Trung Quốc - CON SỐ 5 GIỮA HÀ ĐỔ - Kỳ 2
* BÙI VĂN BỒNG
2 - BIỂN ĐÔNG XA LẠ
… Ở Việt Nam , khoa học nghiên cứu sự vận hóa của Hà đồ đã có rất sớm, từ thời Hùng Vương, gọi là “Hà đồ Lạc Việt”. Đường hướng mở và cơ sở vận hành, biến thiên của Hà đồ Lạc Việt” khác nhiều so với “Hà đồ Tàu”, vốn gốc lấy Chu dịch, Kinh dịch làm nền, lấy Lạc thư làm phối. Qua nhiều đời, người Việt Nam đã nhận diện ra máu “Nam chinh” của Trung Quốc, cho nên đã chơi chữ chỉ trích Trung Quốc là cái đồ Hà Lạc, kẻ đi lạc dòng sông.
Gần 4.000 năm từ thời “tam Hoàng ngũ Đế”, trước thời nhà Hạ đến nay, đây là thời kỳ mà Trung Quốc dồn tâm trí, bên ngoài liên tục quấy động, bên trong tạo thế tích lực, bộc lộ rõ ý đồ độc chiếm Biển Đông. Từ Hạ, Thương, Chu; qua Tần, Hán, Đường, Tống,…; đến cuối thời phong kiến là Minh, Thanh - đế quốc Đại Hán không ngừng đi xâm lấn các nước lân bang chỉ nhằm mục đích mở rộng cương thổ biên giới đất liền, ngày càng muốn phình to Đại Lục Trung Quốc, càng muốn “làm phép nhân” cho con số 5 giữa Hà Đồ. Đời này sang đời khác, các cuộc Nam chinh - Bắc phạt với Việt Nam, Ấn Độ, Nga, Mông Cổ, các nước láng giềng Trung Á, Bắc Á đều nhằm mục đích đó.+ Mời xem từ: > Kỳ 1
Đến cuối thế kỷ 20, khi Trung Quốc tăng trưởng kinh tế và cải cách chính trị đồng thời có đủ nhân lực và trí lực để theo đuổi mạnh mẽ hơn nhằm minh chứng về một lịch sử cổ đại. Nhưng suy cho cùng, Trung Quốc hiện nay với hơn 1,3 tỉ dân đều có nguồn gốc chủng tộc khác nhau, cùng là một quốc gia mang tính “hợp chủng quốc”, lịch sử dân tộc chính thống qua smỏng. Trung Quốc chỉ đưa ra được một số di chỉ Đá Mới cũng như một vài bằng chứng được gom lại theo thời gian, nhằm cố gẳng thể hiện rõ bản sắc, sự thuần nhất và niềm tự hào dân tộc, hay nói cách khác là thể hiện chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, tham lam, nhất là “cái xương sống” chủ nghĩa đại Hán tộc.
Suốt mấy nghìn năm qua các thời kỳ lịch sử từ cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại, các triều vua Trung Quốc rất ít quan tâm vấn đề vươn ra Biển Đông. Cho nên, xét về những cư sliệu lịch sử sự có mặt của người Trung Quốc trên Biển Đông rất ít. Mao Trạch Đông đã nói như trách móc các thế hệ tiền bối, cựu bối về vấn đề này. Trong vấn đề tranh chấp, giành giật vùng, khu vực lãnh hải, việc Trung Quốc đánh bật các đơn vị hải quân VNCH đồn trú giữ quần đảo Hoàng Sa rồi nhanh chóng chiếm toàn bộ quần đảo này ngày 19-1-1974 là có ý định lăm le của nhà cầm quyền Trung Nam Hải từ trước thời Mao Trạch Đông tuyên bố quốc khánh 1-10-1949. Theo tài liệu của Trung Quốc, của quân đội Viêt Nam cộng hòa và một số tài liệu khác có liên quan, Hoàng Sa là mục tiêu đột phá, là cửa mở để Trung Quốc xâm chiếm toàn bộ Biển Đông.
Tra cứu các nguồn tư liệu lịch sử, từ thời Tôn Dật Tiên trở về trước, Trung Quốc nhìn nhận Biển Đông như thế nào?
ông đã công bố chủ nghĩa Tam dân: "Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc". Từ 1905 đến năm 1911 Trung Quốc Đồng minh hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miểnNam nhưng không thành công. Ngày 10 tháng 10 năm 1911, Đồng minh hội vận động được binh sĩ ở Vũ Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành được thắng lợi mở đầu cho Cách mạng Tân Hợi. Phong trào này nhanh chóng bùng nổ ở nhiều tỉnh khác. Ngày 24 tháng 12 năm 1911, Tôn Trung sơn về nước, được đại hội đại biểu các tỉnh họp ở Nam Kinh đề cử làm tổng thống lâm thời.
Ngày 1 tháng 1 năm 1912, ông tuyên thệ nhậm chức Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Nam Kinh. Nhưng một tháng sau, ông nhường chức này cho Viên Thế Khải với điều kiện Viên Thế Khải bắt vua nhà Thanh thoái vị để thành lập chế độ cộng hòa nhưng Viên Thế Khải đã phản bội, đàn áp lực lượng dân chủ cộng hòa.
Điều ước Nam kinh mở đường cho tư bản nước ngoài tràn vào Trung Quốc. Năm 1845 nước Anh mở tuyến đường thủy từ thủ đô Luân đôn (Anh) đến Trung quốc, sau đó xây dựng ụ tàu ở Quảng châu (Quảng đông) để sửa chữa tàu thuyền, đó là hoạt động công nghiệp đầu tiên của tư bản nước ngoài hình thành ở Trung quốc.
Ít lâu sau các thương nhân Anh, Mỹ cũng mở xưởng sửa chữa tàu và lập ụ tàu ở Thượng hải, Hạ môn, Phúc châu, về sau tư bản nước ngoài lũng đoạn ngành hàng hải của Trung quốc. Trong thời gian từ năm 1862 đến 1875 số vốn của thương nhân Anh và Mỹ đầu tư trong ngành hàng hải lên tới 256 vạn lạng bạc.
Sau khi điều ước Ái huy được ký kết năm 1858 thương nhân Nga được quyền hoạt động ở Trung quốc. Bắt đầu từ năm 1863 các thương nhân Nga mở xưởng chế biến chè tại Hán khẩu (Hồ bắc), Cửu giang (Giang tây), Phúc châu (Phúc kiến) cạnh tranh mạnh với ngành sản xuất chè truyền thống của Trung quốc. Hán khẩu trở thành trung tâm chế biến và xuất khẩu chè của Trung quốc, năm 1865 số lượng chè xuất khẩu tại Hán khẩu là 1400 tấn, đến năm 1875 đã tăng lên 11000 tấn, tức tăng lên 8 lần.
Năm 1862 các thương nhân Anh mở xưởng ươm tơ tại Thượng hải sau đó thương nhân Pháp và Mỹ cũng tham gia sản xuất trong ngành này. Các xưởng ươm tơ của tư bản nước ngoài đã phá hoại ngành ươm tơ thủ công nghiệp truyền thống của Trung quốc. Bên cạnh đó tư bản nước ngoài còn mở những xí nghiệp làm đường, chế biến bột, thuộc da.
chính phủ của Tôn Dật Tiên muốn thực hiện một cuộc cải cách dân chủ, vừa hướng tới lợi ích của nền kinh tế và dân chúng Trung Quốc. Với sự cho phép của Hiếu Định hoàng hậu, Viên Thế Khải bắt đầu đàm phán với Tôn Dật Tiên, người đã cho rằng mục tiêu của mình đã thành công trong việc lập ra một nhà nước cộng hòa và vì thế ông có thể cho phép Viên Thế Khải nhận chức vụ Tổng thống của nền Cộng hoà. Năm 1912, sau nhiều vòng đàm phán, Hiếu Định đưa ra một chiếu chỉ tuyên bố sự thoái vị của ấu vương Phổ Nghi, vua cuối cùng, kết của nhà Thanh.
Sự sụp đổ của nhà Thanh năm 1912 đánh dấu sự kết thúc của hơn 2000 năm đế quốc Trung Quốc và sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn kéo dài, không chỉ đối với quốc gia mà ở một số mặt còn đối với cuộc sống của người dân. Tình trạng lạc hậu rõ rệt về chính trị và kinh tế cộng với sự chỉ trích ngày càng tăng về văn hoá Trung Quốc dẫn tới sự ngờ vực về tương lai của họ.
Lịch sử hỗn loạn của Trung Quốc từ sau thời nhà Thanh ít nhất cũng có thể được thấu suốt một phần trong nỗ lực nhằm tìm hiểu và khôi phục lại những mặt quan trọng của văn hoá lịch sử Trung Quốc và tích hợp nó với những ý tưởng mang nhiều ảnh hưởng mới đã xuất hiện trong thế kỷ đó. Nhà Thanh là khởi nguồn của nền văn hoá vĩ đại đó, nhưng những sự hổ thẹn họ phải gánh chịu cũng là một bài học cần quan tâm.
Những vấn đề về lãnh hải-biển, đảo của Trung Quốc trên biển Đông, nhất là đảo Đài Loan, trong mọt thời kỳ lịch sử lâu dài đã liên quan đến Nhật Bản. Đài Loan chính là sự hiện diện rất sớm để khai pha svà xây dựng của người Nhật. Quân đội Nhật Bản tiến vào thành Đài Bắc năm 1895 theo sau Hiệp ước Shimonoseki. Nhà Thanh đã thất bại trong chiến tranh Thanh-Nhật (1894-1895) và Đài Loan cùng Bành Hổ thời đó thành chủ quyền của đế quốc Nhật Bản. Những người mong muốn vẫn được làm thần dân của nhà Thanh có 2 chuyển tiếp để bán các tài sản của mình và chuyển về đại lục. Chỉ có rất ít người Đài Loan thực hiện được điều này.
Vào ngày 25 tháng 5 năm 1895, một nhóm quan chức cấp cao trung thành với nhà Thanh đã tuyên bố thành lập Cộng hòa Đài Loan để chống lại sự kiểm soát của người Nhật và cả Trung Quốc. Các lực lượng Nhật Bản đã tiến vào thủ phủ Đài Nam và dập tắt sự kháng cự này vào ngày 21 tháng 10 năm 1895.
Dinh Tổng thống THDQ hiện nay vốn là Trụ sở chức Toàn quyền của chính phủ Nhật Bản.
Những người Nhật sau đó đã công nghiệp hóa hòn đảo; họ mở rộng đường sắt và các mạng lưới giao thông khác, xây dựng một hệ thống bảo vệ sức khỏe trải rộng và xây dựng hệ thống trường công. Năm 1939, Đài Loan là nới sản xuất đường lớn thứ bảy trên thế giới. Tuy nhiên, người Đài Loan và thổ dân chỉ được xếp là công dân hạng hai và hạng ba. Các vụ đấu tranh lớn tiếp tục diễn ra trong thập kỷ đầu, Nhật Bản đã tiến hành trên 160 trận chiến để hủy diệt các bộ tộc thổ dân Đài Loan trong suốt 51 năm cai trị hòn đảo. Khoảng năm 1935, Nhật Bản bắt đầu kế hoạch đồng hóa trên phạm vi toàn đảo để quản lý vững chắc hòn đảo và người dân được dạy là phải tự coi mình là người Nhật. Trong chiến tranh Thế giới thứ 2, hàng chục nghìn người Đài Loan đã phục vụ trong quân dội Nhật Bản.
Nhật Bản mất quyền kiểm soát Đài Loan và khu vực biển chung cận kề sau khi bại trận trong Thế chiến II và Văn kiện Đầu hàng của Nhật Bản được ký vào ngày 14 tháng 8 năm 1945. Nhưng sự kiểm soát của Nhật Bản đã có tác động lâu dài đối với Đài Loan, nhất là văn hóa Đài Loan. Nhiều cơ sở hạ tầng của Đài Loan được bắt đầu xây dựng dưới thời Nhật quản lý. Dinh Tổng thống hiện nay cũng được xây trong thời kỳ này. Năm 1938, có khoảng 309.000 người Nhật định cư tại Đài Loan[19], hầu hết họ đã hồi hương sau chiến tranh.
Thời kỳ thiết quân luật Quốc Dân Đảng
Đảo Đài Loan và vùng biển quanh đảo phải kể đến Hội nghị Cairo diễn ra từ 22 đến 26 tháng 11 năm 1943 tại Cairo, Ai Cập, đã xác định lập trường của phe đồng minh chống lại Nhật Bản trong Thế chiến II, và giải quyết các vấn đề hậu chiến ở Châu Á.
Một trong ba điều khoản chính của Tuyên bố Cairo là "Tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt từ Trung Quốc, bao gồm Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hổ, sẽ được hoàn trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc". Tuy nhiên, nhiều thay đổi đã diễn ra khiến cho văn kiện này đơn thuần chỉ là một phát biểu với mục đích soạn thảo một Hiệp ước Hòa bình sau chiến tranh.
Vào ngày 25 tháng 10 năm 1945, Hải quân Hoa Kỳ đã chở binh lính Trung Hoa Dân Quốc đến Đài Loan để tiếp nhận việc đầu hàng của lực lượng quân sự Nhật Bản tại Đài Bắc (trước đó gọi theo cách đọc tiếng Nhật là Taihoku). Toàn quyền Ando Rikichi và các chỉ huy cấp dưới của tất cả các lực lượng trên đảo đã ký vào văn kiện đầu hàng và trao cho đại diện Trung Hoa Dân Quốc. THDQ đã tuyên bố đây là ngày "Ngày Trao lại Đài Loan". Chính quyền THDQ tại Đài Loan được thiết lập một cách miễn cưỡng và không ổn định, cộng vào đó là những khó khăn về kinh tế, đặc biệt là nạn lạm phát cao.
Hơn nữa, xung đột văn hóa và ngôn ngữ giữa người Đài Loan và người đại lục nhanh chóng dẫn đến việc mất đi sự ủng hộ rộng rãi cho chính quyền mới. Điều này lên đến cực điểm trong một chuỗi các xung đột ác liệt giữa quân THDQ và người Đài Loan, gồm 228 vụ việc với ước tính 20.000-30.000 dân thường đã bị Quân đội Trung Hoa Dân Quốc hành quyết trong Bạch sắc khủng bố.
Sự kiện như đặt dấu ấn, tiền lệ cho vòi bạch tuộc Trung Nam Hải vươn ra Biển Đông chính quyền Đài Loan ddánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa 1946, khi Việt Nam mới giành được độc lập hơn 1 năm. Trong lúc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đang bận rộn đối phó với những hành động gây hấn ngày càng leo thang của quân đội viễn chinh Pháp, thì ngày 26-10-1946 một hạm đội của Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện của các cơ quan và 59 binh sĩ thuộc trung đội cảnh vệ độc lập của hải quân xuất phát từ cảng Ngô Tùng; ngày 29-11-1946, các chiến hạm Vĩnh Hưng và Trung Kiên tới quần đảo Hoàng Sa và đổ bộ lên đảo Phú Lâm (Woody); chiến hạm Thái Bình và Trung Nghiệp đến Trường Sa (mà lúc này Trung Quốc gọi là Hoàng Sa là Đoàn Sa, chưa phải là Nam Sa, trong khi nhà Nguyễn đặt tên là vùng đảo Cát Vàng - Hoàng Sa từ rất lâu rồi).
Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bất hợp pháp này của Trung Hoa Dân Quốc và ngày 17-10-1947 thông báo hạm Tonkinois của Pháp được điều tới Hoàng Sa để yêu cầu quân lính của Tưởng Giới Thạch phải rút khỏi các đảo, nhưng quân Tưởng đã không thực hiện theo yêu cầu. Pháp tiếp tục gửi thêm một phân đội lính trong đó có cả quân lính của Chính phủ Quốc gia Việt Nam đến trú đóng trên đảo Hoàng Sa (Pattle). Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc phản kháng và các cuộc thương lượng được tiến hành từ ngày 25-2 đến ngày 4-7-1947 tại Paris. Cuộc đàm phán thất bại vì Trung Hoa Dân Quốc đã từ chối việc nhờ trọng tài quốc tế giải quyết vấn đề do phía Pháp đề xuất. Điều này cho thấy phía Trung Quốc ngay từ thời Tưởng Giới Thạch đã rất không muốn quốc tế hoá vấn đề Biển Đông, vì chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý của họ sẽ không thể thuyết phục được ai nếu buộc phải chứng minh trước trọng tài hay tòa án quốc tế. Ngày 1-12-1947, Bộ Nội vụ chính quyền Tưởng Giới Thạch đơn phương công bố tên Trung Quốc cho hai quần đảo và tự đặt hai quần đảo này thuộc về lãnh thổ Trung Quốc.
Vì vậy, chỉ tra lại các lược sử từ trước đời nhà Hạ hơn 2000 năm trước Công nguyên cho đến cuối Thanh Triều 1904, bản đồ lãnh thổ Trung Quốc do nhà Thanh tác họa cũng không có Hoàng Sa, Trường Sa mà lãnh thor Trung Quốc chỉ chạm mép nước cực Nam đảo Hải Nam.
Cho đến cuối năm 1946, Trung Quốc mới đụng đến việc mở rộng quyền chiếm đóng ra các đảo, khai mở những cuộc tranh giành chủ quyền trên Biển Đông sau này. Mục đích chiếm một số đảo Bắc và Tây Bắc vùng quần đảo Hoàng Sa là chính quyền Tưởng Giới Thạch chiếm thêm một vài đảo ở Hoàng Sa chỉ nhằm “dự phòng” khi Đài Loan thất thủ có nơi nương thân.
Từ những cứ liệu và sự kiện diễn biến lịch sử nêu trên đủ khẳng định rằng: Lịch sử Trung Quốc chưa bao giờ khui ra được các tài liệu, chứng lý ghi nhận công lao khám phá, đứng chân gìn giữ các đảo trên biển Đông. Biển Đông từ xa xưa rất xa lạ với Trung Quốc. Gần 2 thập kỷ qua Trung Quốc lăm le các đảo và vùng chủ quyền lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng chẳng qua vì tham vọng nguồn lợi lớn nhất là dầu khí trên Biển Đông. Ngay cả Cái “đường lưỡi bò” cũng chỉ là đường ngắt đoạn dánh dấu mờ nhạt của các nhà khảo sát biển do chính quyền Đài Loan tổ chức vào năm 1947 chỉ để “vùng dự phòng khảo cứu Biển Đông”, sau gần một năm chiếm được một vài đảo ở Hàng Sa. Đến năm 2006, nhà cầm quyền Trung Nam Hải thấy vậy đã lợi dụng cơ hội cho vẽ đậm thêm cái “đường lưỡi bò” phi pháp trên hải đồ “biển Nam Trung Hoa” của họ. Đến năm 2009, mặc dù Công ước Quốc tế về Luật biển 1982 đã chính thức có hiệu lực gần 17 năm, nhưng Trung Quốc vẫn liều lĩnh hô hoán công khai tuyên bố vùng biển nằm trong “đường lưỡi bò” chiếm khoảng 80% Biến Đông là của Trung Quốc (!?).
Mới đây, với việc Trung Quốc in “đường lưỡi bò” vào hộ chiếu phổ thông, chính quyền Đài Loan đã đư ẩ quyết định xem xét cấm nhập cảnh đối với những người Trung Quốc đại lục mang hộ chiếu mới in bản đồ “đường lưỡi bò” và 2 địa điểm nổi tiếng của hòn đảo này.
(còn tiếp)
Kỳ 3
… Với quan niệm từ xa xưa, lấy con số 5 giữa Hà Đồ làm trung tâm địa cầu, đế quốc Đại Hán đã không ngừng lấn chiếm, xâm lược các nước láng giềng, mở rộng ương thổ, địa vực quốc gia đến mấy cùng không thấy vừa. Trong bối cảnh nằm áp sát phía Nam Trung Quốc như vậy, ViệtNam liên tục đời nối đời phải gồng mình lên, chống lại với những hành động lấn chiếm, xâm lược, áp đặt đô hộ của Trung quốc. Từ xa xưa đến tận bây giờ trung Quốc chưa lúc nào để cho Việt Nam được yên ổn, Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (Quan hệ Việt Trung) là chủ đề nóng bỏng trong hơn 4000 năm lịch sử của Việt Nam, cho dù thời đại nào đều mang tính thời sự. Là hai nước láng giềng, chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó tương tác về văn hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, 13 năm từng làm đại sứ tại Trung Quốc, viết:
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, 13 năm từng làm đại sứ tại Trung Quốc, viết:
- Tư tưởng bành trướng, bá quyền, ích kỷ nước lớn của những người cầm quyền ở Trung Quốc 1.000 năm nữa vẫn không hề thay đổi.
- Chớ vội tin lời của những người nắm quyền ở Trung Quốc nói, hãy xem những việc họ làm.
- Nhiều khi ở cấp cao của họ nói với cấp cao của ta lời lẽ rất ôn hòa có vẻ vô tư, biết điều, nhưng lại ngầm chỉ đạo cho cấp dưới cứ lấn tới, giọng lưỡi bề trên, đe dọa, để đạt yêu cầu của họ, thiệt hại cho ta.
+ Mời xem từ: > Kỳ 1 ; Kỳ 2
+ Mời xem từ: > Kỳ 1 ; Kỳ 2
Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh cho là:
‘Trung Quốc "nghiễm nhiên đứng được trên nóc nhà Đông Dương – vị trí chiến lược trọng yếu của Việt Nam – qua kế hoạch khai thác bô-xít Tây nguyên, rồi thuê rừng đầu nguồn trong 50 năm, tự ý bày ra “đường lưỡi bò” để chiếm gần trọn biển Đông, cấm đánh cá, bắn giết, bắt, phạt tiền ngư dân VN, thuê dài hạn 1 đoạn bờ biển Đà Nẵng. Đó là chưa kể họ xây đập trên thượng nguồn sông Mêkông khiến tác hại đến “vựa lúa”, hoa màu và thủy sản ở Nam Bộ. ... Thế là, trên khắp đất nước ta, từ “nóc nhà Đông Dương”, từ rừng núi tới đồng bằng, đến ven biển đã có hàng vạn người Trung Quốc rải ra, có là mối nguy tiềm ẩn không? Từ những tình hình trên, rõ ràng ViệtNam ta bị hại đủ đường, và bị o ép tứ phía. Vì đâu nên nỗi này? Nhân dân ta nghĩ gì (!?).
Trong một bài viết gần đây, tướng Nguyễn Trọng Vĩnh chi rõ: Tháng 9-1950, tại Hội nghị Quân ủy Trung ương, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất, đó là mục tiêu của chúng ta”. Trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963, ông Mao nói : “Tôi sẽ làm Chủ tịch 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”. Tại cuộc họp BCH TƯ Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8-1965, Chủ tịch Mao Trạch Đông khẳng định: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapo… một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…”. Trong cuộc họp giữa 4 đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Indonesia, Lào tại Quảng Đông tháng 4-1963, Thủ tướng Chu Ân Lai nói: “Nước chúng tôi lớn, nhưng không có đường ra, nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho con đường xuống Đông Nam châu Á”. Trung Quốc im cách thu phục Việt Nam bằng tư tưởng Mao Trạch Đông Muốn xuống Đông Nam Á, trước hết và tất yếu cần qua Việt Nam . Ngay từ năm 1950, sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đã cử cố vấn Trung Quốc sang và viện trợ cho Việt Nam vũ khí, xe vận tải giúp Việt Nam đánh Pháp. Đoàn cố vấn còn có nhiệm vụ truyên truyền tư tưởng Mao Trạch Đông. Họ đã đề nghị cho dạy tư tưởng Mao Trạch Đông trong trường đảng Việt Nam , lãnh đạo ta đã chấp nhận. Lúc chúng ta tiến hành cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức theo kinh nghiệm các vị cố vấn giới thiệu cho ta, ta phạm sai lầm nghiêm trọng: đấu tố tràn lan, quy kết sai lầm làm nhiều cán bộ bị bắt, nhiều người chết oan. Khi phát hiện, Hồ Chủ tịch phải đứng ra nhận trách nhiệm và xin lỗi đồng bào. Từ đó ta tỉnh ngộ không dạy tư tưởng Mao Trạch Đông và không làm theo kinh nghiệm Trung Quốc nữa.
Theo các tư liệu lịch sử còn lưu giữ: Quan hệ Việt-Trung trong gần 2200 năm tồn tại từ thế kỷ 2 trước Tây lịch đến nay có thể chia ra bốn thời kỳ cơ bản. Thời kỳ thứ nhất quen gọi là “thời kỳ Bắc thuộc”, dài khoảng một ngàn năm, từ lúc nước Âu Lạc của An Dương Vương thuộc về nước Nam Việt của Triệu Đà (năm 179 tr. TL), khi mối liên hệ địa chính trị đầu tiên giữa miền châu thổ sông Hồng với miền Trung nguyên Trung Quốc được thiết lập thông qua quan hệ Hán-Nam Việt, cho đến thời điểm Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938 sau TL). Thời kỳ thứ hai gọi chung là “thời kỳ Đại Việt”, dài tương đương, từ khi Ngô Quyền xưng vương (939) đến khi Pháp đặt nền bảo hộ ở Việt Nam và nhà Thanh công nhận chủ quyền của Pháp ở đây (1883). Thời kỳ thứ ba quen gọi là “thời kỳ Pháp thuộc”, kéo dài khoảng 6 thập niên, từ 1883 đến 1945, khi Việt Nam tuyên bố độc lập. Thời kỳ thứ tư từ 1945 đến nay. Thời kỳ này gồm 3 giai đoạn: (1) từ cuối thập niên 40 đến cuối thập niên 60, (2) từ đầu thập niên 70 đến cuối thập niên 80, (3) từ đầu thập niên 90 đến nay.
Ngô Sĩ Liên, người biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư đã than về việc Lý Phật Tử (Lý Phật Tử lên ngôi sau cái chết của Lý Nam Đế, người đã gây dựng cuộc khởi nghĩa năm 541 chống lại sự chi phối của Trung Quốc) hàng phục nhà Tuỳ như sau: “Sự cường nhược của Nam Bắc đều có lúc. Nếu phương Bắc yếu thì ta mạnh, nếu phương Bắc mạnh thì ta yếu, ấy là đại thế thiên hạ.”[3]. Trung Quốc luôn luôn thể hiện 'Chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc', luôn luôn nhòm ngó lãnh thổ Việt Nam và muốn Việt Nam lệ thuộc hoàn toàn vào mình.
Trước thế kỷ 20
Lịch sử Việt Nam trong giai đoạn hai nghìn năm trước cận đại không thể lí giải chính xác nếu không gắn với quan hệ về mặt chính trị với Trung Quốc.
Từ cuối thế kỷ thứ II trước Công nguyên đến nửa đầu thế kỷ thứ X sau CN, Việt Nam chịu sự thống trị trực tiếp của Trung Quốc trong một nghìn năm cho đến khi giành được độc lập. Một nghìn năm này trong lịch sử Việt Nam thường được gọi là "thời kỳ Bắc thuộc". Từ sau khi thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc giành độc lập vào nửa đầu thế kỷ thứ X đến trước khi rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp vào nửa sau thế kỷ XIX, trong một nghìn năm, Việt Nam đã thiết lập quan hệ trièu cống, vừa duy trì quan hệ thân thiện về chính trị vừa đồng thời tiếp nhận văn hóa Trung Quốc trong “trật tự thế giới kiểu Trung Hoa”, theo cách nói của người Trung Quốc.
Đây là lúc Việt Nam không còn chấp nhận tư cách quận huyện trong đế quốc Trung Hoa nữa, và Trung Hoa cũng phải chấp nhận cho Việt Nam nằm ngoài cương vực của mình. Lịch sử quan hệ Việt-Trung trong thời kỳ này là lịch sử sự xung đột và thỏa hiệp, lịch sử sự thể chế hóa các xung đột và thỏa hiệp ấy giữa hai viễn tượng về trật tự thế giới.
Trung Hoa áp đặt trật tự thế giới của mình thông qua “lễ”. Để khẳng định vị trí của mình trong trật tự thế giới của Trung Hoa, Việt Nam phải nộp cống, kẻ cầm quyền mới lên ngôi phải cầu phong, nhận sắc chỉ của hoàng đế Trung Hoa phải khấu đầu, nếu không làm tròn phận sự sẽ bị cất quân hỏi tội.
Việt Nam thực hiện một chính sách hai mặt. Một mặt vẫn thực hiện đủ lễ với Trung Hoa, nghĩa là về hình thức công nhận trật tự thế giới của Trung Quốc. Mặt khác cứ thực hiện trật tự thế giới của riêng mình. Phương thức đại chiến lược của Việt Nam đối với Trung Quốc có sự giống và khác giữa hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, thời Lý-Trần, là kháng cự và không chối từ. Giai đoạn sau, thời Lê-Nguyễn, là kháng cự và bắt chước.
Đầu thế kỷ 20 - 1945
Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị chia làm ba kỳ, nằm trong Liên bang Đông Dương thuộc Pháp: Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ bảo hộ, Nam kỳ là thuộc địa. Với Hiệp ước Pháp-Thanh năm 1885, Trung Quốc từ bỏ bá quyền của mình và thừa nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam . Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp đảm nhiệm và trở thành một bộ phận của quan hệ Pháp-Trung. Thời kỳ này cũng là thời kỳ mà Trung Hoa phải từ bỏ mô hình thế giới truyền thống của mình và áp dụng mô hình thế giới kiểu Âu, một kiểu trật tự thế giới được công nhận ở châu Âu từ sau Hòa ước Westphalia (1648). Sự khác biệt lớn nhất giữa hai mô hình Trung Hoa và Tây phương là trật tự thế giới kiểu Tàu đòi hỏi phải có một trung tâm thiên hạ, đại diện là hoàng đế Trung Quốc với tư cách “con trời”, dưới ông là một hệ thống các “phiên bang”, “chư hầu”, “thuộc quốc”, tức là một sự phân biệt trên dưới rất rõ ràng; trong khi trật tự thế giới kiểu Westphalia không công nhận một trung tâm quyền lực tối thượng đứng trên các nước khác, cai quản cả thế giới dù chỉ trên danh nghĩa, các nước có chủ quyền tối cao trong vùng lãnh thổ của mình, và do đó là ngang nhau trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, hành xử của các nước Tây phương phải chia làm hai lớp. Ở phần nghi lễ ngoại giao là mô hình Westphalia , còn trong thực tế là chính trị dựa trên sức mạnh (power politics). Chẳng hạn ở Việt Nam , Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh làm thuộc địa, có giao kèo đàng hoàng. Nghĩa là quyền chiếm đất của Pháp không phải tự nhiên mà có. Pháp đặt vòng bảo hộ lên Bắc và Trung kỳ, giữ nguyên ngai vàng Hoàng đế Đại Nam , chỉ đặt “công sứ” cai trị. Nghĩa là vẫn công nhận vua An Nam là chủ nước An Nam. Tuy rằng tất cả phải chịu sự điều động của Toàn quyền Đông Dương và chính phủ Pháp. Riêng đối với Trung Hoa, do nước này quá lớn, phương Tây bắt Trung Hoa phải tô nhượng cho họ một số khu vực đầu mối giao thương, phải thừa nhận cho họ có khu vực ảnh hưởng trên lãnh thổ mình. Chẳng hạn Pháp bắt nhà Thanh phải thừa nhận các tỉnh Lưỡng Quảng và Vân Nam nằm trong khu vực ảnh hưởng của Pháp….
(còn tiếp)
Kỳ 4
* BÙI VĂN BỒNG
(tiếp theo - Kỳ 4)
4- Mưu đồ bành trướng của nhà Thanh bị Pháp đánh chặn
Chiến tranh Pháp-Thanh là cuộc chiến giữa Đệ Tam Cộng hoà Pháp và Đế quốc Mãn Thanh, diễn ra từ tháng 9 năm 1884 đến tháng 6 năm 1885. Cuộc chiến nổ ra vì Pháp muốn kiểm soát vùng đồng bằng Bắc Bộ và con đường đến tỉnh Vân Nam . Ngược lại, nhà Thanh không muốn sự hiện diện quân sự của Pháp Bắc Kỳ, vì điều này sẽ trực tiếp uy hiếp vùng biên giới phía nam của họ. Sâu xa hơn nữa, là nhà Thanh muốn nhân cơ hội này để chiếm đoạt[1] hoặc là duy trì ảnh hưởng của mình đối với Việt Nam , vốn là chư hầu truyền thống của Trung Quốc.
Mặc dù Hiệp ước Sài Gòn 1874 cho phép tàu thuyền Pháp đi thám hiểm các dòng sông, nhưng tới những năm đầu 1880, quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc tiếp tục quấy nhiễu và cản trở các thương gia Pháp. Hệ quả là chính quyền Pháp phái một lực lượng viễn chinh nhỏ với nhiệm vụ quét sạch quân Cờ đen khỏi vùng đồng bằng sông Hồng. Quân Pháp nhanh chóng đánh chiếm thành Hà Nội và chuẩn bị tiễu trừ các lực lượng quân sự chống đối họ, bao gồm quân củatriều đình Huế do Phò mã Hoàng Kế Viêm quản lĩnh và quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc. Nhà Thanh vốn luôn phản đối sự hiện diện của Pháp trên Bắc Kỳ liền bắt đầu chuẩn bị chiến tranh. Lấy cớ tiễu trừ thổ phỉ, quân đội Vân Nam và Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) được điều động tiến sát về biên giới, sẵn sàng vượt biên giới tiến sang Bắc kỳ. Nhà Thanh cũng hạ lệnh cho hải đội Quảng Đông, gồm 20 thuyền tiến vào hải phận của Việt >>+ Mời xem từ: > Kỳ 1 ; Kỳ 2 ; Kỳ 3
Quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại tá Henri Rivière chiếm thành Hà Nội, thủ phủ vùng Bắc Bộ vào ngày 25 tháng 4 năm 1882. Triều định Huế cử quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm tìm cách chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều đình Huế bèn sai nguyên Hà Ninh tổng đốc Trần Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá Rivière trả thành Hà Nội cho quan nhà Nguyễn, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Theo yêu sách của Rivière, nhà Nguyễn phải chấp nhận quyền bảo hộ của Pháp, phải trao thành Hà Nội cho Pháp quản lý, đặt thương chánh tại Bắc kỳ và giao cho Pháp cai quản.
Triều đình Huế không chấp nhận các điều kiện khắc nghiệt đó nên đàm phán đổ vỡ. Ông Phạm Thận Duật được cử sang Thiên Tân cầu cứu với triều đình nhà Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ về tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói: "nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở về phía bắc sông Hồng, nên quân Thanh nhân cơ hội này tiến vào Bắc Việt.
Tháng 11 năm 1882, Đại sứ Pháp Bourée tại Trung Hoa tiến hành một cuộc gặp mặt với Phó vương Trực Lệ (Zhili-tức vùng Bắc Kinh) Lý Hồng Chương, trong đó hai bên tính đến khả năng nhượng vùng Lào Cai cho nhà Thanh để lập một cửa khẩu vào Vân Nam, đồng thời thiết lập một đường phân giới dọc theo sông Hồng, theo đó phần phía bắc sẽ thuộc về nhà Thanh, phần phía nam sẽ do Pháp quản lý. Lý Hồng Chương đồng ý với thỏa thuận đạt được này, và chuyển thỏa thuận về Đổng lý Nha môn nhà Thanh để phê chuẩn. Tuy nhiên chính phủ của Thủ tướng Jules Frrry không đồng ý phê chuẩn hiệp nghị này và triệu hồi Đại sứ Bourée về nước.
Tại Pháp, ngày 21 tháng 10 năm 1882, bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa yêu cầu chính phủ Pháp tăng viện cho Sài Gòn 10 triệu france và 6.000 binh sĩ để giải quyết vụ khủng hoảng ở Bắc Kỳ. Sau một cuộc tranh luận gay gắt trong phiên họp Hội đồng Nội các, tổng thống Pháp Jules Grevi phản đối quyết liệt và chỉ sau khi bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Jauréguiberry dọa từ chức, Hội đồng thỏa thuận gởi tăng viện cho Sài Gòn 700 binh sĩ do tàu Corrèze chở đến Sài Gòn. Số quân này đến Sài Gòn ngày 13 tháng 02 năm 1883 và chuyển ra Bắc Kỳ vào ngày 15 tháng 02. Tới ngày 10 tháng 11, bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa gởi công điện khẩn tới Sài Gòn cách chức Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Villers với lý do ông này vượt quá quyền hạn và bị thay thế bởi Charles Thomson. Ông Thomson nhận bàn giao chức vụ thống đốc Nam Kỳ vào ngày 12 tháng 01 năm 1883.
Ngày 12 tháng 3 năm 1883 Rivière chiếm mỏ than Hòn Gai và đặt một đồn binh gồm 25 người canh giữ. Trong thời gian đó, tổng đốc Nam Định tuyển mộ hơn 10 ngàn dân phu xây dựng các công sự phòng thủ, ngăn cản quân Pháp nhận tiếp viện bằng đường biển. Sau khi nhận thêm quân tiếp viện từ Nam kỳ, đại tá Rivière để thiếu tá hải quân Berthe de Villers với 400 quân lại giữ Hà Nội, còn lại đem đi đánh Nam Định. Lực lượng Pháp đánh thành Nam Định rất hùng hậu, gồm tuần thám hạm Pluvier, pháo thuyền Fanfare, La Hache, Yalagan, Carabine, La Surprise, tàu hơi nước Hải Phòng, các tàu chuyển vận loại nhỏ Kiang Nam, Tonkin, Whampoa và 4 ghe mành, 4 đại đội thuỷ quân lục chiến, tổng cộng gồm chừng 800 người và một đội lính bộ binh bản địa. Đến ngày 27 tháng 3 năm 1883, quân Pháp hạ thành Nam Định với tổn thất rất nhỏ, chỉ có trung tá Carreau bị thương nặng rồi chết và 2 người nữa bị thương, trong khi phía quân Nam mất 200 người.
Trận Cầu Giấy
Nhân lúc Rivière vắng mặt, quân Nam tổ chức tấn công Hà Nội, tại làng Gia Quất tổng Gia Thụy huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh thời Nguyễn (Pháp gọi là Trận Gia Cuc), nhưng bị de Villers đẩy lui, (địa danh này nay thuộc Ngọc Thụy quận Long Biên, Hà Nội). Tình hình quân Nam trở nên nghiêm trọng, nhưng nhận được sự tiếp sức của quân Cờ đen và được quân Thanh yểm trợ, quânNam và quân Cờ đen quay lại đánh thành Hà Nội. Quân Cờ đen tiến về đóng đại bản doanh ở phủ Hoài Đức, đồng thời Tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản cùng với quan phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc huyện Gia Lâm chuẩn bị sang đánh Hà Nội. Quân Cờ đen để khiêu khích quân Pháp, đốt phá các khu giáo dân, lợi dụng đêm tối dùng pháo đặt trên lưng voi bắn vào Hà Nội, rồi tới ngày 10 tháng 5, gửi chiến thư thách Rivière ra đánh.
Để ngăn chặn hướng tấn công của quân Cờ Đen và quân triều đình từ Phủ Hoài, Rivière tổ chức một cuộc hành quân lớn đánh vào phủ Hoài Đức (Dịch Vọng Từ Liêm). Cuộc hành quân này có qui mô lớn, do thiếu tá Berthe des Villers làm tổng chỉ huy, gồm có:
Quân Pháp tại trận Cầu Giấy |
- 2 đại đội thủy bộ binh cùng với các thủy binh của tàu chiến Victorieuse do trung úy hải quân Le Pelletier de Ravinières chỉ huỵ
- 2 đại đội thủy bộ binh và các thủy binh của tàu chiến Villars do trung úy hải quân Sentis chỉ huy.
- 2 đại đội thủy bộ binh và các thủy binh của tàu chiến Léopard do thuyền phó Lebris chỉ huỵ với lực lượng tổng cộng chừng 500 người.
Cuộc hành quân bắt đầu vào lúc 4 giờ sáng ngày 19 tháng 05 năm 1883. Quân Pháp tiến về phía Cầu Giấy, là một cây cầu bắc ngang qua sông Tô Lịch chảy về hướng Bắc trước khi đổ vào Hồ Tây. Tinh thần quân Pháp rất cao, họ vừa đi vừa cười đùa và hát, vì họ cho rằng trận chiến sẽ rất dễ dàng. Đi được không bao xa khỏi Hà Nội, quân Pháp đã phát hiện bóng quân Cờ đen ẩn núp sau các lũy tre, nên Rivière hạ lệnh tăng tốc độ hành quân để chặn bắt chủ lực quân địch. Thiếu tá Berthe des Villers và đại úy Puech tiến chiếm Cầu Giấy, chia quân lục soát làng Tiên Đồng (thôn Tiền xã Dịch Vọng, nằm bên phải Cầu Giấy) rồi quay hướng sang làng Yên Khê (nằm bên trái Cầu Giấy) dày đặc tre rừng rất vững chắc, phù hợp cho việc đóng trại và phục kích của quân Cờ Đen. Quân Pháp dùng trọng pháo bắn vào làng Yên Khê Thượng (Thượng Yên Quyết) và làng Trung Tường (thôn Trung xã Dịch Vọng, nằm bên trái đường Cầu Giấy ngày nay), chuẩn bị tiến quân vào. Rivière và phụ tá tham mưu de Marolles cùng với Berthe des Villers vượt lên trước đoàn quân tiến vào khu chợ cách Cầu Giấy khoảng 330 mét.
Quân Cờ Đen trong làng Trung Tường bị quân của Trung úy Pelletier de Ravinières tiến đánh phải rút lui, quay sang tăng cường ổ phục kích của quân Cờ Đen chặn đường rút lui của cánh quân Pháp bên sông Tô Lịch. Khi quân Pháp lọt vào ổ phục kích, quân Cờ đen tràn ra để cắt đứt hậu quân Pháp. Bị vây đánh, quân Pháp co cụm lại, nên càng dễ dàng trở thành bia cho quân Cờ đen bắn hạ. Thiếu tá Berthe des Villers bị trúng đạn thương nặng, khiến Rivière phải ra lệnh rút lui, nhưng quân Cờ Đen từ các lũy tre làng dày đặc ào ra tứ phía để tấn công, quân lính Pháp có nhiều người bị giết. Rivièr và Marolles vội hạ lệnh rút lui về Cầu Giấy để chống cự. Một khẩu pháo rơi vào tay quân Cờ đen sau khi toàn bộ nhóm pháo thủ bị hạ sát, nên Rivièr cùng một toán quân xông ra để chiếm lại. Trong khi cùng một sĩ quan di chuyển khẩu pháo để đặt vào một địa thế ở Cầu Giấy, H. Rivièr bị trúng đạn ngay giữa trán ngã quỵ xuống chết ngay.
Quân Cờ Đen ào ra cắt lấy đầu H. Rivière, quân Pháp bị thua một trận đánh lớn, thiệt hại rất nhiều về nhân mạng, sĩ quan cũng như binh lính. Ngoài Rivière bị giết chết, nhiều sỹ quan khác như sỹ quan tùy tùng Clerc, sĩ quan tham mưu de Marolles bị thương, đại úy Jacquin và trung úy Heral de Brisis, đều thuộc thủy quân lục chiến bị tử trận, thiếu tá Berthe des Villers bị trọng thương, được đưa về Hà Nội nhưng cũng không qua khỏi, chừng 50 lính Pháp bị giết tại trận, hơn 70 lính bị thương. Trong thời gian sau đó, quân Nam liên tục tấn công quân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định, nhưng đều bị quân Pháp đánh lui.
Tin Rivière bị giết truyền về Paris , chính phủ Pháp của thủ tướng Jules Ferry vốn đang do dự về việc chinh phục Bắc kỳ, đổi thái độ sang chủ chiến. Nghị viện thông qua chiến phí 5 triệu rưỡi franc và đưa một đoàn quân 3000 người xuống tàu đi Viễn Đông. Thiếu tướng Bouet, nguyên là sỹ quan hải quân, ở Nam Kỳ được phái ra làm ra thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, Hải quân thiếu tướng, Đô đốc Courbet, nguyên toàn quyền New Caledonia được lệnh đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng, Bác sỹ Harmand, nguyên là bác sỹ giải phẫu của hải quân, sứ thần Pháp ở Xiêm, được cử ra làm toàn quyền để phối hợp các hoạt động quân sự và dân sự.
Vừa đặt chân tới Hà Nội cùng 200 lính tây và 300 lính tập, tướng Bouet đã ban hành ngay tình trạng khẩn cấp ở Bắc Kỳ, đồng thời cho phép một thuộc hạ cũ Jean Dupuis là Georges Vlavianos tuyển mộ và thành lập một tiểu đoàn quân Cờ Vàng, một đội quân kỵ binh tiền sát và một đội dân quân bản địa. Bouet cũng cho xây đắp, thêm đồn bốt phòng thủ thành Hà Nội và chỉnh đốn việc phòng thủ ở các thành Hải Phòng và Nam Định….
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét