Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX
G S Lê Thành Khôi
Việt điện u linh (Lý Tế Xuyên)
Lĩnh Nam chích quái (Trần Thế Pháp)
Đại Việt sử kí toàn thư tập 1
1- Cụ Hồ dạy: “Dân ta phải học sử ta”, ai đó gia thêm: “Nếu mà không biết thì tra Gúc Gồ”. Đấy là nói cho vui, có lần bu tui thử hỏi khó ông Gúc Gồ: “bài thơ Nam quốc sơn hà…xuất hiện trong thời Lý Thường Kiệt đánh Tống hay xuất hiện từ thời Lê Đại Hành đánh Tống” ông trả lời liền : “Không tìm thấy ....”
Câu hỏi trên không chỉ khó với ông Gúc Gồ mà còn khó với các giáo sư sử học thượng thặng. Trong sách “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX” (1), ở mục “Cuộc chiến năm 1075 – 1077” GS Lê Thành Khôi viết: “Để úy lạo tinh thần quân sĩ, Lý thường Kiệt sai người núp trong miếu thờ thần Trương Hát và dõng dạc đọc bài thơ bốn câu sau đây (tr 187)
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Tức là GS Lê Thành Khôi thừa nhận bài thơ trên xuất hiện thời Lý Thường Kiệt đánh Tống) (2)
2- Thế nhưng, Thiền sư, giáo sư Lê Mạnh Thát trong bài “Pháp Thuận và bài thơ Thần sông núi”(3) lại viết: “Theo chúng tôi, ta nên trả bài thơ thần trên về cho cuộc chiến tranh năm 981”(4). Tức là trong cuộc chiến đánh Tống của vua Lê Đại Hành. Tại sao GS Lê Thành Khôi và GS Thiền sư Lê Mạnh Thát lại nói khác nhau như vậy. Bu tui cho là do hai ông dựa vào hai nguồn tài liệu khác nhau. Xin tóm tắt như sau:
* GS Lê Thành Khôi dựa vào Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) do sử gia Ngô Sĩ Liên biên soạn năm 1697 dưới triều Lê Hy Tông. Sự kiện xuất hiện bài thơ thần “Nam quốc sơn hà …” trong ĐVSKTT được Ngô Sĩ Liên lại chép theo sách Việt Điện U Linh (VĐUL) của Lý Tế Xuyên viết từ đời Trần. Ở trang 124 Sách VĐUL viết “Triều vua Lý Nhân Tông, quân Tống nam xâm, kéo tới địa hạt của ta, nhà vua liền sai Thái úy Lý Thường Kiệt đặt hàng rào dọc bờ sông (Như Nguyệt) để cố thủ. Một đêm kia, quân sĩ bổng nhiên nghe trong đền (thờ Trương Hống và Trương Hát) cất tiếng cao, ngâm rằng:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Quả nhiên quân Tống không đánh mà đã tan (?) Thần mộng rõ ràng, chẳng sai một mảy may”
* GS - Thiền sư Lê Mạnh Thát lại dựa vào sách Lĩnh Nam Chích Quái (LNCQ) của Trần Thế Pháp cũng viết từ đời Trần, ở trang 98, 99 sách LNCQ viết: Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân mặc áo mủ vua ban đến bái tạ… “Canh ba đêm ba mươi tháng mười (năm Tân tị, 981 bu chú thích) trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng, Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng:
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (5)
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan, lầm giết lẫn nhau…Quân Tống đại bại mà về. Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, tuy phong cho hai vị Thần nhân…”
GS Lê Mạnh Thát còn đưa ra chiều chứng cứ để khẳng định bài thơ thần trên là của thiền sư Pháp Thuận, một đại quân sư cho vua Lê Đại Hành trong nội chính và ngoại giao.
3- Có người sẽ hỏi: Tại sao sử gia Ngô Sĩ Liên không chép sự xuất hiền bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà…” theo sách Lĩnh Nam chích quái là lúc Vua Lê Đại Hành đáng Tống (981) mà lại chép theo sách Việt Điện U Linh là lúc Lý thương Kiệt đánh Tống (1077). Để trả lời câu hỏi này ta hãy nghe sử gia Ngô Sĩ Liên nhận xét về vua Lê Đại Hành: “Đạo vợ chồng là đầu mối của nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn, Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sao ?” (6)
Với Đánh giá đó thì dễ gì sử gia Ngô Sĩ Liên đem bài thơ như một bản “Tuyên ngôn độc lập” đó của dân tộc gắn cho Lê Hoàn được, mà dựa vào sách Việt Điện U linh ông gắn cho Lý Thường Kiệt trong cuộc chiến đánh Tống năm 1077.
---------------
(1) NXB Thế giới 11.8.2014
(2) Từ trước Cách mạng tháng 8 cho đến nay có nhiều học giả có cùng quan điểm với GS Lê Thành Khôi cho rằng bài thơ thần của Lý Thương kiệt như : Trần Trọn Kim, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Đổng Chi, Dương Quảng Hàm, Văn Tân, Đinh Gia Khánh…
(3)- Theo http://www.sugia.vn
(4)- Cùng quan điểm với GS Thiền sư Lê Mạnh Thát có nhóm tác giả thuộc Hội Sử học Hà Nội, PGS Bùi Duy Tân…
(5)- Chép theo bản A1300 trong trang 99 sách Lĩnh Nam Chích quái.
(6)- Trang 222 sách Đại Việt sử kí toàn thư
Đại Việt sử lược quyển sử cổ nhất của Việt Nam.(Khuyết danh), được viết từ thời nhà Trần, trước khi Lê Văn Hưu viết Đại Việt sử ký (1272), GS Nguyễn Gia Tường (VNCH) dịch. Nguyễn Khắc Thần hiệu đính. Sách được lưu trử ở Tứ khố toàn thư triều Mãn Thanh. Ông Tiền Hy Tộ thuộc Tứ khố toàn thư có viết lời giới thiệu nhưng cho Đại Việt là phiên thuộc của Tàu nên bỏ đi chữ Đại mà gọi là Việt sử lược. Sau này ông Nguyễn Gia Tường dich từ Hán ra Việt mới thêm vào chữ Đại, thành ra Đại Việt sử lược như tên cũ của sách.
Tấm hình để bạn Nhật Thành Hồ tham khảo
Bìa gốc sách Ngục Trung Nhật Ký
29.8.1932
10.9.1933
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét