra cóng buốt, một manh áo mỏng trên người. Anh em ôm nhau sưởi nắng cho đến
khi hàm răng không còn va vào nhau lập cập, môi đỡ tái tím mới chạy vào nhà.
Rét mướt mà không dám đốt lửa sưởi. Củi đun còn không đủ, lấy đâu củi sưởi?
Có một việc mà gã còn nhớ mãi đến bây giờ. Năm ấy bà
nội còn sống, bà vừa ốm dậy lại gặp trận rét kinh người. Người ta bảo sương muối
là rét hại lắm. Đám chuối trong vườn lá héo rũ, cây mít cũng trụi hết lá. Ông
chú gã ngược bè về. Ông đi cùng với người ta chỉ làm vì, mặc dù vẫn được phần
chia nhiều hơn. Nếu không có ông dễ gì họ có đủ thủ tục giấy tờ để qua hàng bao
nhiêu trạm từ thượng du về? Mà ai muốn rời làng đi xa đâu phải cứ thích là đi
được? Chính quyền không cho phép thì đến bố sống lại bảo đi họ cũng không dám.
Ông theo họ chả vất vả gì. Bè về bến lại có người kéo giúp về tận nhà. Củi, nứa
của ông xếp đầy vườn, chật cả lối đi ngoài ngõ. Thế mà khi bà nội hỏi:
- Cho mẹ xin vài bó củi sưởi cho đỡ rét, nhà này
cháu nó còn nhỏ chưa biết đường kiếm củi. Mẹ nó họp hành tối ngày. Mẹ mắt mũi
kém quá, ở với mẹ con nó càng không giúp được việc gì...
Ông chỉ bảo:
- Để xem xem đã, bà cũng vẽ chuyện. Mang từ trên rừng
về đến đây, đâu có ít đường đất?
Nói rồi ông đứng lên quay ra cửa. Bà nội uất quá nói
không ra tiếng:
- Thồ..ồi... Không phải xe... em... tồ ồi không dám.
Ngay sau lúc đó, bà nội bảo gã chạy sang hàng xóm mượn
cái búa, cụ cứ nhằm chiếc hòm gỗ cũ làm bàn thờ mà bổ. Gã còn nhỏ, hỏi thì cụ
nói:
- Tao làm củi sưởi.
Tuổi già sức yếu,
búa cầm không chắc, bà nội bổ vào chân đau hàng tháng trời...
Nó niềm nở chào hỏi khiến gã cảm thấy đỡ bùi ngùi phần
nào. Cái ý nghĩ tìm về, nhìn lại ngôi nhà cũ lần nữa không thành. Nó không còn
dấu vết gì, mà đã quay sang hướng mới.
Không biết thằng em họ sẽ xây ngôi nhà to nhỏ như thế
nào, nhưng những hình ảnh cũ nơi ăn chốn ở lúc đầu đời, gã không bao giờ còn thấy
lại nữa.
Có lẽ nó sẽ xây một ngôi nhà lớn, gạch, vôi, cát sỏi
đổ nhiều, lấn cả ra ngoài đường. Một chuyện đã rồi, Gã sẽ phải quên đi như đã
quên đi nhiều thứ trong bước đường đời khốn nạn của mình. Cái ý định trở về quê
cậy nhờ anh em họ hàng giúp đỡ trong bước đầu khó khăn nơi mới định cư tan như
sương sớm. Sẽ không có ai giúp của, giúp công như mẹ gã nói trước lúc gã trở về
đây. Đó chẳng qua là thứ tình cảm vồ vập mà mẹ gã tự hình dung ra, không bao giờ
có thực. Suốt những năm ở trại không một lời thăm hỏi, không một điếu thuốc hạt
gạo của người nhà gửi cho. Giờ gã tự do, nhưng cũng chẳng hơn gì. Không ai muốn
dây dưa liên lụy với kẻ từng mang tiếng xấu, không một đồng xu nhổ râu. Thương
yêu đùm bọc còn có ý nghĩa là sẻ chia mà lúc này không ai muốn làm.
Dòng họ gã suy đồi, coi rẻ con người hay bản thân gã
không ra gì để mất đi sự ưu ái ấy? Hay cuộc sống khó khăn, con người ta chỉ còn
khả năng thương lấy bản thân mình, không thể bao dung kẻ khác? " Một con
ngựa đau, cả tàu chê cỏ ". Không lẽ con vật còn sống có tình, có nghĩa hơn
con người hay sao?
Ôi cái vùng quê xơ xác, đến cả những tình cảm đơn sơ
nhất cũng không thể nhú mầm! Gần một năm ở trại tạm giam sau ngày di lý về, duy
nhất gã nhận được quà của người nhà. Mấy bao thuốc lá, gói đường và túi quẩy
rán mỡ. Người gửi cho gã là ông anh họ đang dạy một trường chuyên nghiệp ngoài
Hà Nội. Ông bác thứ hai của gã sinh toàn con gái, nuôi người này từ nhỏ, ông là
cán bộ cao cấp nên người anh này được ăn học đầy đủ. Anh ta lại là bạn học với
gã suốt thời phổ thông, sách vở, chữ nghĩa, thơ phú gắn bó cả hai với nhau còn
hơn ruột thịt. Sau ngày thống nhất anh chuyển vào Nam, đó là người duy nhất cảm
thông và quý mến gã trong đại gia đình Nguyễn Kim ở làng này.
Không - Gã không trách ai - Như mẹ gã bảo: "Tất
cả tự mình" mình làm mình chịu. Họ hàng không giúp, nhưng cũng không ai
làm hại. Thiên hạ bây giờ nhà nào chẳng thế. Mấy nhà còn câu: "Chị ngã em
nâng". Thời đế quốc, phong kiến thối nát trước kia đen tối nhiều bề, nhưng
ít ra còn chút tình người an ủi. Người ta còn nhường cơm, xẻ áo đùm dúm trong họ
trong nhà. Giờ đổi đời, con mắt nhìn nhau ruột thịt như thể người dưng - Có phải
quá nhiều nỗi đau, quá nhiều nỗi buồn, quá nhiều khổ cực, đã làm tê liệt tình
người. Nó vô cảm như khúc lò so không còn đàn hồi được nữa. Chỉ còn là mẩu sắt
rỉ vô dụng vô tình? Gã bứt rứt trong lòng, muốn đứng dậy đi ngay. Nó một mực giữ
lại, gã lại đành ngồi xuống bên chiếc bàn phủ đầy bụi gạch, cát rơi vãi.
Vì là buổi khởi công đón tay thợ, vợ chồng gia chủ
cũng chuẩn bị tươm tất. Sắp lên mâm đủ lòng lợn, tiết canh, thịt nướng, thịt luộc
và đĩa đậu sống. Vào thời buổi này, đó là bữa ăn thịnh soạn, không phải lúc nào
cũng bày ra được với túi tiền của nhiều nhà.
Nhưng gã ở lại không phải vì chuyện đó. Ăn đây bữa
này, lúc khác ăn đâu? Khổ ải bao năm, gã đã xem miếng ăn là thường, không quan
trọng như nhiều kẻ khác. Gã ở lại vì không muốn có ánh mắt nhìn theo của mấy chục
con người đang làm giúp việc tại đây. Gã cũng không muốn vợ chồng thằng em nghĩ
sai về mình. Chẳng hoá ra mình là kẻ ghen ghét, đố kỵ. Thấy nó xây nhà trên mảnh
đất cũ của mình mà thất ý, tủi thân?
Gã định đứng lên hộ vợ chồng nó một việc gì đó như
xúc cát khuân gạch chẳng hạn. Thiếu gì việc vào lúc này?
Vừa lúc gã bắt gặp cái nhìn của bà thím. Không biết
bà Thước đến tự lúc nào không đánh tiếng nên chẳng ai biết. Bà đứng sau bụi chuối
đánh mắt nhìn ra. Cái nhìn khiến hắn lạnh người, y như hồi gã còn sống trong
vòng cương tỏa. Một lát, rồi bà lẳng lặng bỏ đi cũng không nói một câu. Chừng nửa
tiếng sau thì ông Thước đến. Ông hỏi gã một câu làm gã tím mặt:
- Tôi tưởng anh đi đâu rồi? " Vưỡn " ở đây à?
- Cháu định đi, nhưng em nó bảo cứ ở lại. Đằng nào
thì bây giờ cũng không còn xe ngược. Mai nó sẽ đèo cháu ra bến sau.
Ông hừm một tiếng:
- Vẽ việc, vài cây số từ đây ra bến đi bộ một lúc là
tới, đưa đón gì. Tôi lên huyện xa gấp đôi mà chả thấy nói đến chuyện đưa đón
bao giờ. Nhưng nó đã bảo thế anh cứ ở. Đoạn rồi mai nó đưa..
Ông nói có vẻ miễn cưỡng khiến nó ngại. Lúc người
nhà bưng mâm lên ông nhất quyết không ở. Ông bảo:
- Có công có việc, cơm rượu người ta có dự trù. Tôi ở
lại làm gì!
Gã tím mặt, gã cũng " Ngoài " sự trù tính
của vợ chồng thằng em. Gã kiếm cớ nói ra quán mua bao thuốc. Ông Thước không
nói gì, mắt ông để vào đám thợ đang rửa tay ngoài cầu nước.
Thằng em nói:
- Bác cứ ở đấy. Đằng nào nhà em cũng ra quán, cần gì
nó sẽ mua, bác không phải đi!
Gã gượng cười:
- Tôi hút nặng, thím không biết loại thuốc nào đâu.
Cứ kệ tôi.
Gã đi vội ra ngõ, đường thôn đã xâm xẩm tối. Hai bên
hàng xóm le lói ánh đèn. Gã sẽ không trở lại đây vào lúc này mặc dù chưa biết
đêm nay mình sẽ đi đâu, ăn đâu, nghỉ đâu. Tất cả những cái đó lúc này không còn
ý nghĩa gì khi gã thấy tắc nghẹn ở cổ, miệng đắng khô, mắt mờ nhoà...
Hình như mình sắp khóc. Không, không thể yếu mềm như
thế được, gã tự nhủ, đi miết vào đêm tối đang dần ập tới.
ó
ó ó
Đỗ Đen không ngờ gặp gã vào lúc này. Nếu gã không đằng
hắng đánh tiếng thì anh ta đã lao cả cái xe đạp thồ vào gã rồi. Cái xe trần truồng,
không phanh, không chuông, hai bánh nặng như bánh xe cải tiến bởi bộ nan hoa đặc
biệt to như đũa ăn cơm.
Đỗ bấm đèn pin sáng loá. Đèn ba pin, chuyên dùng để
coi cá ngoài đầm Mắt Rồng, anh ta ngớ ra:
- Về bao giờ thế mày?
- Tao vừa về.
- Tối rồi còn định đi đâu?
Gã bảo:
- Tao vào thằng em, nó đang làm nhà, nhà cũ thì dỡ
đi rồi. Đang định sang chỗ bà dì út ngủ lại mai ngược.
Đỗ Đen sửng sốt:
- Thế mày không biết gì à? Bà ấy theo đoàn vào Tây
Nguyên chuyển hài cốt ông ấy đã về đâu? Giờ chỉ có mấy đứa con gái ở nhà, Đến
cũng chẳng có ai tiếp. Thôi ở lại đây với tao. Từ ngày ấy đến giờ anh em mình mới
gặp lại nhau. Ở với tao một đêm, mai muốn đi đâu tao không giữ.
- Nhưng mày đang chuẩn bị đi đâu, súng ống thế này, ở
nhà nhỡ việc.
Đỗ cười khà khà:
- Nhỡ gì, Tổ bảo vệ những năm người. Tao bận đã có thằng khác trông
thay, lo gì! Mấy khi mày mới về, anh em gặp được nhau!
Gã còn chưa quyết, bàn tay to tướng của Đỗ cứ thế nắm tay gã lôi đi.
Nhà Đỗ ở cuối xóm, nền nhà đắp cao như quả đồi, một cách tránh ngập nước
vào mùa sông nước to, mưa úng ngày trước. Vợ Đỗ còn đang lạch cạch rửa bát, đã
nghe Đỗ oang oang giục vo gạo thổi cơm. Đỗ ấn gã ngồi xuống phản rồi chạy ra
ngõ. Một lát anh ta về, trong tay cầm chai rượu trắng. Tay kia bọc gói lá chuối
tươi. Gã nhìn căn nhà bạn không đổi thay là mấy. Chỉ có khác nó không còn lợp dạ
mà đã lợp ngói. Hai hồi nhà đã thay cột tre vách đất được xây bằng gạch ba
banh. Vách phía sau nhà vẫn còn trát đất. ở một góc nhà phía trên treo cây đàn
bầu tự tạo. Thân đàn làm bằng tre bưng, bầu đàn bằng lon sữa bò. Không nhìn rõ
dây đàn, nhưng gã đoán có thể nó làm bằng một sợi phanh xe đạp. Cạnh đó còn có
chiếc mũ phớt mầu huyết dụ.
Chừng ấy năm xa nhau, nếm trải đủ mùi tính cách bạn
thay đổi thế nào gã chưa hình dung ra. Nhưng cảm giác gần gũi thân thiện như
nói với gã rằng hắn vẫn như xưa. Con người chết đến đít vẫn cười. Chẳng coi chuỵên
gì là quá quan trọng.
Đỗ có chân trong đội văn nghệ của xã nhờ giọng hát cải
lương hiếm có trong vùng. Anh có thể ca liền mười hai câu vọng cổ mà không cần
ngừng lấy hơi. Những thứ đạo cụ linh tinh như phông, màn, sênh, phách anh lại
làm rất khéo. Loa đài hỏng hóc chỗ nào Đỗ cũng táy máy, dò dẫm chữa được hết. Đội
có cây đèn măng sông. Những đêm không biểu diễn Đỗ được giao mang về nhà. Đám
hiếu nào Đỗ cũng có mặt. Anh thổi kèn bát âm và hát chèo đò. Vừa chỉnh kim dầu
đèn măng sông Đỗ vừa nói:
- Người sống, kẻ chết ở làng này tớ phục vụ tuốt!
- Thế họ trả thù lao bằng tiền hay ăn công điểm?
Đỗ cau mặt:
- Ông nói chuyện buồn cười. Làm việc nghĩa biết thế
nào mà tính công. Phúc chủ, lộc thầy. Nhà người ta khá người ta thù lao không đến
nỗi tệ. Người nghèo thì mình làm phúc. Có từng nào nhận từng ấy, không đòi hỏi!
Gã cười:
- Tôi thấy ông vẫn như trước, vẫn vui vẻ vô tư làm
như chưa từng xảy ra việc gì! Thần kinh phải khoẻ lắm mới như thế được?
Đỗ kéo hơi thuốc lào, trầm mặt một lát:
- Thế ông bảo vò đầu bứt tóc suy tư thì làm được điều
gì? Không thay đổi được những điều không thể thay đổi. Cái gì tính được mới
tính. Không tính được cho qua luôn. Sống là chấp nhận, ưu tư lắm mà làm gì?
Gã nghĩ tay này sống thanh thản quá. Có lẽ hắn bằng
lòng với cuộc sống hiện tại. Một căn nhà nhỏ, một trai, một gái một người vợ hiền.
Vườn cây trái xum xuê bao quanh, cách biệt với bao nhiêu ồn ã, vật vã bên
ngoài.
Gã và hắn chơi thân với nhau từ tấm bé vì cảnh ngộ
có những nét giống nhau. Đều nghèo nghèo, khô khổ trong cái xóm chằng chịt ao
chuôm này. Hắn bỏ học từ năm cấp II kiếm tiền đỡ mẹ. Thoạt đầu bằng nghề bắt
cá, câu lươn. Lớn lên một chút theo người ta làm thợ mộc, cặm cụi đục đẽo suốt
ngày. Hắn đi bộ đội được ba năm thì bỏ về vì mẹ hắn ốm thập tử nhất sinh. Từ
con người lành hiền chất phác hắn trở thành đối tượng phản giáo dục tại địa
phương. Người ta đưa hắn đi công trường lao động, ở đây toàn thành phần đảo
ngũ. Anh nào cũng phải viết lên mũ dòng chữ to tướng: " Ai cũng như tôi
thì mất nước ". Sau đợt lao động ít ngày hắn được tha về. Vừa chân ướt chân
ráo về làng. Hắn rẽ vào bãi chiếu phim. Đúng hôm xảy ra vụ án mạng mà xưa nay
trong vùng không hề xảy ra. Hắn đi trại trung ương trước gã vài tháng và về sau
được được tha trước gã hai năm. Nhìn con người hắn bây giờ khó tìm ra dấu vết của
ngày ấy, nếu hai bắp tay hắn không có dòng xăm trổ " Kiếp nghèo ôm hận
". Nét chữ viết ngệch ngoạc trông cứ như: " Kiếp nghèo ôm lợn ".
Gã bảo:
Ông thắp đèn búp măng là đủ, chơi măng sông làm gì
cho tốn dầu. Có ai đâu mà bày vẽ.
Hắn vuốt hàm râu quai nón, điệu bộ như đang trên sân
khấu:
- Lúc này không thắp thì thắp vào lúc nào? Này nói
thực nhé: Từ cái ngày gặp nạn, mình sợ những chỗ tranh sáng tranh tối. Đến chỗ
nào cửa giả bí quá mình cũng hãi. Thành ra ông xem đấy, nhà mình tuy nhỏ nhưng
cửa làm rất thoáng. Cửa sổ bỏ luôn chấn song. Hình như vẫn có cái gì ám ảnh khó
quên?
Gã hỏi:
- Nghe nói ông được về trước hạn có phải không?
- Phải. Trại ở sát biên giới, bọn bành trướng bất ngờ
tập kích. Thầy trò nháo nhào. Mình có nghề lái xe nên được giao vận chuyển phạm
đến nơi ở mới. Có mấy thằng bỏ trốn, không kịp xin phép quản giáo, mình chạy
đón lõng bắt được chúng mang về. Chính ông chánh giám thị biểu dương khen thưởng
mình. Ông còn đề nghị lên trên tha mình về trước hạn. Hôm mình về, còn có cán bộ
trại đưa về bàn giao với địa phương khen ngợi mình. Nhờ thế mình về không bị
thành kiến, còn được giao làm tổ trưởng bảo vệ, giữ súng ống đàng hoàng. Sau
này mình có nghe nói ông trốn trại. Đầu óc tính toán thế nào mà ngu thế không
biết? Mình nói ông thông cảm: Trốn đi đâu? Chỗ nào không có tai mắt nhân dân?
Cho dù có bị xử lý sai cũng không thể làm thế được. Việc gì trên đời này mà
không có sai sót? Sai rồi người ta sẽ sửa. Làm thế đương nhiên là mình trở
thành sai rồi! Có đúng thế không? Mà thôi không nhắc chuyện cũ, buồn bỏ mẹ. Ông
ra rửa chân tay đi, cơm xong ta chuyện tiếp.
Thấy gã cứ nhìn mãi bức ảnh trên bàn thờ. Hắn nói:
- Mẹ mình số khổ. Bao năm lăn lộn nuôi chồng nuôi
con. Bà đã phải bán đến hàng ngàn mẹt bánh đúc gánh đi các chợ. Đến nỗi khô hết
khớp, trước ngày mẹ mình mất mấy năm, cụ không đi lại được. Đến khi con cái mở
mày mở mặt được một tý, cụ lại về giời...
Anh chàng cao to lộc ngộc này xem ra cũng là người
mau nước mắt.
Vợ Đỗ đã bưng mâm lên. Tuy đã ăn cơm tối, Đỗ cũng ngồi
vào chiếc chiếu trải trên nền nhà láng xi măng. Đã bao nhiêu lâu rồi cả hai mới
lại ngồi lại với nhau. Gã nhớ lại những củ khoai lang người nhà mang xuống trại
mà hắn nhờ người chuyển cho gã. Mỗi người ở một phòng giam riêng chỉ nghe thấy
tiếng, mà không nhìn thấy mặt. Tự dưng gã nhớ lại một việc đã lâu lắm rồi:
- Ông còn nhớ hồi nhỏ chúng mình chia phe đánh trận
giả. Tôi phe du kích, ông phe lính đồn. Bãi ngô cao ngập đầu người. Hai bên cứ
vác đất choảng nhau chí mạng. Còn hô xung phong, “ăng lê văng” rầm trời không?
Hắn cười:
- Quên làm sao được. Một lần có người đi chợ về
ngang qua bãi ngô, ông tương hòn đất cứng trúng bụng một bà đi chợ. Bà này sắp
đến ngày sinh, đứa con trong bụng xẩy mất. Công an về điều tra mãi. Tôi biết mà
không nói, sợ người ta bắt ông lúc bấy giờ.
Gã choáng váng, thằng cha nhớ lâu thật. Thế mà bao
lâu nay gã cứ phân vân về câu "ở hiền gặp lành". Gã đâu có làm gì thất
đức mà đời gặp bao nhiêu trái ngang?
Nếu Đỗ không nói gã đã không nhớ chuyện này. Còn trẻ
con, gã là tên đại nghịch, đầu têu không thiếu trò gì . Gã có biết đâu rằng:
Người ta rất có thể bị trừng phạt vì những việc vô tình. Vô tâm! Trời cao thăm
thẳm, nhưng trời sẽ không bỏ qua bất cứ chuyện gì! Bất giác gã thở dài!
Bữa cơm có cá nướng, thứ cá có người gọi là cá chuối,
người bảo cá quả. Nhưng theo gã cá quả là loại lớn hơn, mình đen và đầu to. Cá
chuối đầu nhỏ, mình hơi vàng, đuôi có một chấm đen như cá rô. Đỗ bảo:
- Cá này mình cắm cần, mỗi hôm được vài con. Người
ta không cấm vì giống này ăn thịt, chuyên ăn cá con. Nuôi trắm cỏ, chép vàng
người ta phải trừ bỏ nó.
Câu chuyện lan man sang chuyện làm ăn. Đỗ bảo:
- Ông gặp tôi là may đấy. Trông chờ, nhờ vả vào anh
em nhà lúc này với ông quả là khó. Nếu ông có tiền đồ, danh vọng, chức vị mấy
nơi ấy người ta đã đến. Còn vừa hết nợ “cơm cân, áo số” mà nhờ vả không mấy ai
đoái hoài. Không gì bằng tự mình cứu lấy mình. Tớ sẽ có cách giúp cậu trong lúc
này. Tất nhiên là cho cậu cái cần câu chứ không phải cho con cá. Vì rằng tiền bạc
mình cũng chẳng có...
Xong bữa, hai người sang bàn uống nước. Đỗ vào nhà lấy
ra một hộp gỗ nhỏ và một vài thứ để trong tay nải. Đó là một hộp cuộn thuốc lá
và đồ nghề làm kẹo.
- Hồi mình về không có những thứ này thì chết hẳn. Cũng như cậu bây giờ,
còn chưa biết xoay sở thế nào để có cuộc sống ổn định. Những trò lặt vặt này đã
cứu mình. Con mọt sách như cậu chắc nhớ chuyện ông Thị trưởng Ma-đơ-len trong
" Những người khốn khổ " chứ. Thì đây, chính là cái vòng đeo tai ông ấy nghĩ ra cách làm để trang điểm cho các cô gái Pháp để kiếm tiền...
" Những người khốn khổ " chứ. Thì đây, chính là cái vòng đeo tai ông ấy nghĩ ra cách làm để trang điểm cho các cô gái Pháp để kiếm tiền...
Đỗ cười ngất, lát sau mới tiếp:
- Cậu biết mình đã làm gì không? Mình đóng cái hộp
cuộn thuốc này và nấu mạch nha làm kẹo. Thuốc lá mình đóng trăm một, kẹo thì
gói từng chiếc cho vào túi pôtilen. Khắp từ chân núi Ba Vì sang bên kia Tam Đảo, Vĩnh Phúc Yên là thị trường của
mình. Làm không đủ bán phải nhờ thêm người làm. Cả nước đâu đâu hàng hoá sinh
hoạt cũng thiếu, lúc nào cũng nóng như than chờ phân phối. Cái trò buôn thất
nghiệp mà lãi quan viên này giúp mình vượt qua những ngày đó.
Gã hỏi:
- Sao bây giờ ông không làm?
Đỗ đáp:
- Bây giờ vợ mình bận chân giữ trẻ ngoài lớp mẫu
giáo, mình hợp tác giao cho trông hồ cá. Làm vào lúc nào? Cậu đã từng ở Lạng
Sơn, cuộn thuốc chắc cậu không lạ. Còn kẹo thì mình sẽ hướng dẫn qua là làm được.
Mình sẽ ghi công thức đẩy đủ cho cậu làm. Tin rằng trên ấy thị trường bán được.
Chớ có dại quay về làm ảnh làm gì. Lời lãi chẳng đáng, lại nhiêu khê, có khi
nguy hiểm. Những thứ vật liệu này cũng dễ tìm. Cậu cứ về quanh chợ Đồng Xuân,
chỗ phố Thuốc Bắc nó bán đầy. Mua một lần làm hàng tháng. Hết lại về lấy.
Gã nghe thằng bạn nói có lý, Lại hợp với hoàn cảnh của
mình vào lúc này. Đúng là đi ngày đàng học sàng khôn. Nếu mình cứ ru rú trên rừng
chắc gì đã nghĩ ra. Ngày mai về qua Hà Nội mua thử một ít về làm xem sao. Biết
đâu nó chẳng là lối thoát vào lúc này. Hãy sống đã, rồi mọi việc sẽ tính sau. ý
định ghé vào thăm ông bạn nhà thơ đang sống ở Hà Nội xem ra chưa cần thiết. Thơ
ca vào lúc này giúp được gì cho gã đây, ngoài niềm an ủi? Trong lúc tâm tư đang
mệt mỏi này? Gã sẽ tìm ông ta vào một dịp khác, không phải là bây giờ.
Trước lúc đi ngủ Đỗ lại làm cho gã thêm một lần bất
ngờ. Anh ta lấy từ trong tủ ra một bọc giấy nhỏ. Giở ra bên trong là cái nhẫn
vàng một đồng cân. Đỗ đưa gã xem, gã nhận ra ngay đó là chiếc nhẫn của mình. Mặt
trong còn có chữ khắc chìm tên gã. Chiếc nhẫn này gã đã trao cho Vân ngày đầu
tiên làm đám cưới. Đã lâu gã đã quên nó rồi vì người vợ bạc tình đã chia tay gã
gần chục năm trời.
Hai người đã đến toà án một buổi sáng mùa đông.
Ngoài cửa phòng xử án dựng một chiếc xe đạp ngoại. Trên ghi đông treo lủng lẳng
hai con chim xanh bị bắn chết bởi đạn súng thể thao. ở mỏ chim máu còn đọng
thành giọt. Bữa đó cả hai đã nhận giấy trích lục ly hôn...
Nhưng làm sao cái nhẫn lại có mặt ở đây?
Đỗ kể:
- Con bé con nhà mình cháu bị còi xương. Mình đã bắt
cho nó bao nhiêu cóc mang về làm ruốc cho nó ăn. Xương thì tán bột cho nó uống.
Hồi hôm thấy bà Đởm bưng cái Thúng. Bên trong là một con cóc to đùng. Chưa bao
giờ nghe ai nói lại có con cóc to như thế. Bà ta bảo mang đổ ra sông. Mình bèn
xin lại, kể ra thì cũng ghê ghê sự kỳ quái của nó, nhưng mình đánh liều, lột da
làm thịt. Thịt nó trắng như thịt gà. Kỳ lạ hơn trong dạ dày của nó có vật tròn
tròn cưng cứng. Mình moi ra không ngờ là cái nhẫn này... Bây giờ thì mình tạm
đoán thế này: Vợ cậu đã trao cho anh chàng bị đâm chết năm ấy cái nhẫn này. Lão
Đởm nhặt được mang về tủ cất. Chiếc nhẫn do sơ ý thế nào đó, rơi ra và cóc ta đớp
phải. Con cóc bị đột biến mà trở nên kỳ quái... Suy diễn như vậy có được không?
Gã như ma ám, bần thần cả người.
Đỗ vội lảng sang chuyện khác:
- Hoặc là nó diễn biến khác một cách nào đó, nhưng thôi
mặc xác, bận tâm làm gì. Theo tớ cậu nên giữ nó làm kỷ niệm. Biết đâu châu về hợp
phố, nên chuỵên gì chăng?
Gã nói hắn cứ giữ lấy mà dùng. Một chỉ vàng tuy
không lớn, những cũng là tiền.
Đỗ bảo:
- Nếu không phải của mày lại là chuyện khác. Vả lại tao cũng nghiệm ra rằng:
Tham thứ không phải của mình thì trời không dung. Kể cả tao có nghèo, tao cũng
không ham kia mà.
Gã buộc phải cầm lấy. Từ lúc có chiếc nhẫn bỏ vào túi áo, gã cứ thấy
chênh chao thế nào. Giấc ngủ đêm đó chập chờn không yên. Gã thức giấc vài dảo.
Ngoài vườn gió bấc lùa như có người dượt đuổi nhau qua những bụi chuối. Làng
xóm chìm trong đêm. Tiếng gọi đò văng vẳng phía bờ sông nghe không thực. Như thể
tự nơi xa lắm chứ không phải trên mặt đất này.
Ngày mai gã sẽ trở về với một công việc khác, ngoài
dự định
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét