Tương Lai
Đấy là cái nhìn của Trịnh Công Sơn. “Đôi khi” nhìn “thấy trên lá khô một dòng suối”. Cũng như vậy, “từng lời bể sông” anh lại đã nghe ra “từ độ suối khe”. Và rồi, từ suối chảy ra sông, sông đổ vào biển mà “bâng khuâng gọi thầm, ngày mưa tháng nắng còn buồn” để rồi đau đớn phẫn nộ “Biển sóng biển sóng đừng xô tôi/Đừng cho tôi thấy hết tim người” để rồi xót xa bao dung “Biển sóng, biển sóng đừng âm u / Đừng nuôi trong ấy trái tim thù”.
Tôi hiểu ra rằng, đây chính là văn hoá, nói rõ hơn là cách diễn đạt một biểu tượng văn hoá qua cảm thức của người nghệ sĩ, trước hết là người nghệ sĩ của Huế. Vì như Sơn đã nói, “tôi là đứa con của Huế. Huế là người yêu của tôi, là giấc mộng của tôi”. Cho dù không có một chữ “Huế” nào trong ca từ nhạc Trịnh cả nhưng “tất cả các bài hát của tôi đều là “Huế” cả. Với anh, “Huế đã hình thành cho riêng mình một không gian riêng, một thế giới riêng… mạch nguồn của một nguồn gợi cảm nhẹ nhàng riêng”.1
Chính cảm quan thẩm mỹ của người nghệ sĩ thiên tài ấy gợi cho tôi một cảm hứng, cũng có thể xem là một lối thoát, để viết đôi dòng, khi không thể không viết về mấy ngày nóng bỏng với Festival Huế diễn ra cùng lúc với mùi cá biển do chất độc từ Formosa theo dòng hải lưu đưa vào biển Huế và biển miền Trung phía Nam Hà Tĩnh đổ vào.
Thật là oái oăm để không sao có thể lẩn tránh được những nghịch lý văn hoá trong một festival văn hoá ở một địa danh văn hoá, gần gũi hơn: một miền văn hoá đang rơi đúng vào một nghịch cảnh văn hoá.
“Đi giữa mọi người / Lòng như thầm hỏi tôi đang nhớ ai”? Nhớ về Trịnh Công Sơn, hay nhớ về dấu ấn Trịnh Công Sơn trong nỗi niềm văn hoá với Festival mà để cảm nhận trực tiếp dấu ấn ấy tôi có mặt ở Huế?
Tôi không đủ sức để viết về Festival Huế. Vì kiến thức hạn hẹp, đã đành! Nhưng còn vì cảm thấy mình quá lạc lõng trong một mớ hỗn độn, ồn ào của những hối hả buông tuồng nhằm cố dựng dậy những vàng son đang ngái ngủ trong cái nóng hầm hập của Huế những ngày “văn hoá” này. Chẳng hề có, mà có để làm gì cơ chứ “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo, nền cũ lâu đài bóng tịch dương”2 tuy người ta cũng đã cố phục dựng những nền cũ, những lối xưa ấy để tô đắp cho cái hình hài bán thân bất toại đang chông chênh chếnh choáng trong cuộc hôn phối cũ mới gượng gạo.
Gượng, vì nó không thật. Không thật trước hết thể hiện ở chỗ không chính tâm xây đắp một bản lĩnh văn hoá theo đúng như nó cần có khi đã từng tan hoang bởi chính con người. Tan hoang ra sao và do những con người nào, xin dành một dịp khác thích hợp hơn. Ở đây chỉ nói về những gì đang diễn ra. Trong đó, có những tấm lòng những cố gắng đáng trân trọng, đồng thời cũng không thiếu những những cách làm văn hoá chưa thích hợp với chức năng cao cả từ đặc thù của chính nó khi quên mất lời ông cha mình căn dặn “tô sức ở bên ngoài thì bên trong tàn tạ, vun đắp bên trong thì bên ngoài tốt tươi”3.
Có chuyện đó vì không có sự hiểu biết cần thiết, cũng có thể do tưởng đã biết nhưng thật ra là không hiểu gì về cái tưởng là biết đó. Nhưng tệ hại nhất là “mượn màu son phấn đánh lừa con đen” làm rùm beng qua quýt để dánh bóng mạ kền cho cái hiện thực xám xịt vì sự băng hoại của lòng tin, sự khủng hoảng của hệ giá trị dẫn đến sự suy đồi của đạo lý xã hội. Và rồi cái thứ văn hoá “son phấn” ấy chỉ phóng to thêm sự nhem nhuốc của hiện thực khiến cho nó tự phơi bày dễ hơn, rõ nét hơn.
Của đáng tội, đâu chỉ Huế đúng định kỳ Festival, bộn bề ngổn ngang những lễ hội hối hả rộn ràng theo chỉ thị. Hoành tráng cấp tập nhằm đáp ứng yêu cầu khởi động sự tươi vui của một đất nước đáng sống của nhiều tiêu chí đang thăng hoa vừa được tuyên ngôn rộn rã. Để làm gì nhỉ?
Để nhằm xua bớt đi, quên đi càng tốt, những bức xúc của môi trường tự nhiên nhiễm độc với cá biển chết và thực phẩm bẩn, bớt bớt đi cho môi trường xã hội ngột ngạt với quan hành dân, dân chửi quan, và những tiếng thét phẫn nộ lên án cường quyền áp bức dân, thuê lưu manh và xã hội đen trấn áp dân. Xem ra, nếu mồ ma một ngài thực dân Pháp với chủ trương dấy lên phong trào “vui vẻ trẻ trung” những năm 1932… nhằm làm loãng bớt đi những bức xúc của một bộ phận thanh niên Việt trong bầu không khí ngột ngạt do những cuộc đàn áp đẫm máu người yêu nước đòi độc lập nếu sống lại e còn phải gọi những “bậc thầy chủ xướng lễ hội” bằng sư phụ! Những lễ hội trên tuy thuộc phạm trù văn hoá nhưng liệu hàm lượng văn hoá đúng như tên gọi của nó có được bao nhiêu?
Ấy thế mà sợi chỉ mành giữa văn hoá và thiếu văn hoá, vô văn hoá lại quá mong manh. Đừng quên rằng, văn hoá không chỉ nằm trên bề mặt. Phần kết đọng của nó trầm tích ở dưới sâu với nhiều tầng nấc. Cho nên phục dựng, xây đắp văn hoá không thể có ngay thành phẩm như mì ăn liền. Vì vậy không thể qua quýt được. Nhất là qua quýt nhằm đạt tới một mục đích tuyên truyền hướng một mục tiêu chính trị đang bị thúc bách trước những bức xúc đổ dồn.
Vậy mà, “Chính trị là nhất thời, phương trình là vĩnh cửu” (Politics is for the present, but an equation is for eternity)4 như Albert Einteins từng nhận định. Cách làm văn hoá qua quýt, ăn xổi ở thì vì chỉ thấy cái nhất thời của chính trị mà không nhận ra được quy luật nghiệt ngã của nó, không thấy được cái “phương trình vĩnh cửu” cần phải có của một thứ chính trị thuận theo ý dân, nghĩa là thuận theo quy luật của cuộc sống. Cách làm qua quýt kia chỉ thích hợp với thứ chính trị chụp giật, nhai sống nuốt tươi theo nhiệm kỳ “tranh thủ ngoạm một miếng rồi chuồn” như Lênin, “người thầy của giai cấp vô sản thế giới”, đã cảnh báo. Nhớ cho là Lênin nói câu ấy từ những năm 1918 ngay sau Cách mạng Tháng Mười!
Ngay từ cái thuở ban đầu lưu luyến ấy đã vậy, giờ đây thì còn hối hả hơn nhiều! Vì cái “nhiệm kỳ” xem ra có vẻ ngắn hơn, bấp bênh hơn nên lại càng phải tranh thủ gấp gáp hơn. Vì thế mà nhiều chính khách hôm nay hình như cũng chẳng mấy bận tâm đến văn hoá, ngoại trừ lúc cần “văn hoá phục vụ chính trị”.
Đó là lý do chính sách, giải pháp, lời nói, việc làm cứ chõi nhau đôm đốp. Nhà chính trị “din” [origin] thì huyên thuyên về kiên định Mác Lê, quyết liệt định hướng xã hội chủ nghĩa, cho nên nhất thiết là công nông phải được xếp lên trước trí thức, v.v. Nhưng ơ hay, tại “cố đô Huế” này, nơi “văn hoá đậm đà bản sắc” được trình diễn với thế giới theo định kỳ festival thì khách sạn năm sao cứ phải đặt tên là Hoàng Đế, là Tân Hoàng Cung, rồi cửa hàng ăn sang trọng phải là Ngự thiện, Hoàng Gia, Quý Tộc và cứ thế có thể kể ra dài dài. Việc chạy theo thời thượng trong kinh doanh chẳng có gì đáng bàn.
Cái đáng bàn là việc phục dựng lại những giá trị đích thực. Vấn đề không thể chỉ là “ăn mày dĩ vãng”, như ai đó bằng hình ảnh rất đắt và cũng khá tai quái đã phê phán việc chỉ biết gặm vào di sản mà không biết kế thừa và tôn tạo theo hướng canh tân: “hiện đại hoá truyền thống” gắn làm một với “truyền thống hoá hiện đại”. Để làm gì?
Để vừa đến với thế giới bằng văn hoá của chính mình, sao cho thế giới hiểu được mình, tiếp nhận mình, vừa nâng mình lên trong tiến trình tiếp biến văn hoá nhằm làm giàu có hơn nền văn hoá với bề dày dân tộc mình.
Vả chăng, văn hóa được hình thành theo quy luật thẩm thấu. Cho nên dù phải trải qua những tàn phá thô bạo, những trấn áp nặng nề, những tổn thương đau đớn, cái chất văn hoá lắng đọng vẫn còn trong sâu thẳm tâm linh, tình cảm của con người Việt Nam, mà ở đây là tâm thức của những cư dân cố đô Huế. Cái chất văn hoá trầm tích lại ấy không dễ gì mất đi, vẫn được ủ kín trong sâu thẳm cội nguồn. “Những chiếc rễ của mỗi tư tưởng đều cắm sâu vào một quá khứ dài lâu”5. Và đấy là lý do giải thích sự khởi sắc của một số lễ nghi, tập tục qua các lễ hội, các sinh hoạt tín ngưỡng, nhuần nhuyễn có, mà sống sượng cũng có.
Đương nhiên, không mất, nhưng với những vết thương thì sự hàn gắn đòi hỏi phải có thời gian, mà thời gian thì không ngừng cuộn chảy, cuốn theo những biến động dữ dội. Ở đó chất chứa bao câu hỏi cần phải có câu trả lời. Câu trả lời gần với sự thật hơn cả, tiệm cận được với chân lý hơn cả thì cũng lại phải cậy vào thời gian.
Thời gian đã xóa nhòa biết bao những điều cứ ngỡ như mãi có giá trị bỗng vỡ tan như bong bóng xà phòng trẻ con thổi. Cùng với những bong bóng trẻ con chơi đó, lại nổi bật lên những giá trị không sợ sự khảo nghiệm nghiêm khắc của lịch sử.
Những giá trị đích thực không sợ sự khảo nghiệm ấy thì như vừa nói, “không bỗng dưng nảy mầm, nhú hoa. Những chiếc rễ của mỗi tư tưởng đều cắm sâu vào một quá khứ dài lâu. Khi chúng đơm hoa, thời gian đã chuẩn bị cho mùa nở…”6
Vậy là, nhằm xoá bỏ một nền văn hoá phải viện đến thời gian để đủ làm bật gốc trốc rễ. Mà để phục dựng một nền văn hoá bị đập phá rồi tái tạo, hồi sinh và đâm hoa kết trái cũng phải cậy đến thời gian. Những Festival, giỏi lắm cũng chỉ làm nên những bong bóng nhiều màu, rồi cho thổi bay lên để khoe sắc dưới ánh mặt trời hoặc ánh đèn.
Văn hoá không thể làm ra từ những quả bong bóng xanh đỏ tím vàng, cho dù chúng vui mắt. Văn hoá phải khởi phát từ nguồn cội và thấm đẫm trong đời sống tinh thần của một dân tộc, tạo nên bản lĩnh của dân tộc đó. Nếu vẫn cứ chìm đắm mê muội trong ý thức hệ, lú lẫn giữa quan điểm lấy chủ nghĩa làm mục tiêu thay vìlấy độc lập cho dân tộc, dân chủ và tự do cho nhân dân, giải phóng con người, đem lại tự do cho con người làm mục tiêu, thì không thể phục dựng, hồi sinh và xây đắp văn hoá.
Chính vì thế mà thật xúc động khi được chứng kiến hai sự kiện văn hoá nổi trội có sức lay động mạnh tình ý của công chúng tham dự Festival Huế năm nay. Một là màn trình diễn nghệ thuật đường phố độc đáo và rất đúng lúc. Tiếp đó là triển lãm tranh vẽ về Trịnh Công Sơn và đêm nhạc kỷ niệm 15 năm ngày mất Trịnh.
Nổi trội ở chiều sâu văn hoá thấm đẫm tính nhân văn của con người Việt Nam truyền thống đang mạnh bước đi vào hiện đại, vừa tự khẳng định bản sắc dân tộc vừa nhạy bén chọn lọc để tiếp nhận thành tựu văn minh của thế giới. Nét nổi trội ấy còn được khẳng định bằng sức mạnh cái tôi sáng tạo trong bản lĩnh văn hoá của chính mình, riêng mình.
Vì, nếu không có cái riêng của mình thì người nghệ sĩ chẳng là gì cả. Để rồi nổi trội ở trách nhiệm của người nghệ sĩ với cuộc đời, với dân tộc, hai cái đó gộp lại trong khái niệm tổ quốc thiêng liêng.
Bởi thế mới “từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”.
Để tựa vào cảm thức cội nguồn dân tộc mà trở lại với Trịnh, với ca từ của Trịnh, với giai điệu của Trịnh, với sáng tạo độc đáo có một không hai của dáng dấp thiên tài trong người nghệ sĩ lớn ấy để mà suy ngẫm về dấu ấn Trịnh Công Sơn đặng cố viết lấy đôi dòng không thể không có về Festival Huế.
Xin được nhắc điều vừa dẫn, trước khi tìm về dấu ấn Trịnh Công Sơn thì người Huế và những du khách trong, ngoài nước tham dự Festival đã bắt gặp một dấu ấn khởi đầu đầy bất ngờ, rất xúc động và quá tuyệt vời nằm ngoài kịch bản của ngày khai mạc Festival Huế ngay tại bờ Nam cầu Trường Tiền. Cuộc trình diễn của nhóm nghệ sĩ Viet Art Space gồm Lê Nguyên Mạnh, Maxime Lacino (Pháp), Lý Trực Sơn, Nguyễn Văn Hè, Phạm Chí Líp, Trần Nhật, Philip Pham trong tiết mục nghệ thuật biểu diễn đường phố (Performance Art) với ý tưởng “Nỗi đau của những con cá” về tình trạng cá chết ở vùng biển miền Trung.
Quả là như một sự “sắp đặt”! Trong cái nóng oi nồng vì tức dông, bầu trời không sao ném xuống nổi vài hạt mưa, cũng không có lấy chút gió biển mặc dầu nơi tôi đứng chỉ cách cửa Thuận vài cây số theo đường chim bay, vẫn cứ như thoang thoảng mùi biển. Vâng, biển.
Nhưng tuyệt đối không phải là “Biển nhớ”! Không hề có chuyện “biển có bâng khuâng gọi thầm” để rồi “đàn lên cung phím chờ / sầu lên đây hoang vu” trong ca khúc bất hủ của Trịnh. Mà thật là tai ác, chỉ thoang thoảng mùi cá biển chết. Nói cho thật sòng phẳng thì không phải là “ngửi” thấy mùi biển chết mà là bị ám ảnhbởi cái mùi chết chóc ấy, “mùi Formosa”, “mùi Trung Quốc”! Tai ác hơn lại là mùi thối.
Hãy chỉ trích ra đây vài ý kiến của một số nhà khoa học đã công bố “thanh thiên bạch nhật rõ ràng cho coi” đủ để phơi ra cái mặt vô cảm cố tình lẩn tránh cái mùi Trung Quốc ấy: “chất có khả năng giết hàng loạt cá biển trên một diện rộng như thế phải là chất kịch độc như kim loại nặng và kể cả chất phóng xạ. Kim loại nặng có khối lượng riêng lớn nên khi bị phát tán sẽ dần chìm xuống dưới nước sâu, khiến cá sống ở tầng đáy ngộ độc và chết…
Có những bằng chứng vững chắc và đáng tin cậy để kết luận rằng hiện tượng cá chết hàng loạt dọc duyên hải miền Trung là do chất ammonia ở trong nước thải do nhà máy Formosa xả ra biển qua đường ống ngầm… Ammonium (sinh ra, với lượng nhỏ, từ ammonia) được phát hiện ở nồng độ vượt tiêu chuẩn cho phép ở Lăng Cô (khoảng 0,4 mg/L), phù hợp với dòng hải lưu và với nồng độ ammonia có thể có trong nước thải từ tiến trình luyện than coke của nhà máy luyện thép Formosa (có thể lên đến 668 mg/L). Cá rất nhạy cảm với ammonia; cá nước ngọt có thể chết ở nồng độ 0,2 – 0,5 mg/L và cá nước mặn có thể chết ở nồng độ thấp hơn…
Không chỉ thế, đầu tháng 5/2016, tương tự như người dân ở bốn tỉnh miền Trung Việt Nam, những người dân Phi Luật Tân sống ở gần đảo Pag-asa (Thị Tứ), một hòn đảo gần ở vùng biển phía Tây Phi Luật Tân, cho biết họ kinh hoàng nhìn thấy hàng hàng lớp lớp các loài sinh vật biển chết, trôi dạt đầy các bờ. Thủ phạm cũng không khó tìm: chính các tàu cá giả dạng của chính quyền Trung Quốc đã đến gần, đổ hàng tấn hóa chất độc xuống nhằm hủy diệt môi trường, nhằm triệt hạ đường sống của ngư dân ở đây.
Lời tố cáo chính thức được phát đi trên trang Elitereaders, cho biết hành động hủy diệt này của Trung Quốc là có chủ ý rõ ràng. Khi môi trường của khu vực này bị hủy diệt, tức đời sống và nền kinh tế của dân cư chung quanh đó tê liệt và sợ hãi, sẽ khiến họ rời bỏ ngư trường. Đảo và biển sẽ bị bỏ hoang. Sau đó, Trung Quốc sẽ tiến vào bất ngờ tiến vào kiểm soát, và thiết lập căn cứ quân sự ở đó…
Đến ngày 4/5 thì nước biển màu đỏ nâu nổi rõ, xuất hiện dài đến 1,5km ở Bố Trạch – Quảng Bình. Dân chúng hoảng sợ, các quan chức thì chết lặng với hiện tượng mới này, không tìm ra cách đối phó. Đồng thời ở Thừa Thiên – Huế, cá nuôi nước biển cũng chết dần hàng loạt, bí ẩn. Có phải những thùng độc chất được đục thủng và cho chảy dần, thả dưới lòng biển, tương tự như ở đảo Pag-asa của Philippine đã bắt đầu có tác dụng?
Cứ như thể các nhà khoa học cung cấp chất liệu của sự phẫn nộ cho cảm nhận của nhà nghệ sĩ để dâng trào trên trang nhạc “Sóng về đâu”:
“Biển sóng, biển sóng đừng xô tôi
Đừng cho tôi thấy hết tim người”!
Ai đó sẽ cho rằng người viết tuỳ tiện gán ghép một cách khiên cưỡng hình tượng nghệ thuật với sự dung tục của chính trị vốn “phù du” như nhận định của Einstein.
Nhưng xin nhớ, sức thăng hoa của tác phẩm nghệ thuật đích thực khó gò vào bất cứ một khuôn thức dung tục nào. Chính Trịnh Công Sơn đã viết: “Có những câu hát một thời đã sống, đã lãng quên và sống lại. Một tác phẩm không bị lãng quên thường được mở rộng để đi đến chốn không bờ bến của những giá trị dường như huyễn hoặc. Con người bị lãng quên là kẻ đã tự đánh mất mình để rồi xoá nốt mình trong trí nhớ của kẻ khác. Cũng như thế, có những dòng nhạc của môt đời người đã đứng ngoài và cao hơn số phận của người đó”. Xin chen vào một câu: trong “Nghĩ về một dự cảm thiên tài” người đang viết bài này đã trình bày khá kỹ về “giá trị của tác phẩm do họ tạo ra đạt tới tầm vóc vượt xa dự định sáng tác của chính họ”. 7
Khi Trịnh hát về biển thì đâu chỉ là biển, mà là
“tình yêu như biển, biển rộng hai vai
Tình yêu như biển, biển hẹp tay người”
Để rồi
“Bốn mùa như gió
Bốn mùa như mây
Những dòng sông nối đôi tay
Liền với biển khơi…
…Con sông là thuyền
Mây xa là buồm
Từng giọt sương thu hết mênh mông”
Để rồi
“Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại”
Và để rồi
“Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà”
Thế mà
“Từng lời tà dương là lời mộ địa
Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”
Thế mà
“Vì vàng phai xưa từng mấy độ
Rộng nghìn thu một tà dương ấy…
Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù
Dòng sông nắng cho bờ bến rộng”
Ai dám bảo đó chỉ là “mạch nguồn của một nguồn gợi cảm nhẹ nhàng riêng” như chính tác giả nói về mình? Có chuyện đó khi Trịnh viết:
“Ôi dòng nước mắt trong tim
Chảy lai láng vào hồn
Nửa đêm gọi đến mình”
Nhưng lại phải nhận cho rõ trong “nguồn gợi cảm cái nhẹ nhàng riêng” đó cũng là dông bão của cuộc đời, là thiên thu chuyển động để mà
“Trong khi ta về lại nhớ ta đi
Đi lên non cao đi về biển rộng”
Đi, về với cảm thức của cái “trăm năm vô biênchưa từng hội ngộ” ấy thật là dữ dội.
Dữ dội khi “đêm thấy ta là thác đổ”, “đợi gió vô thường lên” trong khi “núi đứng quanh năm/đất muôn đời nằm / riêng ta rộn ràng / đứng giữa thiên nhiên”, để rồi “trời cao đất rộng/một mình tôi đi / một mình tôi đi / đời như vô tận / một mình tôi về / một mình tôi về với tôi”, để mà “ta lắng nghe ta / nghe sóng âm u dội vào đời buốt giá” nhưng rồi cũng từ trong buốt giá ấy, người nghệ sĩ tự nhận ra rằng “đời ta có khi là đốm lửa / một hôm nhóm trong vườn khuya”, để “ta nhìn ta giữa trời hư không” rồi tự nhủ rằng “đời có bao lâu mà hững hờ”!
Phải chăng trong”mạch nguồn của một nguồn gợi cảm nhẹ nhàng riêng” của Trịnh đã chất chứa những dữ dội của tâm hồn Huế với cái hình hài gầy guộc của một tài năng lớn, rất lớn đang suy tư về về vận mệnh, về trách nhiệm với cuộc đời, về thân phận con người giữa cõi nhân gian đầy bão táp
“trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
rọi suốt trăm năm một cõi đi về”
Quả thật tầm vóc của hình tượng nghệ thuật trong ca từ và giai điệu mà cuộc đời đang đón nhận đã vượt xa cảm hứng sáng tác của Trịnh Công Sơn lúc anh ngồi trước khung kẻ dòng, ghi nốt nhạc và tuôn trào thi tứ.
Đừng quên rằng, trước khi là nhạc sĩ, Trịnh là một tài thơ lớn. Ở đó, tinh tế dịu dàng hoà quyện với trầm hùng dữ dội của thác đổ, của rừng cháy, của sóng bạc đầu để rỏ giọt lệ thiên thu. Làm sao phân biệt nổi giữa tài năng thơ và tài năng nhạc của Trịnh Công Sơn? Mà phân biệt để làm gì cơ chứ. Bởi lẽ, “Thơ vẫn là cuộc lịch nghiệm Riêng và Chung, của Thời đại và Lịch sử” như thẩm bình chí lý của Thiền sư Tuệ Sỹ8.
Những rung cảm nghệ thuật trong Trịnh Công Sơn được tượng hình lên trong ca từ và giai điệu, bắt được nhịp thở của thời đại, của đất nước, của con người trong những biến động dữ dội. Mà cũng chính vì thế, sáng tạo nghệ thuật thiên tài ấy đã nhận được sự đồng vọng của triệu triệu con tim, những lời đồng vọng từ non sông đất nước, vượt cao lên mọi hạn hẹp trói buộc của ý thức hệ đang làm vẩn đục tư duy nghệ thuật và cảm hứng sáng tạo, đẩy tới sự băng hoại cảm thức nhân văn, xói lở nền tảng văn hoá vốn được xem là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Trịnh Công Sơn nhận được sự đồng vọng ấy vì như anh gọi:
“Tìm tôi đi nhé đừng bối rối
Đừng mang gươm giáo vào với đời
Tôi như ngọn đèn từng đêm vơi cạn
Lửa thắp lên một niềm riêng”
Chính cái riêng ấy khiến Trịnh đến được với cái chung. Càng riêng bao nhiêu thì càng đến được với cái chung bấy nhiêu. Chẳng thế mà lời ca của Trịnh
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì, em biết không?
Để gió cuốn đi
Để gió cuốn đi”
đã trở thành một triết lý nhân văn được cuộc đời trân trọng và tha thiết đón nhận. Sức mạnh của tác phẩm nghệ thuật đích thực có sức công phá mãnh liệt cái xấu, những thế lực đang chặn bước đi tới của con người, của xã hội, của lịch sử hướng tới cái tốt, cái đẹp. Công chúng đón nhận Trịnh Công Sơn là vì lẽ ấy cho dù người nghệ sĩ thiên tài ấy
“Không xa trời
và cũng không xa phận người
Không xa một ngày
và cũng không xa một đời”
để rồi
“Đàn chim bên sông chiều chiều tung cánh
Người ngồi bên bến nhớ mênh mông
[…] Ngàn dâu cố quận muôn trùng nhớ thêm”
với một mong muốn nhỏ nhoi thôi
“Một chiều có bóng chim âu bay về
Cùng dòng nước đã đi
Một lần có bóng chim quyên bên nhà
Cùng lời hót đã xa”
Bỗng trong óc tôi thoáng gợi mối liên tưởng về Tô Đông Pha với lời bình của Tuệ Sỹ từng ghi đậm dấu ấn trong suy tư của riêng mình về sáng tạo nghệ thuật. Xin được chép ra đây, thay cho cách diễn đạt vụng về lúng túng của ngòi bút bất tài:
“Bơ vơ nơi khách địa, thì tình cố quận, và tình tha hương cả hai đều thắm thiết. Nhưng cố quận thì đâu không là cố quận, và tha hương thì nơi nào chẳng lại là tha hương. Đứng bên này mà vọng đến bên kia, con mắt cứ mỏi mòn trông đợi. Thế là lao tâm khổ tứ, là quằn quại hình hài. Nơi ngọc đường kim mã, mộng bình sinh đã cực đỉnh tang bồng.
Nói năng thì như gươm Tần xẻ tóc, và rủ hai tay xuống thì lịch sử trào ra. Đẩy một vạn người bước tới, kéo một vạn người bước lui. Lên núi thì núi rừng cũng biến thành biển lửa. Đưa con mắt hùng thị bốn phương trời, bỗng thấy nước lũ Trường Giang đổ xuống:
Giang sơn như hoạ,
Một thời hào kiệt anh hùng.
Ngọc đường kim mã bỗng vang lên những tiếng gào thét đoạn trường. Chim Hồng giật mình tung cánh bay cao. Biết nơi nào là cố quận, nơi nào là tha hương, để chim hồng đậu lại.”7
Mượn dấu ấn Trịnh Công Sơn để nói về văn hoá, và riêng về Festival Huế cũng là cách tránh bớt đi những thấp thỏm đợi chờ khi đã biết rằng sự thấp thỏm đó là có căn nguyên. Khi nói dấu ấn Trịnh Công Sơn thì cũng đừng quên rằng, cùng với thơ và nhạc, Trịnh còn là một tài năng lớn về hội hoạ.
Ngưởi tổ chức cuộc triển lãm tranh vẽ Trịnh Công Sơn trong ngày khai mạc Festival Huế, nhà nghiên cứu và thẩm bình hội hoạ Nguyễn Trọng Chức đã xúc động nói với tôi về tài năng hội hoạ của Trịnh. Anh cho biết một nhà phê bình và sưu tầm tác phẩm hội hoạ người Singapore, nơi quy tụ được nhiều bức tranh vào loại giá trị nhất của Việt Nam, đã sững sờ trước những bức hoạ của Trịnh mà ông ta lần đầu chiêm ngưỡng.
Vì thế, sẽ là không quá chủ quan và phiến diện khi nghĩ thầm rằng triển lãm tranh vẽ về Trịnh Công Sơn và đêm nhạc tưởng niệm mười lăm năm ngày mất người Huế nhạc sĩ ấy là một điểm nhấn văn hoá đúng nghĩa.
Vâng, đúng nghĩa. “Người tử tế” Trần Văn Thuỷ, tác giả của “Chuyện tử tế” nắm chặt tay tôi tại phòng tranh: “Này anh TL, anh có đồng ý với tôi, ngoài Trịnh Công Sơn ra, tôi chưa thấy một người nghệ sĩ nào giành được sự ngưỡng mộ và tình yêu thương của công chúng và của riêng giới văn nghệ sĩ từ Nam ra Bắc như thế này”. Quả đúng vậy.
Mà đâu chỉ từ Nam ra Bắc, trong phòng tranh đầy ắp những tác phẩm vừa sáng tác nhân kỷ niệm 15 năm mất người nghệ sĩ tài hoa ấy để kịp ra mắt trong ngày khai mạc Festival Huế 2916 có tranh của những người nước ngoài vẽ Trịnh. Khi bức tranh vẽ Trịnh Công Sơn của Alexandre Slim Mehiri, người Canada, được đạo diễn Nguyễn Quang Dũng chiếu trên màn hình lớn của đêm nhạc Trịnh, ông Đại sứ Canada David Devine ôm chầm lấy tôi đang ngồi cạnh. Ông chìa ngón tay cái biểu thị sự chào mừng trong giọng nói hân hoan: “Tranh của Slim đấy, bức tranh được chào đón và đánh giá cao. Thật tuyệt”.
Tiện dịp, tôi quay sang nói với nhà thơ Huế từng giữ trọng trách về văn hoá: “Anh thấy đấy, ông Đại sứ Canada đã dự đêm nhạc Trịnh tại Nhà Hát lớn Hà Nội. Hôm nay cả hai ông bà cùng bay vào đang ngồi cạnh chúng ta. Ông bà ấy thích nhạc Trịnh đến vậy đấy. Và còn một lý do khiến ông bay vào Huế vì ông muốn nói đôi lời cám ơn ban tổ chức đã cho trưng bày hai bức tranh của một người Canada hâm mộ Trịnh Công Sơn nên đã vẽ bức tranh được công chúng đón nhận và đánh giá cao. Họ “làm” văn hoá như vậy đấy anh ạ”.
Tối hôm ấy, khi từ đêm nhạc trở về khách sạn, bên chiếc bàn ăn với những cốc bia sủi bọt vàng và những ly rượu vang đỏ, ông bà David thao thao bất tuyệt về nhạc Trịnh, về buổi triển lãm tranh vẽ Trịnh với bà Đại sứ Israel và ông chồng bác sĩ đưa cả hai con bay vào Huế sau khi đã có dịp thưởng thức nhạc Trịnh ở Hà Nội. Càng về khuya, câu chuyện càng rôm rả, giữa những người khách nước ngoài tiếp tục đến, trong đó có những vị của Tổ chức UNESCO trao đổi với những nghệ sĩ tài hoa Trần Mạnh Tuấn, Thanh Bùi, Tuấn Mạnh…
Ông Đại sứ Canada chìa tay cho tôi biểu thị sự tán đồng khi tôi chỉ vào nghệ sĩ piano Tuấn Mạnh với bài Diễm Xưa được trình diễn theo lối hiện đại trong nét thăng hoa từ “Sonata ánh trăng” của Beethoven để nói rằng, được thưởng thức giai điệu Diễm Xưa quá quen thuộc với cách trình diễn mới mẻ rất tài hoa và bão táp của nghệ sĩ piano trẻ tài năng này khiến tôi vững tin Trịnh Công Sơn sẽ sống mãi với thời gian bởi những tâm hồn trẻ, sức sống trẻ biết cách hiện đại hoá truyền thống trong sáng tạo nghệ thuật.
Ai đó kể ra tên những ca sĩ đã chinh phục được khán thính giả bởi sự tìm tòi sáng tạo trong đêm diễn. Họ đã thổi vào không gian trầm mặc của cố đô một luồng gió mới. Đương nhiên, không thể không có chút ngỡ ngàng trước cái mới. E rằng có người phải khoác thêm chiếc áo trước ngọn gió mà họ cảm thấy hơi sỗ sàng chăng? Vì thế, cũng không thể không nói rằng, đã có những thẩm bình ngụ ý phê phán của một số công chúng Huế về đêm nhạc Trịnh. Có ý kiến khá nặng nề rằng người ta đã “giết” Trịnh Công Sơn bởi những cách tân quá lố trong cung cách trình diễn ồn ào gào thét khi mà nhạc Trịnh chỉ thích hợp với tiếng đệm trầm tĩnh của chiếc đàn ghita thùng! Có người gọi đích danh ca sĩ mà họ cho là “thợ hát” vì chỉ có động tác bên ngoài sáo mòn mà thiếu chất lửa bừng cháy bên trong.
Điều này dễ hiểu. Thị hiếu thẩm mỹ là sự kết đọng dài lâu để đủ trầm tích vào đáy sâu tâm hồn của cả một lớp người. Xin hãy để cho cuộc sống với sự can dự của thời gian mà định hình sự thích và không thích, mà củng cố thêm hay làm nhạt bớt đi, dẫn đến những thay đổi của thị hiếu. Bởi vì “Thời gian làm cho mọi niềm tin nảy sinh, lớn lên, chết đi, chính nhờ thời gian, những niềm tin đạt được sức mạnh và cũng qua nó, những niềm tin mất đi sức mạnh của nó”9. Đấy là chưa nói đến một nhân tố đáng gờm khác mà học giả Trần Quốc Vượng đã cảnh báo: “tâm lý sợ những cái gì không chính thống”!
Với nỗi “sợ” ấy thì làm sao có thể “thấy trên lá khô một dòng suối”?
Đem cái nỗi sợ cố hữu, sản phẩm của một xã hội trì trệ bởi tập quán và thói quen ngàn đời được làm dày thêm, thô bạo hơn mà cũng lì lợm hơn của một chế độ toàn trị phản dân chủ thì làm sao từ “từng lời bể sông” mà “nghe ra” được “từ độ suối khe” đặng mà trở về được với cội nguồn dân tộc, vứt bỏ những áp đặt lai căng về hệ tư tưởng, lừa mị cưỡng bức về lối tư duy.
Thật khát khao tìm thấy một dòng suối để tắm mát tâm hồn đã bị khô cằn khi tự do tư tưởng bị tước bỏ. Và rồi từ dòng suối đó “những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi”! Làm sao để văn hoá trở lại được với chức năng cao cả ấy? Bao giờ?
Sài Gòn, ngày 8. 5. 2016
T. L.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét