Một thực tế đáng quan ngại ở nông thôn đã và đang diễn ra ngày càng gay gắt là hầu hết con em nông dân đều có tâm lý “thoát ly” vĩnh viễn khỏi nghề nông. Lên thành phố, học trường nào cũng được, làm việc gì cũng xong miễn là đừng phải trở lại với nhà quê. Chỉ một số rất ít không còn cách gì để xoay sở mới buộc lòng tạm thời chấp nhận trở về hay ở lại nơi chốn đã sinh ra và nuôi dưỡng họ trưởng thành từ nông nghiệp. Vậy thử hỏi, lực lượng lao động còn tồn tại ở nông thôn ngày nay họ là những ai? Liệu họ có phải là thế hệ kế thừa sáng giá các kinh nghiệm nông nghiệp cổ truyền cũng như khả năng tiếp thu tri thức hiện đại cho nền nông nghiệp công nghệ cao hay không?
Chiều dài lịch sử của người Việt cho thấy nông dân luôn chiếm vai trò và vị trí then chốt trong mọi sự kiện gắn liền với sự hưng vong của đất nước. Họ luôn là lực lượng chủ lực trong tất cả các mặt trận, thời chiến cũng như thời bình. Năm 2014 vừa qua, xuất khẩu nông sản của Việt Nam đạt trên 30 tỷ USD, chiếm 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, cho thấy vai trò và sự đóng góp của khu vực này vào nền kinh tế quốc dân. Chưa hết, chính trong lĩnh vực nông nghiệp người Việt Nam đã cho thế giới nhận thấy một Việt Nam đầy tiềm năng, thành viên có nhiều đóng góp tích cực vào an ninh lương thực toàn cầu, nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu chiếm vị trí quan trọng trên thị trường quốc tế.
Thế nhưng, 70% dân số Việt Nam sống tại nông thôn hiện đang phải gánh chịu nhiều thiệt thòi về an sinh xã hội, thiên tai, môi trường, cơ sở hạ tầng, các chính sách bất hợp lý về quyền tài sản, điều kiện hạn chế khi tiếp cận với các nguồn lực quốc gia về tài chính, tri thức, pháp lý… Họ luôn bị đẩy về phía nhóm yếu thế trong quan hệ với các thành phần khác khi tham gia vào các chuỗi sản xuất – tiêu thụ và xuất khẩu nông sản. Điều đáng nói là từ lâu Chính phủ cũng đã nhận ra sự bất cập này nên cũng từng ban hành nhiều chính sách hỗ trợ nông dân. Tuy nhiên, đáng tiếc là phần lớn các sự hỗ trợ này lại thông qua các tầng lớp trung gian, hoặc các điều kiện hỗ trợ xa rời thực tế nên người nông dân thực sự hưởng lợi từ các nguồn lực quốc gia nói trên chưa đáng kể. Một vài ví dụ tiêu biểu cho các chính sách bất cập này là chương trình hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp thu mua tạm trữ lúa gạo hàng năm; hay chính sách cho vay ưu đãi sản xuất nông nghiệp nhưng thời gian cho vay lại không căn cứ vào vòng đời đầu tư - thu hồi vốn cụ thể của từng loại vật nuôi cây trồng. Khiến nông dân vốn đã không có nguồn lực tài chính buộc phải đi vay phải luôn đứng trước món nợ quá hạn khó trả, vì thế mà không thể tiếp cận với nguồn tài chính được cho là ưu đãi.
Người nông dân Việt Nam hiện cũng đang phải đối mặt với nhều bất cập trong quản lý xã hội khi hàng ngày họ phải bỏ ra nhiều khoản tiền lớn hơn người thành thị để có được những tiện nghi sinh hoạt cần thiết. Chẳng hạn như người thành phố được nhà nước làm đường tới tận cửa nhà, có khi còn chiếm luôn vỉa hè để kinh doanh thu lợi. Trong khi người nông thôn phải tự bỏ tiền ra đóng góp vào việc làm đường giao thông thôn xã, có nơi ưu tiên lắm thì được cơ chế “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tương tự, xây dựng mạng lưới điện, nước sinh hoạt cho khu vực nông thôn cũng đòi hỏi khá nhiều sự đóng góp của nông dân. Chưa kể, sản phẩm vật tư nông nghiệp, cây con giống, nông sản nhập lậu,… luôn có nguy cơ bị làm giả, làm nhái, kém chất lượng gây hậu quả nghiêm trọng cho người nông dân mà các quan chức ngành chức năng gần đây từng phát biều hiện phài bó tay, không thể kiểm soát được do lực lượng quá mỏng, quá yếu.
Các chính sách về quy hoạch, sử dụng đất đai trong nhiều năm qua cũng chưa thực sự coi trọng quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người nông dân. Đặc biệt là quyền sở hữu và sử dụng đất đai ổn định lâu dài chưa được ghi nhận minh bạch nên vẫn chưa mang lại niềm tin thật sự cho người nông dân nhằm có thể khuyến khích sự đầu tư quy mô lớn. Trong khi nhiều đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và không ít đai các loại khác đang rơi vào tay hàng loạt doanh nghiệp trong và ngoài nước với số lượng lớn thông qua các dự án kinh tế có vẻ rất hiệu quả trên giấy song phần lớn chỉ nhằm mục tiêu bao chiếm đất đai là chính. Hàng loạt nông dân buộc phải từ bỏ ruộng vườn, do bị mất đất từ các dự án phát triển đô thị, khu công nghiệp và hàng trăm lý do khác…. Nhiều người trong số họ không được bồi thường đầy đủ, thỏa đáng nên buộc phải khiếu kiện. Do chính sách và pháp luật bất cập, rối rắm lại thêm sự chi phối của các nhóm lợi ích ở địa phương nên việc giải quyết các khiếu kiện liên quan tới thu hồi đất đai trong nhiều năm qua hầu hết là không hiệu quả. Dẫn tới khiếu kiện càng kéo dài, bức xúc, gây phức tạp và bất ổn xã hội. Theo Thanh Tra Chính Phủ, không dưới 70% số vụ khiếu kiện kéo dài, khó giải quyết trong những năm gần đây có nội dung liên quan tới đất đai. Người nông dân thắc mắc, tại sao khi đất đai đã cho nhà đầu tư thuê làm khu công nghiệp, dự án phát triển đô thị hay làm sân golf, nếu nhà nước muốn thu hồi lại để làm đường xá hay công trình khác thì phải thương ượng với nhà đầu tư để mua lại quyền sử dụng đất theo giá thị trường. Trong khi với nông dân thì nhà nước lại thu hồi đất nông nghiệp và áp đặt giá đền bù “sát giá thị trường “ theo quy định của nhà nước mà không cần thương lượng?
Trong điều kiện kinh tế thị trường, khi mà các ngành nghề khác đều được “cởi trói”, mạnh mẽ thay đổi thế chế quản lý để bắt kịp đà phát triển chung của kinh tế thế giới thì người nông dân không chỉ lao động cần cù, chăm chỉ là đủ mà còn phải trở thành người lao động có tri thức và sáng tạo. Muốn vậy, về mặt chính sách, trước hết nhà nước phải tạo điều kiện để giữ chân những người con tinh hoa của nông dân trở về với nông thôn, nông nghiệp. Họ phải có cơ sở để thực hiện các ước mơ, các kế hoạch làm giàu bằng tri thức và khoa học nông nghiệp hiện đại trong nền kinh tế hội nhập toàn cầu. Thực tế đòi hỏi cần có sự thay đổi quyết liệt về tư duy đầu tư cho tam nông, đổi mới cơ bản các chính sách hỗ trợ cho nông dân gắn liền với quyền và lợi ích hợp pháp, thiết thân của họ. Cần chấm dứt các chính sách tình thế, đối phó, lắt nhắt, theo đuôi… Và nhất là sử dụng nguồn lực quốc gia hỗ trợ nông dân nhưng lại thông qua các nhóm lợi ích trung gian mà nhà chức trách khó có thể kiểm soát.
Người nông dân thực sự cần được giải phóng khỏi gánh nặng của các chính sách bất cập, bất công và nhất là mang tính đối phó, tình thế, chỉ có lợi cho các nhóm lợi ích trung gian hơn là cho chính họ, cho đòi hỏi của sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong tình hình hiện nay.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét