Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Thăm thẳm đường về ( 3 ) TT


 Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh người đi xa về?

3.
 
G
ã đã gặp may. Người ta bảo rằng những kẻ vừa ở chốn lao tù ra đời thường gặp may lúc đầu như thế. Kiểu như nắng mãi rồi phải có lúc gặp trời mưa. Nắng mãi, mưa mãi những người như gã khó lòng tồn tại. Mà cũng chẳng riêng những người như gã. Phần đông nhân gian cũng đều như vậy cả. Vận, hạn của kiếp người giống như bốn mùa liên tục đổi thay. Phúc hoạ luôn như ngày đêm chuyển đổi. Không như thế lúc này gã không biết xoay sở thế nào để sống.
Mọi khi ở nhà chỉ có hai bà cháu, tằn tiện chắt bóp qua ngày, lượm lúa, quả ngô nhặt được trên đồng cũng đủ rau cháo ngày hai bữa. Nuôi thêm con lợn con gà dành dụm chút quà mọn mỗi lần thăm gã. Còn thêm phần bát gạo, nắm rau cho ông cậu đông miệng ăn. Sống nơi đồng rừng đất đai rộng rãi cho tới giờ ông vẫn chưa thoát cảnh nghèo. Vẫn thường xuyên đứt bữa. Tiếng là nông dân ông vẵn chưa thạo cày bừa, tính toán làm ăn như người trên trời rơi xuống. Cả đời làm cán bộ, chỉ lo việc lớn. Toàn là chủ trương, đường lối, chính sách, tiền nong. Ông không giỏi làm những công việc cụ thể như trồng trọt, chăn nuôi để kiếm ra đồng tiền. Bà vợ chỉ được mỗi cái hiền lành, lành quá hoá độn, không biết trao trác, buôn bán kiếm đồng mua gạo. Người ta lên rừng, dân khai hoang chỉ đôi năm là dễ chịu. Ông bà lúc nào cũng như vừa mới lên. Lúc nào cũng sơ sài tạm bợ. Xoay đằng trước ra đằng sau mỗi ngày mỗi bế tắc.
Người em trai những ngày anh chưa về ở riêng. Ngôi nhà xin mẹ dỡ về dựng mãi cuối thôn. Thôn đồng rừng xa hàng cây số. Hai vợ chồng hăm hở làm ăn. Chồng xuất ngũ về hưởng một tý chính sách nên cũng đỡ. Nhưng trời chưa cho khá. Lũ con trứng gà trứng vịt chưa biết trông nhà. Bố mẹ đi lên nương, chúng ở nhà nghịch  lửa. Mới tháng trước hoả hoạn thiêu trụi hết nhà cửa, giống má, quần áo chỉ còn một bộ mặc trên người. Còn đang lo đến từng nhà trong thôn xin cây tre về làm lại chỗ ăn chỗ ở.
Nếu có khá cũng chưa chắc giúp đỡ được gì. Thằng chồng thì im ỉm vẻ hiền lành. Con vợ tác quái, mồm nhọn như mũi dùi, luôn nỉ non với chồng về chuyện con đẻ, con nuôi. Gây hiềm khích với nhà chồng. Lòng thương người của bà mẹ nuôi trở thành mối oán giận.
Chỉ tiếp xúc vài lần gã nhận ra điều ấy ngay. Anh em sống với nhau cả thời thơ bé quý hoá nhau không khác gì ruột thịt. Người ngoài không ai biết ai là con đẻ ai là con nuôi. Nợ từ kiếp nào, kiếp này bà mẹ quý nó còn có phần hơn con đẻ của mình. Bà thương nó xấu số thiệt phận từ lúc chào đời. Bố mẹ đứt ruột đẻ ra không thương tiếc. Bà thiếu sót với nó lại sợ miệng tiếng bạc đãi với đứa con không phải mình sinh ra. Sợ nó tủi thân.
Vào cái thời mà ruột thịt còn không thương được nhau thì trách gì kẻ khác máu tanh lòng. Gã cay đắng nhận ra như vậy.
Thực ra thì trời không bỏ ai. Cho dù có lúc trời éo le trăm nỗi. Như đã nói gã đã gặp may. Không phải là nhặt được tiền ai đó đánh rơi. Cũng không phải có mạnh thường quân nào cưu mang giúp đỡ. Gã đã gặp một cơ hội. Với người khác có thể chả là gì, chỉ là những khúc củi trên rừng. Nhưng với gã, gã mừng hết đỗi, như vớ được vàng. Cả một vạt rừng mỡ, bồ đề miên man trước nhà người ta khai thác để trồng lứa cây mới. Gỗ cây gã chẳng hy vọng gì, kể cả việc đốn cây để kiếm đồng công. Nhưng cành ngọn là thứ người ta bỏ lại. Đó là món hời cho những người dân trong vùng trong đó có gã.
Không biết khi xưa đức phật ngồi dước gốc cây bồ đề tâm trạng của người buồn vui thế nào? gã ngồi bên gốc cây bồ đề với tâm trạng phấn khích vô cùng. Những gốc cây bồ đề cao gần một thước do sự ngay lưng của công nhân lâm nghiệp. Người ta đã cắt cao như thế để đỡ phải cúi lưng và dễ chạy kia cây đổ. Chính những gốc cây này về sau là nguồn sống của những người làm nghề Thạch Sanh, quanh năm sống bằng nghề kiếm củi.
Người ta chỉ cắt phần thân thẳng, tròn đều, dùng trâu kéo ra bến gỗ. Phần ngọn và cành bỏ lại.
Gã thấy bố con ông Chỉ xúm xít dùng cưa, dùng dao cắt ngọn, chặt cành. Cả những người trong xóm cùng kéo nhau lên đồi, cười nói vang động cả khu rừng.
Mẹ gã bảo:
- Lâm trường khai thác. Người ta cho thu ngọn và cành. Con mới về còn yếu, không thì cũng kiếm được chút tiền.
Gã nói:
- Sợ người ta không cho, chứ con ốm đau gì đâu.
Gã tìm khắp nhà, có độc con dao quắm. Con dao bỏ lâu lưỡi mòn chỉ nhỏ bằng hai ngón tay. Gã mài một lúc, lưỡi nó sáng lên, nhưng con dao nhẹ quá, chặt cây không phải lối. Hì hục mãi, gã mới chặt được đoạn ngọn. Con dao nhẹ chủ yếu phải dùng sức, cũng chẳng ăn thua là mấy. Lưỡi dao cứ nhảy tâng tâng. Bàn tay phồng rộp mới chặt được vài đoạn. Giá mà có con dao sắc cầm đằm một tay chút thì đỡ vất vả. Chầy chật như thế từ sáng tời trưa, gã cũng chặt, bó lại và chuyển được hơn chục bó củi. Được như thế là vì từ chỗ khai thác về tới nhà chỉ vài trăm mét. Bữa cơm trưa hôm ấy gã ăn rất ngon miệng mặc dù chẳng có gì ngoài canh rau bí hái trong vườn. Thấy con làm vất vả bà mẹ đập vào đấy thêm quả trứng.
Tự dưng gã thấy lâng lâng bởi những ý nghĩ lan man. Ai đó nói rằng: " Lao động làm cho con người tư do. Tư tưởng làm cho họ trở thành cao quý ". Điều đó quá đúng với hoàn cảnh của gã hiện thời. Chẳng sung sướng gì ngày hai buổi leo đồi, nhưng ít nhất mỗi ngày gã cũng kiếm được yến gạo. Lo được cái ăn cho cả nhà. Con gái gã không phải có hôm nhịn đói đến trường. Gã sẽ mua sắm được vài thứ. Trước mắt cái gì cũng thiếu, gian cửa gian nhà là thứ to tát chưa làm được đã đành. ít nhất phải có cái giường nằm, cái chăn cái màn tàm tạm. Hôm hai mẹ con Tâm đi, cô mang theo luôn cái giường lên nhà tập thể. Mẹ gã bảo đó là cái giường cô ấy mua mang về. Cũng không đẹp đẽ gì, chỉ là thứ đóng bằng gỗ xoan, để mộc. Nhà còn độc nhất cái giường thì hai bà cháu nằm. Nom nó cũng xộc xệch. Cứ vài hôm bà cụ lại dùng hòn đá đâp mấy cái cho nó khít mộng. Chắc cũng không được lâu.
Tạm thời gã trải chiếu nằm trên hai tấm ván canh của ông cụ hàng xóm cho mượn. Ông cụ Mận cùng cảnh gã sống nuôi con. Bà cụ mất đã lâu. Anh con trai đang học trường nội trú ngoài tỉnh. Ông cụ có mấy con bò thỉnh thoảng chăn gần nhà gã. Cụ thường ghé vào khi cho cái rổ mới đan, khi nắm lạt hồi gã vắng nhà.
Người đời không phải ai cũng vô tình cả. Suốt quãng đời gian truân gã gặp không ít những người tốt mà cử chỉ của họ khiến gã rưng rưng.
Gã đang chuẩn bị đi làm buổi chiều thì ông cụ lại đến. Ông nhìn con dao gã đeo bên người có vẻ ái ngại. Ông bảo:
- Hẵng còn sớm. Cậu đợi tôi một chút. Bên nhà có cái cưa tôi không dùng đến. Để tôi về lấy cho. Dao dựa thế này thì làm ăn gì.
Trời vẫn còn sớm thật. Mùa này thôi nắng sớm, nhưng vẫn chưa thấy ai lên đồi. Gã bảo:
- Ông cho mượn để con theo sang, ai lại để ông đi đi lại lại vất vả.
Ông lão cười đỏ lợi:
- Sang tôi chơi chút cũng được. Tiện thể cầm mấy quả mướp về cho bà lão nấu canh.
Gã thầm khâm phục ông cụ là người làm ăn cơ chỉ. Chỉ có một mình mà nhà cửa ngăn nắp. Rào rậu kín đáo. Trong vườn cây cối tươi tốt, ngay hàng thẳng lối. Thì ra dù cảnh ngộ có éo le đến đâu nếu người ta chịu khó vẫn sắp xếp được cuộc sống căn cơ. Một ông lão gần bảy mươi tuổi mà vẫn sống ung dung còn có tiền nuôi con ăn học. ông cụ cũng là người muộn đường vợ con. Chỉ duy nhất người con chưa đến hai mươi tuổi. Có phải vì thế mà ông có sự đồng cảm với mình không? Có thêm cây của buổi chiều hôm đó gã làm việc kết quả hơn. Gã bỏ qua đám cành nhỏ, chọn những khúc ngọn cắt từng chữa một. Những khúc bồ đề cắt nhanh và khi chuyển nhẹ hơn nhưng không bằng ngọn mỡ. Cụ Mận bảo chịu khó vác nặng một chút nhưng mang về thị xã bán được tiền hơn. Người ta tận dụng làm đồ lặt vặt. Bồ đề thì chỉ để làm củi. Ông cụ là người ở đây lâu năm kinh nghiệm ông cụ biết. ông cũng nói thật lòng. Không phải như bố con lão Chỉ Đen. Bề ngoài thì thế nhưng lão khoảnh lắm. Lão gợi ý cho anh chỉ nên lấy bồ đề khi đóng mảng không bị chìm như anh mỡ tươi. Không, chìm gã không ngại. Gã đã nhìn thấp thoáng những bụi nứa dọc khe suối. Khai thác đại trà thế này, nứa không ai giữ. Đằng nào cũng phải phát quang hết rồi mới trồng mới được. Gã sẽ đóng thành mảng, nứa cụm thành hai bó. Sẽ có một cái mảng nổi không sợ chìm. Cuối chiều, áo quần gã ướt đẫm như vừa gặp mưa, mồ hôi rịn cả chân tóc. Thấm mệt, gã ngồi nghỉ nhìn lơ đãng ra ngoài mặt sông. Giữa dòng một mũi bè dài hàng trăm mét đang xuôi dòng. Những đạy gỗ hình chữ nhật nối tiếp nhau bằng những sợi song uốn theo dòng nước. Đầu và cuối bè có những người đàn ông cởi trần, đánh độc quần đùi đang ra sức chống chèo. Chỉ cần bè đi lệch luồng một chút có thể mắc cạn, hoặc đứt đoạn vài đạy. Lại phải dừng lại đóng gói mất hàng tuần. Vì thế họ luôn mồm inh ỏi gọi nhau mồng, lái sau cho phối hợp. Không có chuyện ông chằng bà chuộc trong nghề sông nước. Gã thầm nghĩ: Trời lặng, sóng yên mà người ta còn hò hét như thế. Khi lên thác xuống gềnh thì sẽ ra sao nhỉ? Lại nhỡ không may giông gió, mưa bão? Chả thế mà có câu ca:
" Thứ nhất là mồ côi cha
Thứ nhì gánh vã thứ ba Sơn Tràng "
Cái nghề Sơn Tràng luôn gắn liền với sông nước. Trong ba nỗi cơ cực nhất ở đời thì cái thứ nhất gã đã từng trải qua. Cái thứ nhì cũng từng nếm trải những năm trong tù. Còn cái thứ ba là cái vài ngày nữa thôi gã sẽ được biết phong vị của nó. Thoáng một chút thương mình. Gã vội vàng đứng dậy. Mẹ gã có lần nhắc một trong mười bốn điều dăn của phật: " Đáng sợ lớn nhất của đời người là tuyệt vọng " gã biết bà nhớ không chính xác lắm. Đúng ra là phá sản lớn nhất chứ không phải là đáng sợ lớn nhất. Nhưng mà ý nghĩa của nó có khác gì nhau? Gã biết vào lúc này chỉ cần một chút chán nản là không có cơ gượng lại. Con bè kia có thể sơ sểnh một chút mắc cạn, nhưng người ta còn có thì giờ để đóng lại, để tiếp tục xuôi dòng. Còn với gã ở tuổi này còn vấp váp lần nữa sẽ khó lòng đứng dậy. Dù khổ tới đâu cũng không được mềm lòng. Khôi hài một chút là " Cứ cứng ". Công việc gã đang làm, xét cho cùng chỉ là công việc đơn giản. Chủ yếu là dùng cơ bắp, chịu khó và nhẫn nại cộng với chút kinh nghiệm vặt vãnh.
Gã là lính mới trong nghề sông nước tới đây. Mấy chục cây số đường sông với bao hòn, vật không đơn giản. Nếu thông thuộc thì chỉ từ sáng tới chiều là về tới bến ngoài thị xã. Đóng cón cho chắc, đi theo đúng luồng, xuôi dòng nước chảy có thể coi là đi chơi đối với người thuộc từng bờ bãi hai bên sông. Rẽ đường thuỷ không phải tới nơi rồi mới tránh. Phải biết bỏ sát bờ bên này để tránh bên kia cả cây số mới qua trót lọt. Qua thác nước phải đánh mũi bè cho thật chuẩn. Nếu không sẽ bị chui vào hàm ếch hoặc mắc ngõng cối xay, ra không ra được, vào không vào được. Cái bè sẽ xoay tít như chong chóng rồi bị xé tung ra từng mảng. Lớ sớ còn nguy tới tính mạng. Mùa này lũ không hung dữ, nhưng cũng không phải vì thế mà coi thường. Lâu lâu lại có vụ đắm thuyền, lật mảng cướp đi mạng sống của người đi sông.
Nhà gã ở gần sông gã biết, chẳng có đêm nào không nghe tiếng người đi bè la hét, chửi bới nhau ngoài bến. đúng là cái nghề thuận dòng xuôi gió thì chén chú chén anh. Khi lên thác xuống gềnh thì của anh, của chú... Đấy mới chỉ là qua một bãi nổi giữa dòng. Mắc cạn vào còn xeo mồng, chống đẩy ra được. Không phải vật mõm xấu hay hòn nanh sói. Không lành nghề, lại nhát gan thì chớ nghĩ đến chuyện mượn đường sông nước kiếm ăn. Đành là đắp chăn chờ thời hoạ có vận may nào chăng, hay chấp nhận bới đất lật cỏ, lam lũ rau cháo qua ngày.
Không. Gã không chấp nhận cuộc sống như thế. Dù khó mấy cũng phải vượt qua. Có qua được đận này mới mong sáng sủa hơn ở những ngày sau. Giống như con tốt trong bàn cờ bắt buộc phải sang hà nếu không muốn đứng yên chờ chết. Ông cụ Mận là Người chu đáo, ân cần. Kinh nghiệm đi sông nước có bao nhiêu cụ chỉ bảo cho gã cặn kẽ. Những năm còn khoẻ cụ từng đi bè xuôi về mãi Hà Nam, Phủ Lý. Nhưng mà nó chỉ là kinh nghiệm trên lời nói. Thực tế nó khác hơn nhiều. Cụ bảo vậy, ông cụ lấy làm tiếc là giờ sức yếu không đi được. Vừa thêm chút tiền chuẩn bị cưới vợ cho anh con trai, vừa là ông con đi với nhau vài chuyến cho vui. Khi xưa đi bè lậu, cứ nhằm những đêm tối trời mà đi. Chờ lúc canh khuya mới dám qua trạm. Không những Nhà nước thu mất bè mà có khi còn bắt cả người nếu họ vớ được. Đi đêm trên sông nhận ra luồng đường bằng đôi tai và nhớ độ đường. Nghe tiếng nước réo ào ào là biết có hòn ở phía trước. Quãng nào tĩnh lặng là chỗ nước sâu, bè đi chậm phải cố mà đánh xeo cho kịp thời gian qua trạm.
Ông bảo đi bây giờ như đi chơi. Ban ngày ban mặt không lo gì vật, bãi. Vài đám củi cành không sợ kiểm lâm vày vò. Bất quá qua trạm biếu con gà chai rượu, vài bao thuốc lá là xong. Đất có thổ công, sông có hà bá chuyện ấy cũng là thường chẳng thời nào không thế. Ông khuyên gã nên theo lão Chỉ một chuyến cho biết đường. Lão ấy khoảnh, chẳng giúp ai bao giờ những có tính ưa nịnh, thích được người ta tâng bốc. Vừa ý, có khi lão còn moi cả ruột cả gan, chẳng tiếc thứ gì. Chẳng thế mà có gã thợ xẻ đến cứ nhận bố bố con con. Lão sắm cho cả xe đạp. Cái thằng mất dạy ấy chơi cho con gái lão phềnh bụng rồi mất tăm. Cái nhà lá con con dựng ở góc vườn là làm cho đứa con gái ấy ở riêng. Mấy tay kiểm lâm ở trạm thay nhau vào ra nơi ấy. Chính vì thế lão là đầu nậu lâm sản trong vùng. Không có cánh đi bè nào tới đây mà không qua lão. Họ đặt tiền cho lão mua hàng, nhờ lão lo thủ tục giấy tờ. Lão già thô kệch, chữ nghĩa sơ sài trở thành một đầu mối quan trọng. Nhưng gã cảm thấy ngại. Tâng bốc và nịnh bợ là thứ gã không quen làm. Không phải vì sĩ diện, đơn giản là gã không ưa, gã cảm thấy như vậy có cái gì nhục nhã, tanh tưởi thế nào ấy. Tối nay gã sẽ sang nhà lão. Gã sẽ không nịnh hót, không thổi phồng lão lên như có người từng làm. Gã chỉ thực thà xin đi theo lão một chuyến. Tất nhiên của ai người ấy lo. Gã chỉ xin đi theo lão cách một quãng phía sau, gã sẽ để ý lão làm thế nào sẽ làm theo như thế. Như thể theo người lội sông để biết chỗ nào nông chỗ nào sâu.

ó
ó   ó

Nhà lão Chỉ có thằng con trai út chột một bên mắt rất giỏi mò tôm cá. Nó chột bên mắt ấy cũng do từ tôm cá mà ra. Cái năm nó mười ba mười bốn tuổi chơi với trẻ trong xóm. Mấy đứa rủ nhau đi tìm nan hoa xe đạp gẫy về mài nhọn làm tên. Thêm mẩu gỗ hình khẩu súng lục và đoạn dây chun chúng làm súng bắn tôm. Trưa nắng tôm ra phơi mình bên khe đá dưới bờ sông chúng bắn được kha khá. Thường được những con tôm càng to tướng. Chúng chậm chạp lại dễ trúng tên.
Rửng mỡ thế nào có đứa lấy súng trêu nhau. Chuyện trẻ con đùa hoá thật. Sợi giây cao su ướt nước cướp cò. Cái nan hoa xe đạp nhọn hoắt vút vào bên mắt con lão. Thằng bé giãy dụa ôm mặt. Lão phải thuê thuyền đưa con về bệnh viện tỉnh mới lấy mũi tên ra được. Nó ra cũng tròng một bên mắt. Khi ấy còn chưa có luật bảo vệ trẻ em và nhi đồng. Nhà có con gây nên tai nạn đền cho lão con trâu mộng và đôi lời xin lỗi. Cũng đành phải chịu chứ làm sao được. Thịt người là thứ không ăn được, có đánh có giết con người ta cũng không lấy lại con mắt cho con mình. Bỏ tù con người ta nó chưa tới tuổi thành niên. Cũng là trò trẻ con vô tình không phải cố ý. Lão hận cả nhà nó cho tới tận bây giờ.
Từ ngày thằng Tồ hỏng một bên mắt, hình như nó sát cá hơn. Nó thường câu được những con cá chiên tay xách đuôi quyệt chấm đất. Giọ tôm cái nào nhấc khỏi mặt nước ít nhất cũng ba lạng tôm. Toàn những con nần nẫn như ngón tay tươi rói.
Mấy năm trước lão còn cho đem bán. Từ năm ngoái trở lại đây lão để nhà dùng. Ai thiếu tiền, bòn nhặt từng đồng chứ lão không thiếu. Con kiếm được bao nhiêu lão cho thả vào vại nước. Vừa để ăn, vừa tiếp khách đỡ tốn tiền. Mâm rượu bưng lên thấy cá tươi có người hỏi lão cá ao nhà hay sao mà không phải đi chợ vẫn có ngay? Lão phởn nửa đùa, nửa thật:
- ừ ao nhà. Ao nhà này rộng mãi tới Sơn Tây, Hà Nội...
Cuộc rượu hôm nay thì vẫn là những người bạn cũ. Vẫn là Khánh kiểm lâm, Sinh béo cửa hàng bách hoá và Hoằng mặt bánh dầy.
Họ thành một nhóm giống như sau này gọi là Công ty Cổ phần. Góp vốn chung nhau làm ăn, đợt lâm trường khai thác gỗ là một cơ hội. Họ không xuôi mỡ, bồ đề là những thứ rẻ tiền, ít nhất phải là gỗ từ loại ba trở lên. Đánh loại gỗ người ta đánh loại xuôi chứ không đánh ngược như xếp loại thương binh. So sánh thế này kể ra hơi khập khiễng, nhưng nói thế để biết giá trị gỗ. Chuyến hàng này giấy tờ Khánh chịu trách nhiệm lo. Hàng ông Chỉ đi đặt. Sau đó Hoằng và ông Chỉ sắp xếp xuôi bè. Hình thức bề ngoài là mảng củi tận thu lâm sản phụ. Thực chất là găm đinh thối, vảy ốc dưới gầm bè. Vì thế củi cành bố con ông Chỉ đi lấy chỉ để làm " Cốt " cho dễ thông đồng bén giọt. Khi gã sang tới nơi cuộc rượu chưa tàn. Khác với mọi hôm thức nhắm hôm nay còn có thịt trâu nướng. Nhà lão Chỉ hơn người trong vùng ở điểm này. Món thịt trâu nướng lão học được ở người Thái Đen ở Sơn La, khi lão còn là lính com măng đô nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Vùng này người ta thịt trâu thịt chó không mấy người biết ăn. Phải sang thế kỷ sau nó mới là món đặc sản. Phần thì gia giảm không đủ, thiếu gia vị, phần con trâu gần gũi với mình nên người tra không nỡ ăn. Thịt trâu lúc này ở nhiều nơi trong vùng rẻ hơn thịt lợn. Kể cả thịt lợn giá cả không giống mọi nơi. Người ta ưa mỡ hơn nạc. Giá thịt lợn bao giờ cũng khác hơn. Cũng dễ hiểu vì sao như vậy. Một cân thịt nạc ăn được một bữa. Trong khi một cân thịt mỡ có thế nấu rau được nhiều ngày. Giá cả đôi khi nó phụ thuộc vào mức độ cần thiết đến mức nào, chứ không phụ thuộc vào chất lượng của hàng hoá.
            Lão Chỉ ướp tẩm gia vị công phu, dùng than soan quạt thật hồng. Thịt trâu vừa thơm vừa bùi lại có vị đậm rất đặc biệt. Một đĩa thịt trâu đắp có ngọn dùng với rau thơm đã gần hết. Gỏi tôm quấn hành vẫn còn quá nửa đĩa to. Món nhắm không cứ thức ăn ngon. Nhiều khi hấp dẫn bởi lạ miệng, hoặc ngồi với ai. Không còn là thời có thứ ngon phải ăn giấu ăn vụng như nhiều năm trước. Sợ người ta để ý theo dõi rồi kết luận phần tử này nọ. Nhưng vẫn phải ý tứ đừng chọc vào mắt thiên hạ. Thói đời xưa nay nghèo thì người ta kinh miệt. Kha khá một chút người ta ghen tức. Người ta soi mói việc làm ăn. Lão Chỉ biết cả những điều ấy. Nhưng lão không ngại, cánh vế của lão đủ mạnh " Không ngại bố con thằng nào " kinh tế lão tự lực, tự cường không lệ thuộc ai. Lão là hòn đất to trong làng, ngoài xã không có địch thủ. Nhưng từ khi có gã hàng xóm về lão phải xét lại. Tốt xấu thế nào chưa biết. Nhưng đã có những thằng ra tù không vừa. Lúc đầu đi tù về tội đánh bạc án phạt chỉ một năm. Vốn trước ở nhà là kẻ nhút nhát, mắc mỗi tội cờ bạc, còn biết đường ăn ở. Còn có vẻ chất phác, con người ruộng đồng. ở tù chưa được một năm vì được giảm mấy tháng. Khi ra trở thành con người khác, xăm trổ đầy người, ăn nói rất giọng côn đồ. Trong người lúc nào cũng thủ con dao nhọn.
            Thằng ấy người cùng xã này nhà ở bến Nhãn. Từ khi hắn về lôi kéo bọn tứ chiếng ở đâu thỉnh thoảng tụ họp cả tuần. Có cả hai đứa con gái tóc cắt ngắn như đàn ông, hút thuốc lá ám đen mấy đầu ngón tay. Chúng làm những gì chính quyền biết cả mà không trị được. Đám này thành tinh, ranh ma như cáo. Chúng làm cho nhiều nhà mất ăn mất ngủ. Xưa trâu thả trên nương chỉ lâu lâu người nhà có trâu mới đi xem, không bao giờ mất. Nhưng giờ chúng làm cách nào đưa về xuôi bán mà không ai biết. Có những bè gỗ ngoài sông, qua đêm mất hẳn vài đậy. Biết là những việc ấy chúng làm nhưng không điều tra được. Đụng chạm đến chúng, sẽ bị triệt kinh tế bằng mọi cách. Nương ngô đang trổ cờ, phun râu bị phạt ngang cây, ao cá thả bị ruốc lá, cá chết phơi trắng bụng...
            Chúng trở thành mối lo của nhiều người.
Gã hàng xóm mới về liệu có trở thành người như thế? Gã chẳng từ cái lò của những kẻ vô lại đó mà ra đó sao? Lão nhìn bề ngoài xem chừng gã không có vẻ là loại như thế. Nhưng biết đâu được trong bụng nó thế nào? Nó lại là đứa có học. Người ta bảo rằng bọn lưu manh có học còn nguy hiểm hơn bọn vô học nhiều. Kẻ dốt nát hành động hồ đồ, dễ đối phó. Đứa có đầu óc, không thể xem thường. Tốt nhất là lôi kéo nó làm tay chân của mình. Dù sao hàng xóm láng giềng cũng là phên dậu. Tỏ ra thân thiện với nó cái lợi nhiều hơn là hại. Vợ nó vừa bỏ đi, nếu nó ưng đứa con gái nhỡ nhàng nhà mình thì vun cho nó. Nó sẽ thành cánh tay phải của mình để trị những đứa cứng đầu trong lúc xã hội còn nhiều lộn xộn. Chiến tranh còn dập rình ở ngoài biên giới, an ninh nhiều vùng bị xáo trộn. Lúc này ai có thân thì phải lo thân, Nhà nước còn bận nhiều việc lớn hơn ở bên ngoài.
Chỉ bằng bản năng và kinh nghiệm sống lão cảm nhận được không khí của thời lão đương tồn tại, dự cảm phần nào những gì đang tới. Lão chưa kịp bày tỏ với gã như thế nào thì hôm nay gã vác xác tới. Đỡ cho lão cái thể diện. Nghiêng xuống gã một chút, lão hơi lăn tăn trong lòng.
Gã không ngờ được lão lôi kéo ngồi vào mâm một cách quá nhiệt tình. Đã lâu lắm rồi không ai ân cần với gã như thế. Bởi vì gã chẳng có gì đáng để người khác quan tâm. Trước cử chỉ ấy gã có phần cảm động. Nhưng mà ăn có mời, làm có khiến. Không thể tự nhiện đột ngột ghé vào. Gã từ chối không được. Cuối cùng gã buộc lòng ngồi vào mâm. Ba vị khách chỉ nhìn gã không nói gì. Nhưng gã cảm nhận được cái nhìn của họ, cái nhìn từ trên cao nhìn xuống. Điều này có phần làm gã tự ái, tuy không biểu hiện ra mặt. Gã tới đây không phải vì bữa cơm. Cũng không vì các vị này. Thật khó chịu với cái mặt của thằng cha Hoằng. Kiểu mặt không có nét rõ rệt. Cái gì cũng bầu bầu, bèn bẹt, lờ mờ. ẩn trong cái vẻ bề ngoài đó đôi lúc loé lên nét tự phụ, khôn khéo đến khó tin cậy. Phải như cách đây mấy năm thế nào gã cũng kiếm cớ tẩn cho hắn một trận. Hắn nợ gã một món danh dự, làm cho gã tổn thương mà chưa bị trừng bị phạt. Đây là hạng người có đồng tiền trong tay coi người khác luôn dưới tầm mắt. Có lẽ trong đời hắn chưa có lần nào được một bài học nên chưa biết sợ là thế nào. Người ta không giận cái người ta khinh. Gã nghĩ vậy và chỉ thấy hận hắn đã xúc phạm tới mình. Ngay sau buổi Tâm mang con lên tập thể ở, hắn đã đi lại tự nhiên không hề giấu diếm. Khi nãy thấy gã xuất hiện hắn hơi chút chột da. Không thấy gã có biểu hiện gì hắn làm bộ vô tâm không để ý. Lão Chỉ lại xếp hai người ngồi gần nhau, gã phải cố nén không để lộ tình cảm của mình. Hoằng là kẻ lõi đời, y sợ cuối cuộc rượu không hay nên một lúc sau xin phép có việc bận phải đi ngay. Khác hẳn mọi ngày y đến, có khi còn ngủ lại. Mấy người kia hiểu ý cũng không giữ chân y lại. Tự dung không khí bữa cơm trầm xuống. Gã cũng nâng lên hạ xuống vài lượt chỉ nhấm chút ít chứ không cạn chén, nói Thác là vừa cơm xong, sang bàn ngồi uống nước. Bây giờ gã mới để ý đến số đèn nhà lão Chỉ thắp hơi nhiều. Chưa có điện mà trong nhà ngoài sân chỗ nào cũng sáng. Thắp toàn đèn toạ đăng. Có khi một đêm nhà lão dùng dầu bằng nhà khác dùng cả tháng.
Gã nghĩ ý định của mình chắc thế nào cũng được lão Chỉ chấp nhận, thôi, cũng là may.
ó
ó   ó

Nhổ cày thả cho bè xuôi vào lúc nửa đêm, chỉ sau buổi tiếng thơ trên đài vài tiếng đồng hồ. Không phải là đi giấu đi vụng, mà chủ yếu là vì độ đường. Làm sao để đến tầm quá trưa một chút là bè về đến bến tỉnh. Mảng củi của gã kịp bán cho người mua buôn ngoài thị xã. Lão Chỉ và mấy người nữa cũng dừng lại lên chợ mua thêm đồ ăn, thức uống. Họ còn đi nhiều canh nước nữa, về mãi dưới xuôi. Sơn Tây Việt Trị gì đó, qua rất nhiều trạm. Trạm nào tránh được thì cứ tránh. Nếu bị gọi vào cũng đủ giấy tờ, thủ tục. Hơn nữa toàn chỗ quen cả không đáng ngại. Làm luật với trạm chút tiền làm êm ngay.
Nhà nước lập các trạm kiểm soát trên sông là nhằm để bảo vệ rừng, không cho vận chuyển lâm sản trái phép. Nhưng rừng thì cứ như miếng da lừa bé lại dần dần. Cây rừng không giữ được. Tốn không biết bao nhiêu phương tiện, còn cả tiền lương một số đông cán bộ, nhân viên. Xem ra giữ được rừng lại là chuyện lực bất tòng tâm. Bảo tại người dân thiếu đói phá rừng cũng không hẳn đúng. Nếu không có những người như lão Chỉ hay tên Hoằng hoặc sự quản lý lỏng lẻo ở các trạm ngay từ đầu, thì về sau rừng không cạn kiệt.
Có đi cùng một chuyến với lão, gã mới thấy trong việc làm ăn họ bạo gan như thế nào. Gọi là lâm tặc cũng không có gì là sai. Thế mà trong con mắt người đời họ vẫn là những người đàng hoàng, đính chính. Người tốt, người lương thiện. Vậy mà gã đã làm gì để trong mắt họ mình là thứ công dân hạng hai, nhân cách không được tôn trọng? ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua. Gã tặc lưỡi. Có thế nó mới là cuộc đời. Sự trái khoáy ấy cũng chẳng là cái quái gì cả, nhiều điều mơ hồ, khuất tất hàng vạn lần hơn vẫn ngang nhiên tồn tại thì có làm sao? Lề luật giống như nhà văn nào nói: Nó không khác gì mạng nhện. Ruồi muỗi dính vào mất xác, còn bọ hung và cánh cam không sợ. Nó vù một cái đứt bung mà bay đi.
Gã có quan tâm đến cũng không đổi thay được gì. Để lộ ý nghĩ ấy ra chắc chắn lão Chỉ sẽ không ưa. Lão sẽ từ chối ngay việc cho gã đi cùng. Trong hoàn cảnh hiện tại gã quan tâm tới những điều ngoài thân phậm mình thì thật khôi hài. Tốt nhất là không nên nghĩ đến làm gì. Hãy sống đã.
Đêm cuối tháng trăng muộn. Đôi bờ im lìm trong tấm màn sương bàng bạc. Nghe rõ tiếng mái chèo khoát nước. Thanh vắng đến rợn người. Giờ này mọi người mọi vật xung quanh đang chìm trong giấc ngủ, chỉ còn bốn con người trên bè này là đang tỉnh táo, chốc chốc lại vốc nước lên mặt cho đỡ buồn ngủ. Xuôi một quãng nữa là tới vật, thử thách đầu tiên của chuyến đi.
Bốn người trên bè có một thanh niên to khoẻ đen trũi tên gọi là Ba Đẻn. Em cùng bố khác mẹ với Hoằng. Lão Chỉ vẫn cho con gái đi theo để nấu cơm đun nước trên bè. Về đến bến tỉnh gã đỗ lại bán xong củi rồi quay lên. Khi ấy lão sẽ đón thêm hai người thạo sông nước để đi đường dài. Dọc đường họ còn phải lo tránh cầu, phà, ca nô trên sông. Không có sức, không nhanh mắt, nhanh tay thì đừng nói chuyện thả bè. Giỏi nghề thì nhàn như đi chơi. Lóng ngóng mệt như đánh vật. Cố tránh mà cứ chui vào gầm sà lan như bỡn. Lão cũng có ý rủ gã xuôi về dưới bán cho được tiền. Lão hỏi:
- Đằng nào cũng một công khuân vác, bó buộc. Mang về cho bõ cái đấm cái đạp. Bán ở trên này nó trả như bèo không bõ.
Gã thành thực:
- Cháu cũng muốn, nhưng vừa về giấy tờ chưa kịp làm, đi xa không yên tâm.
Hành trình trên sông nước là thứ hành trình lặng lẽ, hạn chế việc phô trương. Nói ít, làm nhiều, đôi mắt và đôi tai phải thính nhạy, chăm chú. Một động tác bơi chèo thiếu chính xác có thể gây tai hoạ. Cái mảng của gã buộc nhùng nhằng ở phía sau nom có vẻ sơ sài nhưng lại rất có ý nghĩa cho việc seo bè. Người ta lái xe trên bộ thì hai bánh trước gắn bó với tay lái, rẽ trái rẽ phải tuỳ thuộc hai bánh này chuyển động như thế nào. Nhưng mũi bè chuyển về phía nào lại do mồng phía sau quyết định. Bởi nó còn có sự tương hợp với dòng nước chảy của sông. Phải dựa vào sức nước mà di chuyển chứ không phải động lực của bè. Đường bộ đối với xe cộ và đường sông đối với bè mảng là hai cách vận động khác hẳn nhau.
Gã và Ba Đẻn cùng ở trên cái mảng của gã. Ba Đẻn cởi trần mặc quần đùi, da đen bóng, bắp thịt nổi cuồn cuộn. Trăng cuối tháng lại về khuya nom y như bức tượng đúc bằng xi măng. Y hút thuốc lá liên tục, miết dầm cái nào ra cái ấy. Nước chỗ cây dầm của y cứ như từ dưới sông đùn lên. Gã lần đầu cầm chiếc dầm có phần lúng túng. Mấy lần bị nước cản gạt dầm khiến gã suýt lộn xuống sông. Gã để ý xem Ba Đẻn làm thế nào rồi làm theo. Thứ nhất phải chọn thế đứng chân cho chắc. Chân trái hơi chùng về phía trước. Chân phải lui rộng về phía sau. Thứ hai tay phải phải nắm chặt, tay trái hơi lỏng. Có thế đầu dầm mới miệt khoẻ, không tốn sức mà vẫn chèo được lâu. Nghề nào cũng có những bí quyết của nó, không thể cứ dùng sức mà được. Gã đã lấy lại tự tin, vỡ vạc được đôi chút trong nghề sông nước. Không khua ùm ùm mà chẳng xi chuyển tý ty như lúc ban đầu. Những bến sông lạ có những bụi tre đen thẳm giống như những cánh buồm to lớn trôi lại phía sau. Phía dưới Hạ Lưu một quầng trăng sáng lấp lánh như đám vảy vàng của con rồng hư ảo. Đám bè xuôi tới đâu quầng sáng xuôi tới đó. Một cuộc đuổi bắt không bao giờ gặp.
Đã nghe tiếng nước cộn ào ào phía trước. Tiếng lão Chỉ không vang nhưng chắc nịch:
- Bỏ vào bờ bên phải!
Bè uốn cong theo hình chữ S rồi trườn qua mép vật. Không đầy bước chân bên này là vật xoáy hum húm. Có những bụi cây to bị nhấn chìm một lúc lại chồi lên. Rồi lại nhấn chìm. Như có ai đó trong trò chơi ma quái với sức lực kỳ dị lôi lên, dìm xuống mọi vật không ngừng trong lòng miệng vực.
Đã qua lại nhiều lần, lão Chỉ thản nhiên như không. Bên cái lều che bằng mấy tàu lá cọ đã thấy ánh lửa loe loé, rồi tiếng rít điếu cày rõ mồn một.
Không ít bè đã sa vào vật Bà này. Một khi bị như vậy có khi bị giam chân ở đây hàng mấy ngày trời. Cho đến khi phải nhờ thuyền cột palăng trên bờ kéo ra. Đấy là bè to, đóng gói chắc chắn. còn mảng nhỏ sẽ bị dòng nước xé vụn ra, giập gẫy không còn hình thù. Người ngồi trên mảng sẽ bị dòng nước nhấn chìm không thấy tăm hơi ít ngày sau người ta sẽ tìm thấy những xác người, quần áo rách tươm, chương phềnh nổi lên ở một khúc sông phía hạ lưu không thể nhận ra hình hài. Một trăm bảy mươi ba thác gềnh từ thượng nguồn về đây còn là một trăm bảy mươi ba hung dữ, rùng rợn. Vật Bà chưa là gì. Nó mới chỉ là thử thách xoàng trên quãng sông này.
Gã nhớ lại một thời người ta nói: " Cải tạo thiên nhiên, bắt sông nhường bước, bắt núi cúi đầu ". Sức mạnh của con người trong nỗ lực cộng đồng là ghê gớm thật. Nhưng nói như trên thật hết sức chủ quan. Con người chỉ có thể tựa theo, hoặc chủ động đối phó chứ làm sao đánh bại được tự nhiên? Là chưa nói đến động đất, núi lửa, sóng thần... Con người liệu làm được gì để ngăn cản nó? Duy ý chí trong những trường hợp nào đó có thể khôi hài.
Đây cũng không phải lần đầu gã nhận ra điều đó. Đã có lần gã chứng kiến sức mạnh huỷ hoại của tự nhiên đối với đời sống con người. Gã còn nhớ trận lũ vào năm Tân Hợi ( 1971 ). Trận lũ mà trong ký ức nhiều người trải qua nó sẽ không bao giờ quên. Ngay cả mức tàn phá của B 52 vào năm sau đó ( 1972 ) cũng chưa là gì. Hậu quả để lại là những năm đói kém kéo dài, đời sống khủng hoảng, bất ổn mãi tới sau này. Biết đâu trong sự đổ vỡ của cuộc đời gã không nhiều thì ít khởi nguồn từ những bi kịch to lớn chung? Những năm chủ nghĩa thực dụng chỉ cao ngang cái ăn cái mặc. Tình yêu, nhân nghĩa, lý tưởng là những cái xa xôi được nhìn một cách méo mó với tâm trạng hoài nghi ngờ vực? Bài thơ của gã có câu: " Khi người ta còn ăn miếng cơm ngô. Người ta chẳng thiết gì âu yếm ". Bài thơ ấy gã chỉ viết chơi, không gửi đi in. Vậy mà bằng cách nào đó tới tay lớp trưởng lớp gã học. Mọi tai ương cũng từ đó nảy mầm.
Đến giờ gã còn nhớ như in cảnh đi mảng trên sông Thao xuôi về hà Nội. Năm đó, một chuyến bất đắc dĩ mà đi. Nước ngập mênh mông, không còn phân biết được đâu là dòng sông, đâu là ruộng đồng. Làn nước chảy xiết uốn cong ngọn những khóm tre gai dập dờn theo làn nước chảy. Những cây cổ thụ tróc gốc trôi băng băng như điên, như dại.
Gã ngồi trên mảng nứa nhỏ cùng hai mẹ con một người bạn của bác họ gã thả xuôi từ ga ấm Thượng về. Không có bơi chèo dầm lái gì cả. Chỉ có hai mảnh khoát to bằng hai bàn tay chụm lại. Mới bơi đựoc một hồi sợi lạt đầu khoát bung ra, những nan nứa gép tuột mỗi nơi một chiếc cuối cùng chỉ còn trơ lại dóng tre dài hơn một gang tay. Mảng vướng vào chỗ nào lại lấy tay đẩy ra. Cứ liên tục một ngày như thế mới băng qua cánh đồng. Khi mảng trôi ra giữa dòng sông thì trời chập tối. Đèn đóm không có, bốn bề tối đen như mực. Thỉnh thoảng sáng loè lên nhìn rõ cảnh vật hãi hùng. Dòng nước bạc sáng loà như dựng ngược lên trời. Cái mảng như chiếc lá nhỏ nhoi trôi giữa dòng sông.
Hai mẹ con bà khách đi cùng chẳng biết bơi chèo gì cả. Họ phải về gấp vì dưới nhà có đám không thể chờ đến khi nước rút. Mà khi nước rút còn phải chờ người ta sửa đường tàu ít cũng cả tuần. Bà mẹ là cán bộ phụ nữ huyện Hạ Hoà. Cô con gái theo mẹ lên học cấp III. Quê họ ở mãi phía dưới thị xã Sơn Tây một chút.
Gã cũng sắp hết hạn nghỉ hè, phải về trường. Lên thăm người nhà được mấy hôm thì lũ ập tới. Không ai ngờ năm ấy nước lại lên to đến thế, lúc đầu gã chủ quan mặc dầu ông bác đã khuyên can hết lời.
Gã bảo:
- Cháu sống từ nhỏ bên sông, bơi lội không kém gì dái cá bác đừng ngại. Mẹ con bà khách nhìn thân thể chắc nịch, nhanh nhẹn của gã với con mắt tin cậy. Tình thế buộc cả ba người không thể nấn ná được. Nước chẳng những không chịu rút mà ngập mỗi ngày một dâng cao. Nước đã ngập hết khu vườn và một khoảng sân trên sườn đồi nhà ông bác. Lợn gà nhao nhác, bối rối trăm bề, ông bác đành lòng để cho ba người đi với một gói cơm nếp to tổ bố và bi đông nước chè thật đặc.
Ngồi trên mảng rồi gã mới cảm thấy hối hận. Lúc đó dù muốn thay đổi ý định cũng không kịp. Thôi thì đã liều ba bảy cũng liều. Tình cảnh của mấy người lúc này chẳng khác những chú kiến bám vào cộng sậy đang băng băng theo dòng nước. Có cảm giác trên thế gian này có bao nhiêu nước thì dồn cả bấy nhiêu về đây. Sức mạnh của muôn nghìn thác thúc cho mặt nước sôi trào ngầu đục. Sông Hồng ngày thường đã mênh mang nước, lúc này càng chẳng biết đâu là bến là bờ. Những con trâu mộng còn sống mà bất lực không bơi thoát dòng nước xiết. Chúng bị cuốn đi như những đụn dạ nát rồi chìm ngỉm. Có một cái mảng nhỏ đóng ghép bằng mấy cây chuối áp sát vào mảng của gã. Bên trên là những gióng tre quây một con lợn còn sống. Chắc là phía thượng lưu người ta làm để chống lũ. Để nước ngập tới đâu mảng dâng tới đo. Lợn không chết chìm. Con lợn đói thóp bụng vì bị bỏ đói nằm dán mình xuống mảng. Gã vớt một đoạn dây buộc mảng chuối vào đuôi mảng của mình.
Rồi như có một phép lạ, cả mấy người với con lợn cũng về tới Sơn Tây, một chiếc thuyền cứu nạn đã kịp đưa họ vào bờ, gã trả công cho người chủ thuyền con lợn nhưng ông ta dứt khoát không nhận. Ôi là cái thời thiếu đói mà sao vẫn còn những con người thừa thãi tình người. Cho đến bây giờ gã chưa quên nét mặt của con người ấy. Dáng khắc khổ, sống mũi cao, con mắt như kẻ chán đời. Thế mới lạ chứ! ở lại chơi nhà mẹ con bà bạn đường một ngày. Bà ta đổi con lợn lấy một chiếc xe đạp cho gã về Hà Nội. Cô con gái còn ghi lại cho gã địa chỉ hẹn khi nào gã lên chơi.
Nhưng rồi những rối ren, khốn nạn của đời gã sau đó đã khiến gã không có điều kiện quay lại đó lần nào nữa. Chỉ là thoáng qua. Một bà mẹ tử tế với cô con gái dễ thương như câu chuyện cổ. Nếu một lần quay lại, biết đâu cuộc đời gã đã khác, không chìm đắm bao nhiều năm trời. Nhiều lúc gã nghĩ như vậy và lấy làm tiếc. Gã thử hình dung ra nếu qua những năm chiến tranh sau đó mà mẹ con cô còn sống thì giờ họ sống như thế nào? Nghe nói vùng đó vào năm sau là trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ, người chết rất nhiều. Họ ở giữa vùng hai bên sông là khu công nghiệp, có sân bay quân sự và kho xăng dự trữ chiến lược...
Gã cứ thả dòng suy tư của mình như thế cho đến khi bè về gần tới trạm. Lão Chỉ ra hiệu cho gã và Ba Đẻn ngừng bơi. Giữ được im ắng là tốt nhất vào lúc này. Mãi chẳng sao, gã lại thấy ngứa ngáy ran trong cổ. Phải cố nén không thể ho hắng vào lúc này. Nếu qua được trạm mà không bị phát hiện sẽ đỡ được khoản tiền. Lão Chỉ nói như thế, mặc dù bè có đủ giấy tờ. Nhưng dù thủ tục đầy đủ tới đâu mà không làm luật cũng khó mà qua được. Gã thì không vấn đề gì. Một mảng củi lồng cồng người ta không bõ thu. Mà có làm luật cũng chỉ vài chục bạc. Nhưng nếu người ta giữ lão Chỉ ở đây thì gã cũng phải chờ. Không thể bỏ lão mà đi được. Có làm thế chăng nữa nào gã biết bờ bến ở đâu. Nơi đỗ chặng dừng, có khi tuốt mãi về xuôi. Hết địa giới tỉnh Xuân Quang về dưới kia khác tỉnh thì củi người ta cũng lấy. Vùng dưới đâu có sẵn củi và rẻ rúng như trên này. Gã thầm mong cho bè trôi nhanh qua khỏi quãng sông có trạm. Gần sáng sương lạnh thế này chắc người trong trạm ngủ say như chết. ác nỗi những nơi có trạm thường là nơi nước đứng. Dòng chảy cứ thúc thẳng vào chỗ nhà bè bên trên lập trạm. Chỉ khẽ động là đèn pha sáng loá cả khúc sông. Có cảm giác như bè đứng im không di chuyển. người ta đã tính toán chán mới lập trạm như thế. Trừ mùa lũ to nước chảy xiết hoạ hoằn mới có mũi bè qua được mà trạm không biết. Mùa này ít khi qua mà trạm không gọi vào.
Chỉ còn cách trạm vài trăm mét trong trạm vẫn im lìm. Đám sương dày như cái chăn bông trắng khổng lồ che phủ chỉ nhìn thấy một quầng vàng đục của cây đèn báo treo trước cửa trạm. Chắc mẩm là chuyến qua trạm êm thấm. Bỗng có tiếng va chạm lách cách của kim khí. Tiếng lên đạn súng hoặc tiếng xích sắt neo thuyền. Đèn pha to không bật nhưng loang loáng ánh đèn bin. Mũi bè đã bị phát hiện. Có tiếng hô dõng dạc:
- Đánh vào kiểm tra! A lô trên bè nghe rõ không? Lão Chỉ lẩm bẩm một câu rất tục rồi lên tiếng.
- Chúng tôi vào ngay đây!
Lố nhố những người trên thuyền, tay cầm đèn pin. Nhưng họ không bơi ra ngay mà chờ mũi bè áp dần vào trạm. Họ chỉ bơi thuyền đuổi theo nếu bè cố tình bỏ chạy. Còn trong trường hợp này họ không vội vàng gì. Điều ấy đã khá quen đối với họ. Những người ban ngày thay nhau ngủ. Còn ban đêm tỉnh táo nhanh như bọ nước.
Hai bố con ông Chỉ ôm một gói lên trạm. Bè tạm thời neo lại bằng sợi xích sắt to tướng của nhà trạm. Cuộc thương lượng diễn ra khá lâu. Khi quay ra chỉ có mình lão Chỉ. Đứa con gái ở đó làm gì nhỉ? gã không dám hỏi. Lão đang bực vì vừa phải tốn kém lại vừa phải để con lại. Lão dặn con:
- Ngày mai có tàu qua đây thì về luôn trên nhà.
Không thấy đứa con gái nói gi. Mãi sau này gã mới hiểu tại sao chuyến bè nào lão cũng cho đứa con gái xinh xắn nhất nhà đi. Còn lúc này đây gã chỉ nghĩ trong lòng: Xuôi bè là nghề dễ kiếm ra đồng tiền. Cũng là nghề không thiếu gian truân, những người trong cuộc phải mất mát rất nhiều. Sức lực, tiền của, có khi cả danh dự phẩm giá của mình.
Bè tháo xích tiếp tục xuôi trên sông vắng. Một vài vì sao thưa thớt nhạt nhẽo run lên lẩy bẩy ở phía chân trời.




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: