Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015

Nỗi nhục ngàn năm!

Tác giả : Vũ Ngự Chiêu

Lễ Đầu Hàng Của Ông Cháu Mạc Đăng Dung 

(30/11/1540-29/4/1541)



tranh LeMinhPhong-bien lay
Biển lẫy - Tranh Lê Minh Phong
Lễ Đầu Hàng 30/11/1540:
Ngày 30/11/1540, Đăng Dung bàn giao chính quyền cho Phúc Hải (Mo Fu-Hai, 8/3/1540-5/6/1546), rồi cùng Văn Minh và khoảng trên 40 thủ hạ tới Trấn Nam Quan, tự trói, xõa tóc, đi chân đất vào doanh trướng quân Minh, quì lạy xin cắt đất, làm lễ đầu hàng.
Tên Trấn Nam Quan [Chennanguan] xuất hiện lần đầu trong chỉ thị của Mao Bá Ôn gửi Nguyễn Văn Thái ngày 24/3/1539. (Ming shi-lu, Shizong, (Wade, NUS data base), juan 221:1b-7a). Hiện nay đổi làm Hữu Nghị Quan. Ranh giới là một đường gờ sất chạy ngang con lộ từ Đồng Đăng qua Bằng Tường. Hai bên đường gờ sắt có trạm kiểm soát của công an biên phòng. Trụ sở hành chính của Trung Hoa nằm trên một triền núi, cách gờ sắt khoảng 800 mét tới 1 cây số. Trụ sở biên giới của Việt Nam ở phía nam gờ sắt, với khoảng cách tương tự. Mùa Xuân năm 2005, vợ chồng tôi cùng một số thân hữu đã chụp hình kỷ niệm tại mốc cây số 0. Thời gian này, du khách Trung Hoa khá đông. Những công ty du lịch trên phố cũ Hà Nội đều quảng cáo nhận làm thủ tục xin visa [giấy nhập khẩu] “Trung Quốc” với lệ phí nhỏ.
Một số nhạc sĩ, ký giả thích gọi Trấn Nam Quan là Ải Nam Quan, với hàm ý sai lạc rằng ải này do các triều đại quân chủ Việt xây dựng. Thực ra, cái gọi là “Ải Nam Quan” nằm trong lãnh thổ Trung Hoa, do nhà Minh xây dựng và tu bổ năm 1539-1540 khi tổ chức lễ cắt đất, đầu hàng của ông cháu Mạc Đăng Dung. Trước đó, ải này có tên Pha Lũy hay Ba Lủy, cách Khâu Ôn (Lạng Sơn), “ba ngày đường.” Theo Minh thực lục, ngày 1/10/1427, Liễu Thăng và khoảng 70,000 quân Minh tới Pha Lũy. Ngày 2/10, tới Ải Lựu. Hôm sau, 3/10, tới ải Kê Lăng, hay Chi Lăng, đổi tên thành “Trấn Di Quan.” Ngày này, Liễu Thăng và khoảng 100 kỵ mã vượt Chi Lăng, tiến về phía nam. Bị danh tướng Trần Nguyên Hãn vây đánh ở chân núi Mã Yên (tức Đảo Mã Pha, hay Đèo Đổi Ngựa). Liễu Thăng và thủ hạ bị ràn sát, chết vì vết gươm chém hoặc lao bay. Khí giới, khiên mộc và ấn tín đều bị tịch thu. Quân Lê dùng chiến lợi phẩm này đề binh vận Mộc Thạnh, Đàm Trung, và quân Vân Nam, lúc ấy mới kéo tới châu Thủy Vỹ, Tuyên Quang. Mộc Thạnh và Đàm Trung phải rút chạy về Lâm An, rồi Côn Minh. Chu Kỳ Trấn ân xá Mộc Thanh, nhưng Đàm Trung bị ngũ phủ, lục bộ và Đô sát viện kết tôi cố tình trì hoãn trước quân địch, bị cách làm thường dân, tịch thu tài sản, hạ ngục, cùng Vương Thông, Trần Trí, Mã Anh, Phương Chính, Lý An, thái giám Sơn Thọ (tội dung dưỡng địch), và Mã Kỳ (tội tạo cơ hội cho man di nổi loạn). Sáu tướng khác - gồm Thái Phúc, Chu Quảng, v.. v..- bị tử hình vì kêu gọi quân viễn chinh Minh đầu hang. Chu Quảng bị thêm tội đích thân mở cổng thành Xương Giang ngày 28/9/1427. Ngoài ra, các tướng trên còn tố cáo âm mưu nổi loạn của hơn 9,000 tù binh, khiến tất cả đều bị giết. Ngày 29/12/1427, Thái Phúc được lệnh cầm đầu toán hơn 13,000 tù, hàng binh Minh, vượt sông Hồng về Nam Ninh. Mang theo 1200 lừa ngựa. Phần thủy quân, Sơn Thọ và Mã Kỳ đưa về Khâm Châu. Riêng Vương Thông rời Bồ Đề ngày 3/1/1428. Vương Thông cũng là người cho hộ tống sứ đoàn Lê Thiếu Dĩnh đi Bắc Kinh, mang theo biểu đầu hang và cầu phong của Trần Cảo, Lê Lợi, do Nguyễn Trãi soạn thảo. Những người muốn có một kiến thức vừa phải về thời Minh thuộc và 12 năm kháng Minh gian khổ của Lê Lợi và chiến hữu. nên đọc qua Quân Trung Từ Mệnh tập của Nguyễn Trãi—tức thư từ trao đổi giữa Lê Lợi và quan tướng Minh. Cũng nên thêm, theo Minh thực lục, từ ngày 8/2/1418  Lý Bân đã sai Chu Quảng tiến vào Lam Sơn tàn phá, giết chóc. Vi phạm những tội ác khó tha thứ như đào mộ phụ thân Lê Lợi lấy hài cốt. hay bắt bớ phụ nữ, trẻ em bán làm nô tì. Những tội ác chiến tranh của Chu Lệ và thuộc hạ mới cao tày trời, vượt qua cả 20 tội cha con Quí Ly, và nhiều lần tái diễn từ thời Lưu Triệt (Hán Vũ Đế, 140-86 TTL) “tru Lữ Gia, lập cửu quận” [giết Lữ Gia, lập chin quân] năm 112-110 TTL.
Tại hành dinh mới được dựng lên cho lễ đầu hàng, bọn Dung đi chân đất, bò vào, quì bái và trình nộp biểu đầu hàng. Tới Tổng Hành Dinh, chúng cũng bò vào, theo đúng lệ qui phục.
Chúng khai báo về lãnh thổ, quân đội, dân sự, quan lại, và xin được xét xử.
Chúng tuyên bố bốn [4] động châu Khâm thuộc vào nội địa.
Hai [2] đô Như Tích [Ru Xi] và Chiêm Lăng [Tie Liang], bốn [4] động Tê Phù [hay Tư Lẫm, Si Lin], Kim Lặc [Jin Le], Cổ Sâm [Gu Sen], Liễu Cát [Liao Ge], cho nội thuộc Khâm Châu.” Gồm cả Phân Mao Lĩnh nơi vua quan Trung Hoa ngủ mơ thấy Mã Viện trồng trụ đồng 1,500 năm trước. Và, năm 1540, Bố chính sứ ti Quảng Đông/Quảng Tây yêu cầu Chu Hậu Tổng (Thế Tông, 27/5/1521-23/6/1567) đòi lại phần đất 300 lý của châu Khâm đã bị dân An Nam lấn chiếm—từ Phân Mao Lĩnh tới Đồng Đăng, tức trụ đồng Mã Viện..

Xin được tiếp tục cai trị, và giữ ấn cũ cho đến khi có lệnh mới.
Bá Ôn bèn tuyên dương uy đức Hoàng đế, và cho lệnh bọn Dung trở lại quê hương, chờ lệnh.

B. Bá Ôn và những người khác họp bàn về tờ biểu lên triều đình.
1. An Nam đang sợ hãi sức mạnh của triều đình nên tự chế và muốn chuộc tội.
2. Về Lê Ninh, việc tự nhận là giòng dõi vua Lê chẳng có gì chắc chắn, khó tìm được bằng chứng.
3. Xin đề nghị: Tha tội cho Dung, hủy bỏ các chức tước cũ [của nhà Lê], và nghiên cứu việc phong chức tước mới.

C. Biểu đầu hàng của Dung:

Tôi kính cẩn tâu trình rằng họ Lê, những người cai trị cũ của An Nam, đã liên tục gặp đại họa; người này nối tiếp người kia qua đời. Rồi Lê Khoáng được cử lên tạm coi việc nước. Nào ngờ chỉ một thời gian ngắn sau, Khoáng cũng bị đau nặng, rơi vào tình trạng chờ chết. Trong tình trạng chờ chết, [Lê Khoáng] đã sai lầm khi muốn trao phó cho tôi tạm coi việc nước. Và tôi, kế đó, truyền lại cho Đăng Doanh, con tôi. Chúng tôi không dâng biểu xin phép, và quả thực chúng tôi quá táo bạo, tự tung tự tác.
Mặc dù triều đình xa cách cả 10,000 dặm [khoảng 5,000 cây số] và thật khó khăn để xin cố vấn, nhưng tội ác của chúng tôi thấu trời xanh. Cách nào để khoan dung cho sự mù lòa của chúng tôi.
Năm Gia Tĩnh thứ 17 [1538-1539], cha con tôi gửi Nguyễn Văn Thái và những người khác [như Phạm Văn Nghị ngày 22/4/1538] dâng biểu đầu hàng, và xin triều đình quyết định. Tuy nhiên, sự trung thành sâu, dày của chúng tôi không đủ chuyển lòng Hoàng đế.
Chúng tôi ngày đêm lo lắng. Ngày 3/3/1540, con trai tôi là Đăng Doanh lo lắng đến chết. Dân chúng theo thông lệ, cử con trưởng Đăng Doanh là Phúc Hải tạm quyền việc nước.
Tài liệu Lê ghi Doanh chết ngày 22/2/1430, tức 15/1 Canh Tí. ĐVSK, BKTB, XVI:3a, Long & Lâu (2009), 3:149. Lê Quí Đôn và Minh thực lục ghi ngày 3/3/1540, tức 25/1 Canh Tí.

Tôi lo ngại về cả hai lỗi lầm trong việc truyền ngôi và nhận ngôi, và tình trạng không theo đúng phép tắc. Nếu chúng tôi làm theo ý dân, tội lỗi sẽ càng to hơn, và không cách nào sửa chữa được. Bởi vậy, tôi và cháu nội tôi, Phúc Hải, cùng tạm coi việc nước trong khi chờ lệnh.
Thời gian ngắn sau, các đại tướng chỉ huy cuộc chinh phạt và quan quân áp lực trên lãnh thổ. Như con lợn trong chuồng, tôi phải làm gì đậy? [What was I, like a caged pig, to do?] Tôi chỉ ngày đêm lo lắng cho sự an nguy của dân chúng.
Thật may mắn, tôi được lời của Tổng Hành Dinh và được nghe lời của Trời. Chúng xuyên chảy qua chúng tôi với độ lượng vô bờ bến khiến tôi ứa nước mắt. Tôi xin thú nhận rằng chính tôi, Đăng Dung, đã phạm tội, còn dân chúng hoàn toàn vô can. Chính tôi là kẻ mà lòng độ lượng của triều đình không thể tha thứ, vậy mà dân chúng lại sắp sửa bị trừng phạt. Cách nào tôi cố kéo dài thêm ít hơi thở, với cái giá mà dân chúng phải chịu đựng. Bởi vậy, dù đang ở quê hương, tôi hướng về phía bắc của Thánh Đế, sai bọn thuộc hạ thấp hèn Nguyễn Như Quế, Đỗ [Thế] Thanh, Đặng Văn Trị cùng các kỳ lão Lê Thuyên [Li Qian], học giả Nguyễn Kinh Tế, chúng tôi tự trói mình, ngày 30/11/1540 vượt biên giới, bái lậy xin hàng.
Đăng Dung tôi muốn tự mính bò tới kinh đô để bái kiến thiên tử và xin ban tội chết. Nhưng tuổi già, sức yếu, tôi không thể bò tới đó. Cháu đích tôn của tôi thì đang cư tang, không thể đi xa. Vì vậy tôi sai cháu tôi là Mạc Văn Minh, và các thượng thư cao tuổi Hồ Tam Tĩnh, vàĐỗ Chí Khanh cùng tiểu mục Nguyễn Như Quế, từng phục vụ triều trước, đến kinh đô nhận hình phạt.
Tôi hy vọng rằng với lòng độ lương bao la, Hoàng Đế sẽ có thiện cảm và ban cho tôi cơ hội thay đổi. Lãnh thổ và dân chúng đều thuộc triều đình [The territory and the people all belong to the Court].
Tôi hy vọng rằng Hoàng thượng sẽ nghĩ đến tình cảm của man di và xét xử lưu tình cho chúng tôi được trở thành một phần của nội địa [part of the within] và từ lâu tuyên bố là chư hầu.
Trả đất Khâm Châu:
Mới đây tôi được biết rằng án sát Li Xi Yuan [Lê Huy Uyên] đã đòi hai đô Như Tích và Chiêm Lăng, cùng bốn động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát. Nếu quả thật như thế, tôi xin tuân lệnh.
Cống lễ: Sẽ đóng góp số cống lễ [20 năm] còn thiếu.
Cống tượng hình người bằng vàng, bạc, giống các triều trước.
Xin giữ lại ấn tín cũ, nhưng không sử dụng bừa bãi.
[Ngày 17/5/1541, đúc xong ấn bạc An Nam Đô thống sứ ti, Đô thống sứ; Shizong (Wade, NUS data base: 2005), juan 248:16b-17a; MSL, vol 182, pp 4996/97]

D. Biểu của Nguyễn Như Quế:
Đăng Dung thực sự nhận được sự truyền ngôi của Lê Khoáng.
Nhà Lê đã dứt, xin ân xá cho Dung.

Sau lễ đầu hàng ngày 30/11/1540, bọn Bá Ôn cho Đăng Dung về nước đợi lệnh. Văn Minh cùng Hồ Tam Tĩnh [Xu San-shang], Nguyễn Văn Thái, Nguyễn Như Quế [Ruan Ru-gui] tất cả 29 người  lên Bắc Kinh, mang theo biểu đầu hàng của Dung. Bọn Nguyễn Như Quế cũng dâng một biểu riêng, xin ban ơn cho Dung. Bọn Quế nói thêm về vùng lãnh thổ dâng cho Hậu Tổng: hai [2] đô Như Tích [Ru Xi], Chiêu Lăng [Tie Liang] và bốn “động” Tê Phù hay Tư Lẫm [Si-lin], Kim Lặc [Jin-le], Liễu Cát [Liao Se], Cổ Sâm [Gu Sen] tức là đất “trụ đồng,” mà theo huyền thoại là nơi Mã Viện [Ma Yuan] dựng lên thời Lưu Tú [Liu Xu] (5/8/25-29/3/57) sau khi đánh bại Hai Bà Trưng (40-43) mà sách sử Hán tộc rẻ rúng gọi là “Trưng thị [Sheng Ce],” hay “Trưng tặc.” (Ming shi-lu, Taizu, (Wade, NUS, database) juan 249:2b-3a. Shi-zong [Jiajing], juan 248:1b-5a MSL, 82, pp 4966/73; LTHCLC, 46: Bang Giao Chí, (1992), 3:203 [203-204], 217; ĐVSK, BKTB, XVI:2b, 3b, Lâu et Long (2009), 3:148-149, Giu (1967), 3:132-33; CMCB,XXVII:32-33; (Hà Nội: 1998), II:115-16). Truyện Mạc Đăng Dung trong Thông sử của Lê Quí Đôn thiếu đoạn này; Thông sử, Long (1978), tr 272 [không dịch hay tự kiểm duyệt]
Về huyền thoại trụ đồng, xem Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu, “Trụ Đồng Mã Viện: Sự đàn hồi của biên giới Đế Quốc Trung Hoa;” Hợp Lưu (Fountain Valley, CA), số 110 (Tháng 6-7/2010), tr 5-36; tu  chỉnh năm 2014, phổ biến trên hopluu.net, vietnamvanhien.net, minhtrietviet.net];cùng những bài về Trưng Vương và tài liệu cổ sử của tác giả (về Việt Thường, Nghiêu, Thuấn, v.. v..). Nên lưu ý, từ năm 1967, Đào Duy Anh [và Cao Huy Giu?] đã thay đổi quan điểm về trụ đồng đưa ra năm 1943, khẳng định nó chỉ là huyền thoại. Từ năm 2009, dân Việt, Phi-lip-pin và thế giới được chứng kiến một cuộc mạo hóa sử học khác về biển và hải đảo Đông Nam Á mà đế quốc định hướng xã hội chủ nghĩa Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa tự nhận là “lãnh thổ bất khả phân ly;” Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ, “Nhục hận biển Đông Nam Á: Kiện hay không Kiện?;” hopluu.net, vietnamvanhien.net; minhtrietviet.net.
Zhou Qufei [Chu Khứ Phi, 1100-1178], từng làm thông phán ở Quế Lâm (Quảng Tây?) đời Tống (960-1279), nằm mơ thấy Mã Viện trồng trụ đồng ở khu hang động Cổ Sâm, Khâm Châu. (dẫn trong ANCL (Uy Vũ Miếu, q I, 1961:40-41; Đào Duy Anh, “Les colonnnes de Bronze de Mã Viện;” BAVH, XXX, No. 4 (10-11/1943), p. 358 [349-360] . Zhou Qufei, Lingwai dai da [Lĩnh Ngoại đại đáp/ Trả lời từ bên ngoài các đèo núi Lĩnh] q. 8:1a; Maspéro, II. “La géographie politique;”  BEFEO, XVI (1916-1917), p. 31 [27-48]. Đại Thanh Nhất Thống Chícũng chép: “Đèo Phân Mao” [Phân Mao Lĩnh] ở động Cổ Sâm, phía tây châu Khâm khoảng 3 lí [1.246 km]. Mã Viện dựng trụ đồng ở đây. Năm 1405, Chu Lệ đã ép cha con Quí Ly trả lại 59 thôn thuộc Lộc châu (Lạng Sơn) vào lãnh thổ phủ Tư Minh [Si-ming] bao gồm một phần đất Đồng Đăng; cơ bản dựa theo câu tuyên bố của một quan chức nhà Trần rằng đã thường tiếp đón sứ giả thượng quốc hay tiễn biệt sứ đoàn tại Khâu Ôn [Qiu-wen], phía tây nam trạm giữ ngựa tại biên giới Đồng Đăng-Bằng Tường. Mingshilu, Taizu (Wade, NUS data base), juan 250:3b-9a; MSL (Zhongyang), record 264, vol 8, pp 3620/27; Taizong, juan 30:3b; 32:3a; MSL, vol 10, p 538; ĐNNTC, XXIV: Lạng Sơn, (1997), 4:8-9); ĐVSK, BKTT, VIII:47b-48a, Lâu (2009), 2:262; ĐVSKTB, BK IX:40a, The (1997), tr 518; CMCB, XII:7 (Hà Nội: 1998), I:720-721.
. Sử Lê chép là năm 1540, Mạc Đăng Dung trả lại Chu Hậu Tổng (Minh Thế Tông, 27/5/1521-23/1/1567), thêm  1 châu, 6 động (thêm hai động Yên Lãng và La Phù). Khâm Châu Chí, 1 châu. 4 động]; ĐVSK, BKTB, XVI:4a-5b, 6a; Lâu & Long (2009), 3:150-151, 152; ĐNNTC,XVIII: Quảng Yên, (1997), 4:366-368; CMCB, XXVII:31-38 (Hà Nội: 1998), II:113-120.
Minh sử thông giám kỷ sự (q.32) chép là năm 1538 Đăng Dung mới cử sứ qua nhà Minh vì đường ra biên ải bị bọn Trần Cung [Thăng], con Trần Cảo, ngăn chặn. Có lẽ dựa theo tờ biểu ngày 22/4/1538 của Đăng Doanh, do Phạm Chính Nghị dâng nộp. Thực ra, từ năm 1537, người của Đăng Dung đã tới Quảng Đông và Vân Nam. Phần lớn đều bị bắt giữ như gián điệp.

III. Quyết định của Chu Hậu Tổng:
A. Chu Hậu Tổng cho lệnh các đại thần [ngũ phủ, lục bộ, đô sát viện] thảo luận về biểu đầu hàng của Mạc Đăng Dung và biểu của Mao Bá Ôn.
1. Chấp thuận đề nghị của Mao Bá Ôn.
Trả lại đất châu Khâm.
Thành lập một chức vụ mới ở An Nam.
Thành lập qui chế cống lễ.
Tiền cống lễ hàng năm rất nặng; và phải trả bù 20 năm thiếu [từ 1515-1535].
2. Điều tra về Lê Ninh.
3. Triệt thoái ngay lực lượng kỵ mã.

B. An Nam bị hạ cấp từ một nước chư hầu xuống An Nam Đô thống sứ ti.
Mạc Đăng Dung là Đô thống sứ ti, hàm tùng nhị phẩm.
Cha truyền con nối.
16/12/1542 [10/11 Gia Tĩnh 21]: Phong Mạc Phúc Hải [Mo Fuhai] làm đô thống sứ ti [Commander of the Annam Commandery] Mingshilu, Shizong (Wade, NUS database], juan 268:3ab;
Mạc Phúc Nguyên, dưới tên Hong Yi [Hoằng Dực], được ban thưởng chức Đô thông sứ năm 1551, nhưng năm 1563 vẫn chưa lên Trấn Nam Quan hội khám. Mingshilu, Shizong (Wade, NUS database], juan 371:8ab; 521:3b;
Mạc Mậu Hợp được phong năm 1573. Các vua đầu Lê Trung hung, từ Thế Tông tới Thần Tông cũng chỉ được phong Đô thống sứ ti. Mingshilu, Shenzong (Wade, NUS database], 9:11b;
Tình trạng nội thuộc này chỉ chấm dứt ba năm sau ngày nhà Thanh chiếm Bắc Kinh; Minh Quế vương (1547-1562) ở Lâm An phong Lê Thần Tông (TTH 1643-1649, 1649-1662) làm An Nam Quốc vương; và hai chục năm sau, Khang Hy [Kangzi] (1662-1722) phong Lê Huyền Tông (1662-1671) chức ANQV. Tuy nhiên, năm 1669, do tờ trình của tổng đốc Lưỡng Quảng, Khang Hy vẫn sai sứ xuống Thăng Long yêu cầu vua Lê-chúa Trịnh nhường cho “Nguyên Thanh” [Mạc Kính Vũ] bốn châu ở Cao Bình, tức Cao Bằng đời Tây Sơn. Mãi đến năm 1677,Đinh Văn Tả mới đánh đuổi Kính Vũ khỏi lãnh địa, và nhà Thanh ngoảnh nhìn hướng khác, vì Kính Vũ bí mật thờ phụng Ngô Tam Quế, cung cấp quân lương, sau khi Quế nổi loạn ở Vân Nam.
C. Chia An Nam làm mười ba [13] tuyên phủ sứ hay lộ, kể cả Hải Dương và Sơn Nam.
Mỗi lộ có một ủy ban bình định, gồm ba người: bố chính, phó Bố chính, và phụ tá. Mạc Đăng Dung toàn quyền bổ nhiệm.
D. Hàng năm Quảng Tây phát một cuốn lịch Đại thống. Ba năm cống một lần.
E. Quảng Đông/Quảng Tây thu nhận bốn [4] động do Dung trả lại.
F. Lê Ninh giữ động Tất Mã Giang; giao cho phiên ti Vân Nam điều tra. Nếu là dòng giõi họ Lê, cho coi bốn phủ Thanh Hóa; nếu không, quên đi.
Không được mang quân đi đánh Lê Ninh [Lê Trang Tông] và Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật [chúa Bầu], thổ tù Thủy Vỹ, Tuyên Quang. (ĐVSK, BKTB, XVI:6a, Lâu & Long (2009), 3:154, Giu (1967), 3:135; CMCB, XXVII:31, 42 (Hà Nội: 1998), II: 113, 124-25). Điều kiện này đã đồng ý ngày 22/4/1538.

G. Nếu man di bốn phương không tới triều đình, chúng sẽ bị trừng phạt. Mới đây, việc trừng phạt An Nam là điều ta muốn.
H. Các quan đề nghị làm lễ chúc mừng, nhưng Hậu Tổng không đồng ý.
Đứng đầu trong danh sách được khen thưởng là Thương thư bộ Lễ Xia Yan [Hạ Diên], người hoạch định tổng quát.
Zhai Luan, Guo Xun, Yan Song
Mao Bá Ôn, Thái Cảnh [Cai Jing]
Tông binh Mu Shao Fu (Mộc Triều Phụ, Vân Nam), Liu Xun (Lưu Huân, Quảng Đông/Quảng Tây)
Weng Wan Da và ba người khác, thăng một cấp.
Hong Yuan và 8 người khác, thăng một trật lương.
71 người khác như Cừu Loan, Uông Văn Thịnh, Zhang Yan, Fan Li-Xu, Tao Xie, Wang Yi-Qi, Ma Guang, Đề đốc Thái Giám, Peng Shi-Ji, v.. v…

11/9/1541 [22/8 Tân Sửu]: Đăng Dung (22/12/1483- 11/9/1541) chết ở Cổ Trai. Thọ 59 tuổi ta. Có 10 trai, 4 gái.
Trối trăng cho cháu nội là không được đóng nắp quan tài khi chưa nhận được sắc phong của nhà Minh; (ĐVSK, BKTB, XVI:4a, Lâu & Long (2009), 3:150, Giu (1967), 3:132); Thông sử, Long (1978), tr 272-73, 280; CMCB, XXVII: 31, 31-35, 35, 35-37, 38, 39; (Hà Nội: 1998), II:118)
Sử Việt ghi ngày 7/11/1541, Mao Bá Ôn dẫn bọn Mạc Minh Văn, Nguyễn Như Quế, [Ruan Ru-gui] Nguyễn Văn Thái, Hồ Tam Tĩnh [Xu San-shang], tất cả 29 người  lên Bắc Kinh yết kiến Hậu Tổng, mang theo biểu đầu hàng của Đăng Dung.
Vì Đăng Dung đã chết ở Cổ Trai ngày 11/9/1541. nên ngày 6/4/1542 , Phúc Hải tới Trấn Nam Quan nhận bằng sắc, ấn bạc của Đăng Dung, và 1,000 cuốn lịch.
Hơn một năm sau, ngày 19/1/1543, Hậu Tổng cho Phúc Hải làm đô thống sứ ti đô thống sứ, cống hiến hàng năm, nhưng từ ngày này  sứ đoàn Mạc tới Bắc Kinh không được thết yến như các chư hầu khác.
Minh thực lục ghi sớm hơn,  ngày 16/12/1542 [10/11 Nhâm Dần, Jiajing 21]. (1)
1. Mingshi-lu, Shizong, (Wade, NUS data base), juan 268:3ab  Lê Quí Đôn, “Nghịch Thần Truyện,” Mạc Phúc Hải, Thông sử, Long (1978), tr. 280-82; ĐVSK, BKTB, XVI: 6ab, 8a [1b-9a], Long & Lâu (2009), 3:150-152; Giu (1967), 3:134; 136, 154, 349n5; CMCB, XXVII:39; (Hà Nội: 1998), II:121 [ngày 19/1/1543, nhận chức đô thống sứ]; chết ngày 5/6/1546].Thông sử, Long (1978), tr 272-73, 280; ĐVSK, BKTB, XVI:4a, 6a; Lâu et Long (2009), 3:150, 152; Giu (1967), 3:132-33; CMCB, XXVII: 36-37; (Hà Nội: 1998), II:118-20).
Tới ngày 25/11/1597, Chu Dực Quân (Minh Thần Tông, 5/7/1572-18/8/1620) dù khoan khoái đọc ba chục bài thơ chúc tụng của Phùng Khắc Khoan vẫn chỉ cho Lê Thế Tông (2/2/1573-12/10/1599) tước An Nam đô thống sứ ti [tusi], giống như họ Mạc, với cống lễ hàng ngàn cân vàng bạc [một cân ta bằng 0.600 cân tây [kilogram]; một lạng bằng 37.5 grams] cùng tượng người bằng vàng, bằng bạc cao 1 thước, 2 tấc. (2)
2. ĐVSK, BKTB, XVI:6ab, 8a, Lâu & Long (2009), 3:152, 154; Giu (1967), 3:134, 136; Thông sử, “Nghịch Thần Truyện,” Mạc Phúc Hải, Long (1978), tr 280-82; CMCB, XXVII:31, 31-35, 35, 35-37, 38, 39 (Hà Nội: 1998), II:113 [Đăng Doanh chết; con là Phúc Hải lên ngôi], 113-18 [1540: MĐD qua Trấn Nam Quan cắt đất đầu hàng], 118 [1541, MĐD chết], 118-20 [Nhà Minh đổi Đại Việt thành An Nam Đô Thống Sứ Ti; đặt 13 tuyên phủ sứ], 121-22 [19/1/1543, nhà Minh phong Phúc Hải làm Đô Thống Sứ Ti; chết ngày 5/6/1546 [8/5 Bính Ngọ].]XXVII:39; (Hà Nội: 1998), II:121 [ngày 19/1/1543 nhận chức đô thống sứ]
Lê 5: Năm 1543 này, Nguyễn Cam [Kim] (1467 [1468]-1545) được gọi ra Thanh Hóa giữ tước Thái Tể; ĐVSK, BKTB, XVI: 6b, Lâu &  Long (2009), 3:152. Sử Nguyễn cho là sử Lê chép lầm việc Nguyễn Cam [Kim] từ Ai Lao về sông Nghĩa Lộ, nhận chức Thái Tể; CMCB, XXVII:40, (Hà Nội: 1998), II:122-23, 24. Tuy nhiên, không thể không tự hỏi phải chăng năm 1543 phiên ti Vân Nam đã điều tra xong tông tích Lê Ninh, và Phúc Hải ngoan ngoãn chấp nhận cho Lê Ninh và Nguyễn Cam tự trị ở Thanh Hóa, cũng như chúa Bầu ở Tuyên Quang?
Năm 1545, một biến cố xảy ra khiến cuộc cờ nội bộ An Nam Đô Thống Sứ Ti có những chuyển biến quan trọng, dù chẳng tạo được bao thay đổi về đối ngoại. Ngày 28/6/1545, Nguyễn Kim/Cam bị đầu độc chết.
Hậu Tổng còn cho Lê Ninh tạm giữ động Tất Mã, do Vân Nam quản lí; nếu quả thực con cháu nhà Lê sẽ cho giữ bốn phủ Thanh Hoá đang chiếm đóng. Ngoài ra cho Uông Văn Thịnh [Wang Wen-zheng] giám sát Tuyên Quang. (3)
3. Mingshilu, Shizong,  (Wade, NUS data base), juan 248:1b-5a; MSL [Zhongyang], record 2782, vol 82, pp 4966/73; LTHCLC, 46: Bang Giao Chí (1992), 3:203-204; ĐVSK, BKTB,XVI:3a, 4a, 5ab, Lâu & Long (2009), 3:150-51, Giu (1967), 3:132-33; CMCB, XXVII:35-38; (Hà Nội: 1998), II:31-35, 35, 35-37, 38, 39, 113-18, 118-20, 121-22.



Vũ Ngự Chiêu
(từ: TCHL) 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: