TẦM QUAN TRỌNG CỦA KHOA HỌC XÃ HỘI-NHÂN VĂN TẠI MỸ
HÔM NAY 11/2/2019 tờ báo OBSERVER (Người quan sát) đăng bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Hoành. Tờ “Nghiên cứu quốc tế.org” đăng lại bản tiếng Việt.
Observer (Người quan sát) là một tờ báo của nước Anh được xuất bản vào chủ nhật. Ở cùng một vị trí chính trị như các tờ báo chị em của nó The Guardian (Người bảo vệ) và The Guardian Weekly (tuần báo Người bảo vệ), có công ty mẹ là Guardian Media Group Limited, theo đường lối dân chủ xã hội hoặc tự do xã hội trong hầu hết các vấn đề.
Tờ báo Observer xuất bản số đầu tiên năm 1791.
Tác giả: Nguyễn Hải Hoành
Cho tới nay vẫn còn có người cho rằng nước Mỹ chỉ chú trọng phát triển khoa học tự nhiên và kỹ thuật (viết tắt KHKT) mà coi nhẹ khoa học xã hội và nhân văn (KHXHNV). Một số học giả Trung Quốc nói văn hóa Mỹ và phương Tây chỉ nhấn mạnh cách làm việc mà coi nhẹ luân lý đạo đức, chỉ có văn hóa Trung Hoa (nhất là Nho học) nhấn mạnh luân lý đạo đức, chú ý trau dồi cách tu dưỡng làm người.
Sách Nghiên cứu chiến lược xuất bản năm 2003 của nhà chiến lược học nổi tiếng TQ Nữu Tiên Chung viết đại ý:
“Người Mỹ coi trọng công nghệ mà không coi trọng tư tưởng, coi trọng quản lý mà không coi trọng chiến lược. Họ có tâm trạng ăn xổi ở thì, chỉ cầu lợi trước mắt, dân Mỹ thiếu ý thức lịch sử, với bất cứ vấn đề nào họ đều muốn tìm kiếm giải đáp có tính kỹ thuật.[1]”.
Ngay ở nước Mỹ hiện nay vẫn có học sinh vì cho rằng tư duy kỹ thuật cần được coi trọng hơn tư duy xã hội mà phân vân trước việc nên ưu tiên học ngành KHKT hay các môn xã hội và nhân văn.[2]
Thực ra từ ngày lập quốc tới nay, chính quyền cũng như giới tinh hoa nước Mỹ luôn luôn chú trọng phát triển cả KHKT cũng như KHXHNV; nhưng vì thành tựu KHXHNV ít có các biểu hiện bề nổi nên người ta khó nhận thấy. Nếu coi nhẹ KHXHNV, coi nhẹ tư tưởng, thiếu ý thức lịch sử và đầu óc chiến lược thì nước Mỹ sao có thể chỉ sau hơn trăm năm lập quốc mà vượt qua tất cả các cường quốc có lịch sử lâu đời, vươn lên vị trí siêu cường số một thế giới cả về sức mạnh cứng và sức mạnh mềm. Tiến trình ấy có lúc trắc trở, thất bại nhưng nhìn chung là một chặng đường thuận lợi. Từ lúc đấu tranh giành độc lập cho tới lúc mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước, chiến thắng các quốc gia thù địch trong hai cuộc thế chiến và chiến tranh lạnh, nước Mỹ luôn tiến lên với tốc độ cao, từ đầu thế kỷ 20 cho tới nay giữ vị trí hàng đầu về KHKT và KHXHNV; sau Thế chiến II trở thành quốc gia lãnh đạo thế giới và có tiềm lực giữ được vai trò này trong một thời gian dài nữa.
KHOA HỌC XÃ HỘI ĐI TRƯỚC, QUYẾT SÁCH NHÀ NƯỚC ĐI SAU
Sự phát triển KHXHNV Mỹ có đặc điểm là nghiên cứu KHXHNV phục vụ trực tiếp cho việc chính quyền hoạch định đường lối chính sách đối nội đối ngoại. Đó là do các thế hệ nhà lãnh đạo Mỹ đều chủ trương mọi quyết sách lớn của nhà nước phải dựa vào các nghiên cứu đi trước của giới KHXHNV. Mặt khác, trong xã hội dân sự, mọi người dân đều có ý thức làm chủ đất nước, các nhà KHXHNV Mỹ luôn mong muốn kết quả nghiên cứu của mình có thể tác động tới chính quyền và xã hội, chứ không muốn nghiên cứu để mà nghiên cứu. Tương tác như vậy giữa chính quyền với giới khoa học đã giúp cho KHXHNV Mỹ phát triển rất sôi động; đầu tư vào ngành KHXHNV đem lại hiệu quả thiết thực. Phần lớn chính sách đối nội về cơ bản phù hợp nguyện vọng của dân, nhờ thế xã hội Mỹ từ ngày lập quốc (1776) tới nay luôn giữ được ổn định không hề xảy ra đảo chính hoặc cách mạng lật đổ chính phủ, cho dù dân chúng được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp biểu tình (thậm chí được sở hữu vũ khí) và phế truất Tổng thống. Duy nhất có một lần tổng thống từ chức (Nixon, do vụ bê bối Watergate).
MINH BẠCH CÁC TƯ LIỆU LỊịCH SỬ là điều kiện tiên quyết cực kỳ quan trọng để khoa học XHNV phát triển, bởi lẽ tư liệu lịch sử là “nguyên vật liệu” để làm ra các sản phẩm KHXHNV; tư liệu mập mờ hoặc sai sự thật thì không thể có sản phẩm KHXHNV tốt. Chính phủ Mỹ quy định mọi sự thật lịch sử sau 30 năm phải được công khai cho dư luận biết; mới đây họ đã công khai toàn bộ hồ sơ về chiến tranh Việt Nam. Từ đầu thế kỷ 20, chính phủ Mỹ đã lập Cục Thống kê nhà nước, một việc làm rất quan trọng thể hiện nhà nước quan tâm phát triển KHXHNV. Hiển nhiên, không có các số liệu thống kê tin cậy về mọi mặt thì giới KHXHNV, trước hết là kinh tế học, sẽ không có căn cứ để tiến hành nghiên cứu hữu hiệu.
Trong Thế chiến I, quân đội Mỹ vận dụng tâm lý học để trắc nghiệm tâm lý binh sĩ, thiết thực dùng tâm lý học phục vụ chiến tranh. Cuối thập niên 1920, Tổng thống Hoover tổ chức các nhà KHXHNV nghiên cứu vấn đề xu thế phát triển xã hội Mỹ. Trong Đại khủng hoảng kinh tế thập niên 1930, chính phủ đã áp dụng nhiều thành tựu KHXHNV nhất là kinh tế học để vạch ra Chính sách kinh tế mới (New Deal). Trước Thế chiến II, chính phủ Roosevelt đưa ra các nguyên tắc cơ bản phát triển KHKT và KHXHNV sau chiến tranh.
Trong Thế chiến II, chính phủ Mỹ động viên nhiều nhà KHXHNV trong các trường đại học và cơ quan nghiên cứu tư nhân tham gia nghiên cứu tình hình trong nước và quốc tế để cung cấp căn cứ lý luận giúp chính phủ ấn định các quyết sách.
Cơ quan điều tra xã hội của chính phủ Anh nhận xét: Các nhà KHXHNV Mỹ trong mọi lĩnh vực đều tham gia chiến tranh. Các nhà nhân học và địa lý học nhận nhiệm vụ cung cấp các thông tin về dân tộc và địa lý ở vùng Thái Bình Dương. Các nhà kinh tế và chính trị học nghiên cứu việc sản xuất và kiểm soát các vật tư quân sự. Các nhà tâm lý học hăng hái tòng quân để làm công tác tuyên truyền trong quân đội. Từ cuộc chiến tranh này, chính phủ Mỹ hiểu được rằng địa vị quốc tế mới của nước Mỹ đòi hỏi phải có những người hiểu được lối sống và ngôn ngữ của các dân tộc khác.
Ngành KHXHNV đã đề xuất nhiều biện pháp cụ thể về chính sách kinh tế, phân phối tài nguyên, chiến tranh tâm lý. Như nghiên cứu đưa ra bản báo cáo về tình trạng tâm lý của con người Hitler để chính phủ Mỹ dùng làm căn cứ lên kế hoạch tấn công nước Đức. Trước chiến dịch giải phóng các đảo quốc Nam Thái Bình Dương, ngành KHXHNV Mỹ đã nghiên cứu văn hóa, phong tục dân gian các xứ này để quân đội Mỹ dựa vào đó đưa ra các điều lệ quy định cách ứng xử khi chiếm đóng các đảo quốc nhằm giữ được quan hệ thân thiện với dân địa phương. Cũng với cách làm đó, khi chiếm đóng các quốc gia thù địch Đức, Nhật, quân đội Mỹ đã gây được ấn tượng tốt với dân bản xứ. Một nhà ngoại giao Nhật nói: “Trong keo vật tinh thần với người Mỹ, chúng tôi bị một dạng quan niệm cao hơn đánh bại. Vấn đề đích thực là vấn đề về đạo đức; chúng tôi thua về đạo đức”. Dưới sự chỉ huy của tướng MacArthur, quân đội Mỹ chiếm đóng Nhật đã để lại ấn tượng tốt trong lòng người dân Nhật.
Khi vừa mới tham gia Thế chiến II, giới tinh hoa Mỹ nhìn xa trông rộng đã lập tức nghiên cứu thiết kế tổng thể thế giới sau khi chiến tranh chấm dứt. Chính phủ tập hợp các học giả, nhà báo, nghị sĩ, sĩ quan vào các nhóm tư vấn để nghiên cứu bàn thảo rộng rãi về mọi công việc sau chiến tranh như cách thức chiếm đóng các nước thù địch, cách điều chỉnh lãnh thổ thế giới, an ninh quốc tế, phục hồi quan hệ thương mại… Một ví dụ: ngay trong khi thừa nhận nước Trung Hoa Dân quốc của Quốc dân đảng TQ là đồng minh chống phát xít, Mỹ đã đưa ra chiến lược ngăn chặn sự bành trướng của ông bạn này, vì họ cho rằng TQ trước sau dứt khoát sẽ bành trướng.
Khi Thế chiến II chấm dứt, Mỹ lập tức thi công bản thiết kế tổng thể đó, ra sức tạo dựng một thế giới phù hợp lợi ích của mình. Họ đã xây dựng được một hệ thống thể chế có tính toàn cầu về kinh tế, tài chính-tiền tệ, tư tưởng, quân sự và các quy chế chung. Từ đó nước Mỹ dẫn đầu thế giới trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực KHXHNV nói riêng và sức mạnh mềm nói chung.
Bước vào cuộc chiến tranh lạnh với Liên Xô, Mỹ không chỉ ra sức phát triển công nghệ hạt nhân và vũ trụ mà còn ra sức phát triển KHXHNV theo quan điểm lấy con người làm gốc; xây dựng hệ thống lý luận về chiến tranh lạnh trên cơ sở dùng tăng trưởng kinh tế cao và ưu thế về giá trị quan tự do, dân chủ, nhân quyền để thắng đối phương mà không cần đụng độ về quân sự.
Chương trình khôi phục kinh tế của Tổng thống Truman đề xuất quan điểm: “Đẩy mạnh phát triển KHXHNV là yếu tố quan trọng để nước Mỹ giữ vai trò lãnh đạo thế giới”. Các Quỹ tư nhân đều ủng hộ quan điểm này. Năm 1950, Quỹ Ford tài trợ kinh phí lớn cho việc nghiên cứu các ngành khoa học hành vi[3] như tâm lý học, xã hội học, nhân học; trong 6 năm Quỹ này đã lập một số trung tâm nghiên cứu; về sau mở rộng sang kinh tế học, chính trị học, ngôn ngữ học, v.v.. Một loạt think-tank mọc ra như nấm đưa nghiên cứu KHXHNV lên một cao trào mới.
Năm 1958, Tổng thống Eisenhower lập các nhóm chuyên gia nghiên cứu đưa ra báo cáo “Nhà nước ủng hộ khoa học hành vi”, đề xuất KHXHNV Mỹ phải giữ được ưu thế rõ rệt so với Liên Xô, muốn vậy nhà nước phải tăng mạnh tài trợ. Năm 1962, Tiểu ban Cố vấn khoa học của Tổng thống đưa ra báo cáo “Tăng cường khoa học hành vi”, kiến nghị đưa giáo dục tri thức KHXHNV vào chương trình phổ thông trung học và kiến nghị tất cả các chính sách lớn của chính phủ đều phải căn cứ vào kết quả nghiên cứu đi trước của ngành KHXHNV.
Báo cáo “Biến trí thức thành hành động: cải tiến việc nhà nước sử dụng KHXHNV “đưa ra năm 1969 vào lúc các mâu thuẫn nội bộ xã hội Mỹ trở nên căng thẳng, một lần nữa nhấn mạnh phải coi trọng KHXHNV vì “so với các khoa học khác, KHXHNV có mối quan hệ khăng khít hơn với nhiều chính sách đối nội bức thiết nhất”, trước khi triển khai một chính sách xã hội mới, chính phủ phải hỏi ý kiến các nhà KHXHNV. Báo cáo yêu cầu nhà nước tăng tài trợ cho KHXHNV, tăng số nhà KHXHNV làm việc trong Nhà Trắng v.v…
HỆ THỐNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC XÃ HỘI
KHXHNV chủ yếu được nghiên cứu tại các Viện, Trung tâm nghiên cứu thuộc nhà nước hoặc tư nhân; đặc biệt hệ thống think-tank và trường đại học góp phần rất quan trọng.
Hệ thống think-tank ở Mỹ do nhà nước và tư nhân tài trợ, chủ yếu nghiên cứu đưa ra quan điểm về các vấn đề có tính thời sự, hình thành các giải pháp có tính khả thi nhằm giải quyết những vấn đề trước mắt hoặc tương lai. Nước Mỹ có 1777 think-tank (toàn thế giới có 5465; Trung Quốc — 74), được đầu tư lớn, ví dụ ngân sách hàng năm của Viện Brookings là 60 triệu USD, của Công ty Rand là 250 triệu USD (1.600 nhân viên). Chính phủ Mỹ rất coi trọng các think-tank.
Các trường Đại học thường là nơi ra đời những tư tưởng, học thuyết mới. Trong lĩnh vực sử học và quan hệ quốc tế xuất hiện nhiều học giả nổi tiếng, như R. Keohane (ĐH Princeton), Paul Kennedy (ĐH Yale), S.Huntington, E. Vogel, J. Nye (ĐH Harvard), J. Mearsheimer (ĐH Chicago), Warren I. Cohen (ĐH Maryland) v.v…Các tác phẩm và phát ngôn của họ thường có tiếng vang ở Mỹ và trên thế giới, được nhiều người trích dẫn, tác động lớn tới chiến lược của chính phủ Mỹ.
Chẳng hạn N. J. Spykman (ĐH Yale) đề xuất Chiến lược kiềm chế (containment) và Thuyết Vùng biên (Rimland theory); ngay từ năm 1941 ông đã đưa ra quan điểm Mỹ cần kiềm chế Trung Quốc (chứ không phải Nhật!). Thuyết Đụng độ giữa các nền văn minh của S. Huntington mới đầu bị chê trách, về sau được thực tiễn kiểm nghiệm xác nhận là đúng, đi trước thời đại.
Hiện nay J. Nye là học giả có ảnh hưởng lớn đối với chính sách đối ngoại của nhà nước Mỹ. Khái niệm Sức mạnh mềm do ông đề ra đã tác động rất lớn đến hướng nghiên cứu của giới KHXHNV Mỹ và toàn thế giới. Ông từng 3 lần sang thăm Việt Nam, gặp Thủ tướng nước ta và nói chuyện với giới doanh nhân nước ta.
Lĩnh vực chính trị học đạt được nhiều thành tựu đáng kể, bởi lẽ người Mỹ thường quy kết mọi tồn tại trong xã hội như khủng hoảng kinh tế, bất đồng xã hội (ví dụ: do chiến tranh Việt Nam, do vụ Watergates …) đều có nguyên nhân là chế độ chính trị có vấn đề. Vì thế mỗi khi xảy ra tình hình trên thì khoa học chính trị lại được dịp đẩy lên một bước. Chính trị học, chính trị học so sánh (comparative politics), quan hệ quốc tế, lý luận chính trị là 4 lĩnh vực chính hợp thành ngành khoa học chính trị (political science) trong các trường ĐH. Các nhà chính trị học nghiên cứu rất nhiều vấn đề như chủ nghĩa tinh hoa (Elite Approach), thuyết đồng thuận (Consensus Theory) v.v.. Chủ nghĩa đa nguyên (Pluralism) là lĩnh vực được nghiên cứu tương đối chín muồi, thu hút nhiều người tham gia.
Các cá nhân quan tâm tới KHXHNV cũng có những đóng góp đáng kể. Như A. Mahan (1840-1914), một sĩ quan quân đội yêu sử học, đã sáng lập thuyết Sức mạnh biển, góp phần quan trọng làm tăng sức mạnh địa-chính trị của nước Mỹ; ông được Tổng thống F. Roosevelt ca ngợi là một trong những nhân vật vĩ đại có ảnh hưởng nhất ở Mỹ; một số tàu chiến Mỹ mang tên ông.
Hầu hết nhà lãnh đạo và ngoại giao, nghị sĩ Mỹ đều giỏi về KHXHNV. Tổng thống W. Wilson là tiến sĩ chính trị học, nguyên hiệu trưởng ĐH Princeton lừng danh (1902-1910), từng xuất bản hơn 40 tác phẩm, trong đó có các bestseller. Các Tổng thống Monroe, T. Roosevelt, F. Roosevelt, Truman v.v.. và nhiều nghị sĩ đều tốt nghiệp khoa luật các ĐH danh tiếng, họ đã đề xuất những chiến lược lớn có tính thời đại nhằm để nước Mỹ trở thành cường quốc. Nhà ngoại giao G. Kennan cha đẻ Thuyết Ngăn chặn (Containment theory), là nhân vật chính của lý thuyết chiến tranh lạnh: năm 1946 khi làm Đại biện lâm thời Mỹ tại Liên Xô, ông gửi về Mỹ một bức điện báo dài đề xuất chính sách đối với Liên Xô, được chính phủ Mỹ chấp nhận. Các cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Condoleezza Rice và G. P. Schultz từng là thành viên Hội Nghiên cứu KHXHNV Mỹ (Social Science Research Council, SSRC).
HỆ THốNG ẤN PHẨM HOÀN THIỆN VỂ KHOA HỌC XÃ HỘI
Khác với khoa học tự nhiên, ngành KHXHNV có đặc điểm là người đi sau phải kế thừa, tham khảo thành tựu nghiên cứu của người đi trước, nếu không sẽ chẳng thể sáng tạo được lý thuyết, ý tưởng gì mới. Các thành tựu đó chủ yếu được thể hiện dưới dạng văn bản, ấn phẩm (chứ không phải là sản phẩm vật chất thực thể và nói chung không cần giữ bí mật như trong KHKT). Các trường ĐH đều yêu cầu thầy giáo và sinh viên (SV) ngành KHXHNV phải đọc một lượng sách báo rất lớn. Quy mô thư viện là một tiêu chí đánh giá chất lượng các trường ĐH. Quốc hội Mỹ có thư viện lớn nhất thế giới. Các Tổng thống Mỹ khi nghỉ hưu thường bỏ tiền túi lập thư viện để phục vụ xã hội.
Vì vậy tổng thuật một cách khoa học và hệ thống các công trình nghiên cứu KHXHNV là việc rất quan trọng và bức thiết; nó giúp các nhà KHXHNV tổng kết thành tựu đã đạt được và xác định hướng nghiên cứu.
Ngày nay nước Mỹ đã xây dựng được một cơ chế tổng thuật thành tựu nghiên cứu KHXHNV có tính hệ thống cao, gồm các tập san học thuật, các ấn phẩm tổng thuật chuyên ngành.
Nước Mỹ có nhiều tập san danh tiếng được cả thế giới đọc và trích dẫn, như American Journal of Sociology, American Sociological Review, American Political Science Review, Public Administration Review…Các tập san được biên tập rất công phu. Thí dụ American Political Science Review số 4/2006 (kỷ niệm 100 năm tập san này) được chuẩn bị trong hai năm, chọn đăng 24 trong số 100 bài chất lượng cao nhận được.
Nhưng vì thể loại tập san thường bỏ đi nhiều bài, để bổ cứu, người Mỹ còn xuất bản các loại Annual Reviews (hơn 40 loại) không kiếm lời, đưa ra những thông tin có tính khái quát nhằm giúp các nhà KHXHNV có thêm tư liệu tham khảo.
Các hội học thuật và nhà xuất bản còn ra những loại ấn phẩm tổng thuật thành tựu nghiên cứu KHXHNV của cả một thời gian dài. Ví dụ Hội chính trị học Mỹ cứ 10 năm tổ chức một đợt tổng thuật thành tựu 10 năm qua.
TĂNG CƯờNG GIảNG DạY KHOA HọC XÃ HộI TRONG CÁC TRƯờNG HọC
Thời xa xưa các trường học trên thế giới đều chỉ dạy môn KHXHNV, mãi sau này mới có khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Người Trung Quốc dạy luân lý đạo đức, văn thơ lấy từ các kinh điển như Tứ thư Ngũ kinh. ĐH Harvard ban đầu vốn là trường đào tạo linh mục tôn giáo. Từ giữa thế kỷ 19, khi KHKT bắt đầu phát triển mạnh thì các kiến thức thực dụng như khoa học tự nhiên và kỹ thuật dần dần chiếm ưu thế. Về sau người Mỹ nhận ra mặt tiêu cực của sự phát triển KHKT như làm xấu môi trường sống, giảm cơ hội con người tiếp xúc với thiên nhiên, hạ thấp phẩm chất con người, làm phai nhạt mối quan hệ người-người; phát triển lệch về giáo dục KHKT ngày càng bất lợi cho việc giải quyết mâu thuẫn người với thiên nhiên, người với người, thậm chí còn làm tăng các mâu thuẫn đó. Vì vậy trong khi phát triển kinh tế, xã hội Mỹ càng nhấn mạnh tính quan trọng của tinh thần nhân văn.
Hiện nay các trường ĐH Mỹ rất chú trọng nghiên cứu và giảng dạy KHXHNV nhằm giúp SV hình thành nhân sinh quan, giá trị quan, đạo đức nghề nghiệp và cảm giác trách nhiệm với xã hội, trau dồi nhân cách lành mạnh, giúp họ hiểu biết về văn hóa và văn minh của loài người và trở thành người tích cực tham gia nền văn hóa đó.
Các trường ĐH đều theo đuổi mục tiêu giáo dục tổng thể (general education), cho rằng ngoài các môn chuyên ngành ra, SV còn phải học một chương trình rộng hơn mà tất cả các chuyên ngành đều cần; điều đó có lợi cho cả cuộc đời của họ. Nhà trường yêu cầu SV học các môn cơ bản (core curriculum) với trọng tâm là khoa học xã hội (tâm lý, lịch sử, địa lý, nhân học, chính trị, kinh tế, xã hội học) và khoa học nhân văn (triết học, ngôn ngữ, cổ điển học, ngoại ngữ, âm nhạc, lịch sử nghệ thuật). Cụ thể học môn nào thì do mỗi trường tự quyết định. Ở ĐH Harvard mỗi SV khóa cử nhân phải học 32 môn học cơ bản của 7 loại: văn hoá nước ngoài, nghiên cứu lịch sử, văn học nghệ thuật, luân lý đạo đức, toán lý hóa, khoa học và phân tích xã hội, nhằm giúp sinh viên nâng cao năng lực tư duy phê phán và sức tưởng tượng, học cách phát hiện và kiểm định chân tướng sự thật, kiên trì phân tích nghiêm ngặt sự vật, nhận thức các vấn đề một cách có cơ sở lịch sử và có lý trí v.v…
Từ năm 1981 trở đi, SV ngành nào hai năm đầu cũng phải chọn học một bộ 10 môn cơ bản, trong đó 7 môn là KHXHNV. Việc giảng dạy các môn này là do một nửa số giáo viên phụ trách, cán bộ lãnh đạo nhà trường cũng tham gia giảng dạy. Các trường cao đẳng cộng đồng chế độ 2 năm cũng phải học các môn KHXHNV.
Nội dung giáo dục KHXHNV gồm tinh thần nhân văn, giá trị quan, các quy chế xã hội và tinh thần dân tộc, kỹ năng giải quyết các vấn đề đời sống hiện thực, khả năng hiểu biết đạo đức. Trong khi nhấn mạnh tính dân tộc lại đồng thời coi trọng tính quốc tế, chẳng hạn ĐH Harvard yêu cầu SV phải nắm vững di sản văn hóa phương Tây.
Năm 1987, bang California đi đầu ấn định phương án giảng dạy môn lịch sử-xã hội học (history-social science curriculum) cấp trung-tiểu học, nhấn mạnh dùng lịch sử và địa lý làm nòng cốt để xây dựng chương trình học môn xã hội học. Năm 2000, cơ quan giáo dục California hoàn thiện chương trình nói trên, lập quy hoạch thống nhất nội dung giảng dạy môn lịch sử- xã hội học ở các cấp học.
KHOA HỌC XÃ HỘI PHÁT TRIỂN SÔI ĐỘNG, HIỆU QUẢ THIẾT THỰC
Năm 1971, tạp chí Science đăng báo cáo khảo sát của một nhóm chuyên gia ĐH Harvard, cho biết trong 62 thành tựu nghiên cứu về KHXHNV trên toàn thế giới thời gian 1900-1965 thì 45 là của Mỹ.
Cho tới 2011 hầu hết chủ nhân giải Nobel kinh tế (46/66) là người Mỹ. Giải Nobel kinh tế 2018 cũng thuộc hai người Mỹ (William Nordhaus và Paul Romer). Giới kinh tế Mỹ đóng góp rất nhiều ý kiến vào việc đối phó khủng hoảng tài chính toàn cầu. Như Krugman (Nobel kinh tế 2008) đưa ra nhiều giải pháp về tài chính. Sách giáo khoa kinh tế các nước XHCN như Trung Quốc, Việt Nam sử dụng nhiều lý thuyết kinh tế của Mỹ.
Phần lớn các học thuyết mới, khái niệm mới, tư tưởng mới trong KHXHNV đều xuất hiện ở Mỹ, người Mỹ chiếm đa số trong số các nhà KHXHNV được thế giới trích dẫn nhiều nhất. Ví dụ trong sách Giấc mơ Trung Quốc của đại tá Trung Quốc Lưu Minh Phúc, lượng trích dẫn từ các nhà KHXHNV Mỹ gấp vài chục lần lượng trích dẫn từ các nhà KHXHNV Trung Quốc. Phần đông truyền thông các nước khi nói về các sự kiện quốc tế lớn đều nhắc tới quan điểm của truyền thông Mỹ. Phát biểu của các nhà KHXHNV hoặc nhà báo Mỹ thường được thế giới quan tâm.
Thông kê năm 1978 cho biết nước Mỹ có hơn 1,3 triệu nhà khoa học, trong đó có khoảng 330 nghìn nhà KHXHNV, chiếm chừng 25%.
Các cuộc bàn cãi học thuật trong giới KHXHNV Mỹ thường diễn ra hết sức sôi động. Thí dụ suốt hơn 40 năm qua người Mỹ tranh cãi về vấn đề ai cai trị nước mình. Hai cuốn sách Who Rules America? và Who’s Running America? cứ dăm năm lại bổ sung, tái bản một lần, tới nay đã ra bản thứ 6.[4]
Báo cáo điều tra năm 2008 của TRIP (Teaching, Research and International Policy) cho thấy người Mỹ chiếm 8 trong số 10 học giả chuyên ngành quan hệ quốc tế có ảnh hưởng nhất thế giới. Đó là: R. Keohane (xếp hạng thứ 1), K. Waltz (3), J. Mearsheimer (4), J. Fearon (5), J. Nye (6), R. Jervis (7), S. Huntington (8), P. Katzenstein (9).[5]
Rõ ràng KHXHNV Mỹ đang dẫn đầu thế giới và thu hiệu quả thiết thực.[6] Họ đạt được thành tựu ấy là do có môi trường nghiên cứu tuyệt đối tự do, dân chủ, lại được nhà nước coi trọng và tăng mạnh đầu tư. Ngành KHXHNV Trung Quốc hiện nay dường như cũng đang phát triển theo hướng này; chính phủ bước đầu nới rộng phạm vi chọn đề tài, cho phép nghiên cứu các vấn đề thuộc “vùng cấm”.
——————
[1] 钮先钟Niu Xian Zhong, 1913-2004, Giáo sư chuyên nghiên cứu vấn đề chiến lược của phương Tây, làm việc tại Viện Nghiên cứu châu Âu, ĐH Đạm Giang, TQ
[2] Người Mỹ trăn trở: Học ngành KHKT hay Nhân văn. T/c Tia Sáng ngày 20/5/2011.
[3] Khoa học hành vi (Behavioral Science) là khoa học dùng thực nghiệm để nghiên cứu hành vi của con người, nghĩa rộng gồm cả kinh tế học, chính trị học, xã hội học, tâm lý học, nhân loại học, ngôn ngữ học v.v…
[4] Xem: WhoRulesAmerica.net.
[5] TRIP survey of International Relations in Ten Countries
[6] Để so sánh: TQ có nhiều cán bộ KHXHNV nhất thế giới (trong các viện, trung tâm, trường ĐH, trường Đảng các cấp) nhưng hiệu quả nghiên cứu hữu hạn, vì định hướng nghiên cứu bị giới hạn trong các kinh điển Marx -Mao- Đặng đã khai thác cạn kiệt. Thập niên 90, bà Thatcher nói trong vài chục thậm chí cả trăm năm tới TQ không thể có bất cứ tư tưởng mới nào. Tướng Lưu Á Châu chính ủy ĐH Quốc phòng Trung Quốc nói “TQ không có nhà tư tưởng, chỉ có nhà mưu lược”.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét