Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

Kể chuyện về Nguyễn Hữu Đang và hồ sơ Nhân văn Giai phẩm




Đây là lời kể vừa xuất hiện, tháng 12/2014, của một vị thuộc lớp đàn chú đàn bác của chúng tôi ở Đại học Tổng hợp Hà Nội (sau khi ra trường, ông về Bộ Công an). Ông cũng là người được xem là có "gắn bó" với hồ sơ của vụ Nhân văn Giai phẩm


Ông cũng là người "gắn bó" lâu năm với cụ Nguyễn Hữu Đang. Hơn nữa, hai người còn là đồng hương của nhau (bức thư viết năm 1990 ở trên, cụ Nguyễn Hữu Đang ghi địa chỉ "Vũ Công" là một nơi gần với quê nhà của Thái Kế Toại).

Chú ý: theo thuật lại ở dưới đây thì, Thái Kế Toại gặp Nguyễn Hữu Đang từ sau Đổi Mới. Như vậy, tạm xem là khoảng các năm cuối thập niên 1980. Chuyện thực sự về Nguyễn Hữu Đang thời mới về quê nhà ở Vũ Công cho đến Đổi Mới, qua trải nghiệm đúng thời điểm đó, thì hiện còn ở dạng bản thảo, chưa từng được công bố (khác với những bài viết của những tác giả chỉ gặp hay gặp lại Nguyễn Hữu Đang từ sau Đổi Mới).

Toàn bộ tư liệu ở entry này là lấy về từ Fb Thái Kế Toại. Thường thì trước đây, khi viết về Nhân văn Giai phẩm, ông hay dùng bút danh là Lê Hoài Nguyên.

---

Khi ông Đang ra tù năm 1973 ông vẫn còn bị quản chế 5 năm. Theo tiền lệ thời gian đó Bộ Công an phải nuôi ông mỗi tháng 15 đồng, cũng tạm đủ ăn. Sau đời sống khó khăn số tiền đó không đủ nuôi ông, công an Thái Bình xin thêm, Bộ giải quyết cho 50 đồng nhưng hàng tháng phải cho người trực tiếp lên đơn vị tôi lĩnh về.

Bắt đầu đổi mới, tôi được giao nhiệm vụ tham mưu cho cấp trên xem xét xử lý vụ Nhân Văn- Giai Phẩm.

Đầu tiên là phải đọc lại toàn bộ hồ sơ vụ án. Đó là một công việc nan giải vì hồ sơ của vụ án này nhiều hàng mét khối. Giấy tờ đã lưu trữ hàng ba chục năm, bản viết tay nhiều, bản đánh máy thì lèm nhèm. Tôi vừa làm công tác lãnh đạo đơn vị vừa tranh thủ đọc các tập hồ sơ cơ bản. Một cán bộ là anh Dương Thanh Hưởng giúp cho tôi. Khi đọc hồ sơ tôi hiểu được bản chất vụ án, phát hiện ra một số tình tiết mà một số bài báo, bản tổng kết sau này đã viết khác đi.


Việc thứ hai là phải rà soát lại toàn bộ nhân sự cùng quan hệ nhóm, quan hệ xã hội, tâm tư, sáng tác, thái độ chính trị của những văn nghệ sỹ đã tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.


Việc thứ ba là đánh giá thái độ của các chính phủ, các cơ quan văn hóa, các đài phát thanh, truyền hình, báo chí các nước, các tổ chức quốc tế quan tâm đến vấn đề Nhân Văn- Giai Phẩm này. 


Kết qủa là tôi đã đề xuất cần thực hiện nhanh các biện pháp giải tỏa cho những văn nghệ sỹ đã tham gia nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Đó là biện pháp công tác tích cực nhất góp phần tháo bớt căng thẳng dư luận xã hội và văn nghệ sỹ, góp phần làm cho việc lợi dụng sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm theo chiều hướng tiêu cực giảm đi. Đầu tiên là khôi phục ngay hội tịch cho những người đã bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật. Thứ hai là cấp lương hưu cho hai ông Nguyễn Hữu Đang và Phùng Cung sau khi đi tù về không có lương, chỉnh lương hưu cho những người đã có lương nhưng quá thấp như Trần Duy, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm. Thứ ba là bình thường hóa việc in tác phẩm trên báo, xuất bản sách của các ông ở các nhà xuất bản. Thứ tư là dỡ bỏ những rào cản đối với nghề nghiệp, đời sống con cái các ông.


Nói thêm là cùng với số văn nghệ sỹ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm còn có một số văn nghệ sỹ khác cũng bị ngừng in bài, in sách trong một thời gian dài như Nguyễn Dậu, Hồ DZếnh, Vũ Trọng Phụng, Hà Minh Tuân, Hoàng Tiến, Hoàng Yến, Trần Huyền Trân, Hoàng Công Khanh...


Do nhiệt tình của Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương và các Ban, Ngành khác công việc được tiến hành nhanh chóng.


Riêng ông Nguyễn Hữu Đang do thân phận đặc biệt của ông cần được giải quyết ngay. Tôi trực tiếp đi Thái Bình. Hội ý với anh Hội Phó Giám đốc phụ trách an ninh, anh Tuất Trưởng phòng nghiệp vụ, anh Tý trinh sát xong, không dùng xe con, tôi nhờ anh Tý lấy xe máy đèo tôi xuống Trường cấp hai Vũ Công. Tôi ở lại làm việc với ông Đang, đêm ngủ ở nhà ông Hiệu trưởng ngay gần nhà ông Đang. Gọi là nhà chứ đó trước là căn bếp của trường trong buổi sơ khai, sau trường có bếp tập thể to hơn để lại cho ông Đang ở nhờ. Sau khi tôi về giải tỏa cho ông, ông Phùng Quán, nghệ sỹ nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán mới về thăm ông được. Khung cảnh và cuộc sống của ông đúng như Phùng Quán đã kể trong bài viết Người tổ chức Lễ Độc lập 2-9. Gầm giường ọp ẹp của ông đầy vỏ chai rượu, vỏ bao thuốc lá ngoại ông nhặt từ Hà Nội để trao đổi với bọn trẻ con cóc nhái làm thức ăn. Ông có một đống tất cũ đã rách cũng xin từ Hà Nội sửa lại để đi. Lại còn một chiếc vại nữa xin nước gạo của nhà bếp để lắng lại rồi gạn lấy phần bột để nấu cháo mà ông gọi là xúp. Rau thì ông trồng lấy trên vạt đất nhỏ trên bờ ao. Với mấy thứ đó ông cho là tự đủ dinh dưỡng, cũng không cần chợ búa. 


Ông vẫn để dành được số tiền trợ cấp ít ỏi của công an chi mua thóc lúc đang mùa, bán lại vào lúc giáp hạt để sinh lời. Có lúc ông đã có hàng tấn thóc. Nhưng con cháu ông nghèo khó luôn luôn nhòm ngó tìm cách vay mượn của ông rồi ăn quỵt. Trong thư viết cho tôi ông gọi họ là lũ giòi bọ, lưu manh. Ông thích nói về tư tưởng của Lão Trang, triết học an nhiên tự tại thuận theo quy luật tạo hóa. Ông cũng không tỏ ra ân oán với vụ án mà ông chịu 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau mãn hạn tù. Tôi biết ông đã trải qua những trại giam khắc nghiệt như Phong Quang Lào Cai, Quyết Tiến Hà Giang nhưng ông chỉ nói đến việc lần ông bị tạm giam ở Nam Định do sang thăm người bạn tù bị một thanh niên 18 tuổi cưỡi trên lưng, bắt ông làm chó cắn gâu gâu.


Trở về công an Thái Bình tôi trao đổi mấy việc theo tinh thần chỉ đạo của Bộ như sau:

Ông Đang đang là một công dân bình thường cần phải đối xử với ông bình thường như những công dân khác. Không thể tiếp tục thực hiện biện pháp quản chế như cũ. Phải làm hộ khẩu cho ông, cấp chứng minh thư cho ông. Ông được tự do đi lại mà không cần có giấy phép của công an mới được ra khỏi đất Thái Bình. Bạn bè, người thân từ xa về thăm ông không phải trình báo xin phép. Ông được đọc và mượn sách báo tại Thư viện của tỉnh, có thể giúp cho công tác biên soạn lịch sử cách mạng của tỉnh.

Về Hà Nội tôi báo cáo với Bộ trưởng cần đề nghị Bộ Lao động Thương binh Xã hội làm lương hưu cho ông Đang chứ không tiếp tục dùng tiền nghiệp vụ nuôi ông nữa. Vì ông độc thân, không có nhà cửa chỉ còn anh em con cháu ruột ở Hà Nội nên bố trí cấp nhà cho ông và cho ông chuyển lên sống ở Hà Nội. Việc xếp lương hưu tiến hành tương đối nhanh, ông được hưởng mức trợ cấp như chuyên viên bậc 5 tương đương Vụ trưởng. Đối với một người như ông Đang số tiền lĩnh hàng tháng đó rất là có ý nghĩa và cũng là rất lớn so với số tiền công an nuôi ông.

Việc cấp nhà và chuyển lên Hà Nội thì lâu hơn nhưng cũng xong vào đầu những năm 90 với sự giúp thêm của ông Trần Quốc Hương, người đàn em của ông Đang thời Văn Hóa cứu quốc, ông Phan Diễn là cháu của ông Phan Khôi. Căn nhà ông được cấp ở cùng Khu nhà tập thể Hội Sân khâu đường Liễu Giai nhưng ông đã bán đi dọn về ở cùng người cháu tên Hà con ông anh ruột tại Khu tập thể nhà máy bánh mỳ Nghĩa Đô.

Ông Đang bắt đầu viết và đăng báo trở lại. Vaì bài báo về đời sống điện ảnh Hà Nội trước 1945, Việc tổ chức ngày Lễ Độc lập 2-9-1945, Hoạt động của Hội truyền bá quốc ngữ...một truyện ngắn về người yêu của ông ở Hà Nội Chiếc vòng Xơ men. Các báo cũng có bài viết và ảnh về ông.

Tôi nhớ trong thời gian chờ đợi làm thủ tục ông lên Hà Nội hay đạp chiếc xe đạp mi ni lại chỗ tôi. Người đương thời Hà Nội không thể biết được ông già bé nhỏ vẻ mặt khắc khổ, dáng điệu nhếch nhác đạp chiếc xe mi ni kia lại là Nguyễn Hữu Đang một thời nổi tiếng ở thành phố. Tôi đã trả lại cho ông bức ảnh giấy lụa còn rất đẹp về Kỳ đài Lễ Độc lập 2-9-1945 Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn độc lập. Ông Đang đứng trên lễ đài phía ngoài cùng bên phải.Một lần ông bị sưng bàn chân trái. Tôi đề nghị Bệnh viện 198 của Bộ Công an chữa cho ông. Ông Giám đốc Hoàng Tuấn mừng lắm nhận lời ngay vì mấy khi có dịp chữa bệnh cho con người đặc biệt đó. 

Trước khi vào viện anh em tôi đưa ông ra ăn phở Nam Ngư đang có tiếng. Mấy bà bán nước chè ngỡ ngàng khi ông nói chuyện phở ngày xưa. Ngày xưa Hà Nội không có phở gà như bây giờ. Chỉ có phở bò, phở chín, phở tái, phở nạm, phở gầu, phở nước trong, phở nước đục.. Họ cũng không thể biết rằng Nam Ngư là cái quán phở thời trước ông vẫn ăn, căn nhà cũ ông ở cũng ngay gần đây ngoài phố Yết Kiêu. 

Có lần tôi hỏi ông việc bối trí quay phim ngày 2-9-1945 ông bảo có đặt hiệu ảnh Hưng Ký ở Hàng Trống quay phim nhưng sau họ báo là phim bị hỏng, chỉ còn ít ảnh. Do bận nhiều việc to lớn hơn nên không ai nghĩ đến việc này. Ông cho biết hình như Đội biệt kích Con nai của người Mỹ cũng chịu trách nhiệm bảo vệ kỳ đài ngày 2-9 có thể có máy quay. Sau này khi Điện ảnh Công an làm bộ phim Điệp viên nhảy dù về nhóm các ông Lê Giản, Hoàng Đình Giong, Nguyễn Văn Ngọc, Trần Hiệu, Nông Văn Hoạt được Đồng minh thả dù xuống miền Bắc Việt Nam đầu 1945 liên lạc với Việt Minh đánh phát xít Nhật chúng tôi được Hội hữu nghị Mỹ Việt tặng một cuốn băng video có những thước phim quay về hoạt động của Đội Con nai ở chiến khu Việt Bắc. Tuy vậy đấy mới chỉ là giả thiết. Cho đến giờ người quay những thước phim nhựa cực kỳ quý giá về ngày lễ Độc lập 2-9-1945 vẫn còn là một ẩn số.

Ngày 20-11-1992 hai người em kết nghĩa là thi sỹ Phùng Cung và thi sỹ Phùng Quán tổ chức cho ông Lễ mừng thọ 80 tuổi tại nhà ông Phùng Quán ven hồ Tây. Hàng trăm người đủ các thế hệ già trẻ của văn nghệ sỹ Hà Nội, những người bạn cũ, ông Vũ Tú Nam Tổng thư ký Hội Nhà văn đã đến dự. Trong lời tâm sự ông nói:
Tôi không thể nói hết được sự cảm động của tôi trước cử chỉ thân ái, ân cần của các bạn đối với tôi hôm nay. Đúng là việc may mắn lớn mà trước đây tôi không thể nào nghĩ tới, không thể nào tưởng tượng được.

Sau khi ông Đang yên vị ở Hà Nội tôi chuyển sang phụ trách Điện ảnh Công an, một công việc thuần túy quản lý nghệ thuật ít có dịp gặp lại ông. Sau nhiều năm, có một lần trong dịp kỷ niệm gì đó của Hội Nhà văn ở Cung Hữu nghị Việt Xô tôi thấy ông đứng với các ông Nguyễn Đình Thi, Vũ Tú Nam... Tôi đi lại chào và bắt tay các ông. Ông Đang đã già, thần sắc ngơ ngác. Ông bắt tay mà hình như không nhận ra tôi...


Tháng 12-2014

---

Đọc thêm (tư liệu đã công bố từ năm 2010)

22/08/2010

Vụ Nhân văn – Giai phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành
Lê Hoài Nguyên
imageNhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) đã gửi tới NTT.ORG một chuyên luận dài về Nhân văn - Giai phẩm. Các bạn hãy đọc nó như đọc một “góc nhìn” về sự thật.
“Tác giả là người đã được đọc lại toàn bộ hồ sơ nghiệp vụ chuyên án NVGP, tiếp xúc với hầu hết thành viên chủ chốt của vụ án, một số văn nghệ sỹ tham gia vào đấu tranh với NVGP, tiếp xúc sớm nhất với các tài liệu nghiên cứu, các bài viết về NVGP từ nước ngoài, tiếp xúc tương đối đầy đủ các bài viết về các nhân vật NVGP ở trong nước từ sau đổi mới. Tác giả tin rằng NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, Chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”.
Lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo

Xin được giới thiệu thêm: Lê Hoài Nguyên khi đang còn là cán bộ A25 cũng là người đã nhiệt tình cung cấp nhiều tư liệu quý cho GS Nguyễn Huệ Chi để ông viết bài tiểu luận “Vài cảm nhận văn học Việt Nam hải ngoại” đăng trên Tạp chí văn học của Viện Văn học số 2-1994 mà ngay sau lúc công bố, Văn phòng Trung ương Đảng đã có công văn xuống cho Viện yêu cầu cung cấp 10 số báo để các Ủy viên Bộ chính trị “xem xét”; sau đó bài viết đã trở thành đề tài thảo luận trên đài RFI ba buổi với ba học giả, nhà văn: Đặng Tiến, Tạ Trọng Hiệp, Trần Vũ, và cũng được đăng lại nguyên vẹn trên tạp chí Hợp lưu (Hoa Kỳ), và trích đăng trên tạp chí Văn học (Hoa Kỳ).
Vì mang tính cách một bài tổng kết về Nhân văn – Giai phẩm, không thể rút gọn,BVN sẽ đăng lại công trình của Lê Hoài Nguyên thành ba kỳ trong ba Chủ nhật liên tiếp để bạn đọc tham khảo.

I– Mấy vấn đề có tính phương pháp luận
Hiện nay còn tồn tại nhiều cách đánh giá về vụ Nhân Văn - Giai Phẩm. Có người cực đoan cho rằng cốt lõi đây là vụ án chính trị phản động không dính líu gì đến văn học, mà chỉ có một số anh em văn nghệ sĩ bị lôi kéo vào (1). Người thì cho là một vụ án văn học, oan sai về văn học (2). Tất nhiên là để bảo vệ các khuynh hướng đánh giá không phải dễ dàng, mà phản bác hoàn toàn cũng cần hết sức thận trọng.
Với tất cả những gì đã xảy ra nên coi đây là một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành thì đúng hơn. Để đi tìm cách cắt nghĩa nó. Gìn giữ những gì nó đặt ra, nó để lại cho nền văn học nước nhà. Còn nếu coi là vụ án chính trị thì không cần tốn giấy mực để viết về nó trong lịch sử văn học làm gì.
Xem xét từ cốt lõi các vấn đề chủ yếu, tức là hồn cốt vụ án, tức là hình thái của nó, các điều kiện lịch sử của nó, các nhân vật của nó, các vấn đề nó đặt ra cho xã hội đều thực sự là tư tưởng và văn học.
Vài vấn đề về phương pháp luận:
* Đánh giá NVGP trong tiến trình tư tưởng Việt Nam từ 1945- 1948- 1954- 1960 cho đến 1986- và nay 2010. Tiến trình tư tưởng cách mạng VN có đặc điểm riêng, khi du nhập chủ nghĩa Mác-Lênin. Trước khi ngả hẳn, thuần hóa chủ nghĩa Mao, nó có trạng thái lưỡng phân và giao tranh giữa tư tưởng dân chủ với tư tưởng cộng sản, tư tưởng toàn trị với tư tưởng pháp quyền (3).
* Các vấn đề của NVGP đặt ra đều có nguồn gốc từ các thời kỳ trước đó, NVGP xuất hiện vào lúc hội đủ điều kiện cả khách quan và chủ quan. Vì mang tính tất yếu, những gì mà NVGP chưa làm xong thì các thế hệ sau sẽ tiếp tục phải làm.
* Đánh giá bản chất của NVGP còn phải dựa trên tập quán hành xử chính trị của hệ thống XHCN, của xã hội VN trên cơ sở thể chế hiện hành. Tức là không thể tin cậy vào các lượng thông tin chính thống, vì loại thông tin đó đã bị biến dạng và thường là không phản ánh trung thực, toàn diện bối cảnh xã hội lúc đó, không phản ánh đúng bản chất các sự việc. Cần phải tiếp cận NVGP từ nhiều phía, nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong và ngoài nước, quan trọng nhất là thông tin của những người trong cuộc.
* Xem xét vụ NVGP phải lấy việc xem xét nội dung văn học của nó, cái nội dung ấy phản ánh tình trạng văn học lúc đó thế nào, chứ không lệ thuộc vào việc nhà nước công bố nó là chống đối, tức chống đối là không có giá trị văn học. Từ trước đến nay những người viết về NVGP gần như theo quan niệm này và đã không xem xét giá trị văn học của các sáng tác.
Vậy ta có thể tạm khái quát như sau:
NVGP trước hết là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học đòi hỏi dân chủ hóa ở miền Bắc Việt Nam năm 1954-1960 có nguồn gốc và đã xảy ra trong nội bộ Đảng CSVN, trong bộ máy Chính phủ Kháng chiến chống Pháp do Hồ Chí Minh lãnh đạo trong quá trình đi từ chủ nghĩa dân chủ tư sản đến chủ nghĩa cộng sản hình thái Mao Trạch Đông (1948–1954), bùng phát vào thời điểm đặc biệt 1955 trên các lĩnh vực triết học, tư tưởng, pháp luật, giáo dục, văn học nghệ thuật, báo chí chủ yếu trên các ấn phẩm báo Nhân Văn, Sáng Tạo, Trăm Hoa, Tự Do Diễn Đàn, Đất Mới - Chuyện Sinh Viên, Văn… và các sách dạng tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân, Giai Phẩm Mùa Thu, Giai phẩm Mùa Đông, Sách Tết, Vũ Trọng Phụng… do khởi xướng hầu hết là số văn nghệ sỹ, trí thức tài năng, có nhiều công lao trong kháng chiến chống Pháp, trong quân đội, bị đàn áp và xét xử công khai bằng một vụ án chính trị hoạt động gián điệp lật đổ chính quyền nhân dân với cái tên Nhân Văn - Giai Phẩm, tiếp theo là việc xử lý bằng các hình thức trừng phạt nội bộ với hàng trăm giáo sư, thày giáo, sinh viên, nhà văn, nghệ sỹ điện ảnh sân khấu, nhạc sỹ, họa sỹ, kiến trúc sư, phóng viên, xuất bản, cán bộ lãnh đạo, nhân viên một số bộ ngành, cơ quan nhà nước…
Sau khi bị đàn áp, NVGP không chết ngay lập tức, nó còn tồn tại dai dẳng trong một số sáng tác của Phùng Cung, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan…thậm chí cả Nguyễn Chí Thiện (4), nhóm Văn nghệ Chân đất ở Hà Nội những năm 70-80 (5), cho đến vụ Hoàng Cầm, Hoàng Hưng bị bắt năm 1983 (6) [tác giả nhầm, HC và HH bị bắt năm 1982 – BXVN], cho đến lúc Đổi mới, trao Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh cho một số nhân vật chủ chốt của vụ NVGP 50 năm về trước. Còn mục tiêu tự do tư tưởng, tự do sáng tác, dân chủ xã hội pháp quyền, cách tân nghệ thuật mà NVGP đã đặt ra thì vẫn đang là câu hỏi cho các thế hệ người Việt Nam cho đến hôm nay…
Để có thể xem xét vụ NVGP một cách thỏa đáng không bị ràng buộc về khía cạnh vụ án chính trị, tôi chọn cách nhìn nó với tư cách là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học.
II– Các tiền đề dẫn đến vụ NVGP
1- Bối cảnh chính trị Việt Nam 1945-1954 và những tác động của quá trình Mao hóa hệ tư tưởng phản ánh vào đời sống văn học nghệ thuật.
Phản ánh của các sử gia Việt Nam về Cách mạng Tháng Tám 1945 và giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp là một cách viết sử đơn giản, dường như chỉ lấy mục đích tường thuật các chiến thắng quân sự của chính phủ Hồ Chí Minh với nguồn sử liệu nghèo nàn, một phía, hoặc với những đánh giá không khách quan. Khác với các sử gia Việt Nam, các sử gia nước ngoài, chủ yếu là phương Tây, có nguồn tư liệu từ hai phía, nhất là hồ sơ của Pháp, Nga, Trung Quốc, hồ sơ các cuộc phỏng vấn trực tiếp các cá nhân tham gia các sự kiện lịch sử, từ chỗ đứng khách quan với phương pháp tư duy phức tạp hơn họ có thể nhìn ra tiến trình lịch sử đó dưới nhiều góc độ khác nhau đặc biệt là sự vận động của hệ tư tưởng ở những người cộng sản Việt Nam đã tạo ra tình trạng phân hóa nội bộ trong giới lãnh đạo và quần chúng, tạo ra các chính sách trước sau mâu thuẫn, các màu sắc chính trị đối ngoại, các vụ án kiểu như NVGP (7)…
Có hai điểm làm cho quá trình Mao hóa hệ tư tưởng ở VN dùng dằng ở trạng thái lưỡng phân trong một thời gian dài:
* Một là trong thời điểm 1945 Việt Minh giành được chính quyền trong tương quan cùng có nhiều lực lượng quốc gia yêu nước tham gia. VM không đủ thế lực quản lý đất nước khi họ chưa có được sự công nhận, hậu thuẫn của phe XHCN, HCM vẫn còn phải tính toán con đường tồn tại trong khối Liên hiệp Pháp. Xu thế này phản ánh trong chính bảnTuyên ngôn độc lập do HCM đọc tai Ba Đình ngày 2-9-1945 và trong thành phần chính phủ liên hiệp sau đó. Ngay cả khi cuộc chiến toàn quốc đã nổ ra, 19-12-1946, VM lập một chính phủ mới hoàn toàn là của họ nhưng vẫn còn một tỷ lệ lớn là thành phần trí thức do Pháp đào tạo, đã từng cộng tác với chính phủ Trần Trọng Kim, thuộc các đảng Dân Chủ và Xã Hội, trong đó có các nhân sự chủ chốt của các ngành tư pháp, y tế, giáo dục, xã hội, thậm chí cả một phần công an, quân đội nữa. Phương án muốn duy trì bộ mặt khả ái của chính sách cai trị để đi theo khối Liên hiệp Pháp còn được đẩy mạnh vào các thời điểm giữa năm 1947, giữa năm 1957 khi miền Bắc VN vẫn còn hy vọng hiệp thương thống nhất đất nước (8).
* Quá trình xây dựng nhà nước VNDCCH theo hướng dân chủ bị biến dạng và bị phá vỡ bởi sự thắng lợi của CNXH châu Á ở Trung Quốc. Không phải HCM không thấy hết mặt trái của chủ nghĩa Mao nhưng do rất cần nguồn viện trợ và do Stalin không mặn mà với ông, giao hẳn trách nhiệm cho cách mạng Trung Quốc giúp đỡ cách mạng Việt Nam, ông phải mở cửa cho các cố vấn cộng sản Trung Quốc mang theo chủ nghĩa Mao xâm nhập vào đất nước. Điều này dẫn đến sự lệ thuộc của cộng sản Việt Nam vào cộng sản Trung Quốc, tạo cơ hội cho Mao áp đặt hệ tư tưởng của ông ta lên Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam (9).
Bề mặt của quá trình này thể hiện ở các mâu thuẫn trong nội bộ cộng sản Việt Nam, ở các cuộc chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, tranh luận về văn học, luật pháp, tư pháp, ở các cuộc thanh trừng những trí thức kiên trì với tư tưởng dân chủ mới hoặc CNXH chân chính như Vũ Đình Hòe, Vũ Trọng Khánh, Nguyễn Hữu Đang. Lĩnh vực giải hóa luật pháp và NVGP là điển hình của quá trình đó.
Đối với văn nghệ do cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Trường Chinh là người đã đưa các quan điểm văn nghệ của Mao Trạch Đông vào hoạt động Văn hóa cứu quốc từ năm 1943, kiên trì bảo vệ nó cho tới khi đổi mới, đã tạo ra rất nhiều vụ án văn nghệ khác, là nhân tố chính làm cho nền văn nghệ Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền nhưng tụt hậu so với sự phát triển chung của nhân loại.
Trong thời kỳ ban đầu Trường Chinh không thể chi phối được mọi hoạt động của VHCQ do đa số những người thực hiện là các trí thức có ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản. Do điều kiện kháng chiến, VM không thể thành lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt đường lối của mình. Mâu thuẫn đã bộc lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh ngay từ lúc tổ chức Hội nghị VHCQ toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể nói kết thúc bằng Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ VHCQ thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ Maoist vào thời điểm tháng 7-1948 (10). Từ thời điểm này sự rạn nứt trong đội ngũ văn nghệ kháng chiến càng trở nên trầm trọng hơn. Nhiều người bắt đầu bỏ về thành, số lượng nhiều hơn khi các cuộc chỉnh huấn theo kiểu Mao mở ra (11). Số này sau trở thành lực lượng nòng cốt của văn nghệ Sài Gòn : Tạ Tỵ, Mai Thảo, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Phạm Duy, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh… Trong số VNS ở lại vùng kháng chiến các cuộc tranh luận về tự do sáng tác và dân chủ vẫn còn diễn ra với các ông Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Tô Ngọc Vân, Ván Cao, Sỹ Ngọc… Có khi trở thành đòn đánh nhau công khai như việc phê bình thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, tranh lập thể của Văn Cao, Tạ Tỵ… Tuy vậy trong bộ máy của Chính phủ kháng chiến HCM vẫn không có Bộ Văn hóa, Hội Văn nghệ đã phải làm thay chức năng cho bộ này cho tới tháng 2-1955. Đa số văn nghệ sĩ trong kháng chiến đều gia nhập quân đội và thuộc quản lý của Phòng Văn nghệ quân đội với các chính sách văn nghệ được quân sự hóa dưới sự lãnh đạo của các chính ủy.
Hy vọng về một cuộc sống thoải mái hơn về vật chất và tinh thần  sau khi hòa bình lập lại bị héo úa về cuộc Cải cách ruộng đất và những khó khăn trong đời sống, do cách thức quản lý xã hội như hộ khẩu, cải tạo tư sản, thương nghiệp quốc doanh… Trong văn nghệ đó là tệ lãnh đạo chính trị thô bạo, ép buộc tuyên truyền một chiều, tệ bè phái cơ hội, tác phong lãnh đạo hống hách, sáng tác đơn giản sơ lược …
2– Bối cảnh quốc tế, cuộc cách mạng dân chủ lần thứ nhất của phe XHCN tác động đến CMDC ở Việt Nam.
Sau 1945 không phải Liên Xô đã hoàn toàn chi phối được chính quyền  các nước Đông Âu. Ở một vài nước vẫn còn chính phủ DCTS. Đến đầu những năm 50 các cuộc chính biến cộng sản ở các nước này nổ ra lật đổ các chính phủ DCTS thì mới có được một hệ thống XHCN thuần nhất theo sự lãnh đạo của Liên Xô.
Cũng như ở Liên Xô toàn bộ các nước XHCN dưới sự chỉ đạo của Stalin đã bộc lộ các mâu thuẫn gay gắt trong nội bộ lãnh đạo các ĐCS, giữa nhân dân, trí thức, văn nghệ sĩ với ĐCS về các vấn đề pháp quyền dân chủ… Chỉ đợi đến lúc Stalin chết thần tượng Stalin mới bị hạ bệ, bị kết tội về những tội ác đã gây ra trong thời kỳ cai trị Liên Xô bằng chế độ độc tài và các cuộc thanh trừng nội bộ đẫm máu. Trong Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng Sản Liên Xô tháng 2-1956, Tổng Bí thư Khrútsôp đã đọc báo cáo tổng kết thời Stalin và đề xuất chiến lược mới cho phe XHCN chung sống hòa bình cũng có nghĩa là mở ra cho các nước xã hội chủ nghĩa một thời kỳ dân chủ (12).
Không phải đợi đến khi Khrútsốp chính thức tuyên bố, ở các nước XHCN đều đã có các yếu tố đòi hỏi phải cải cách dân chủ. Nhưng tiếc rằng khi hoa dân chủ nở rộ, ngọn sóng dân chủ đã làm cho các ĐCS ở đây lo sợ về nguy cơ khủng hoảng. Các phần tử bảo thủ đã tìm mọi cách làm cho những người khởi xướng, ủng hộ cải cách do dự rồi lật ngược thế cờ. Một số cuộc nổi dậy bị đàn áp, các văn nghệ sĩ cấp tiến bị xử lý, thậm chí bị kết tội hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân. Có thể gọi đó là Cuộc cách mạng dân chủ XHCN lần thứ nhất. Sau hai mươi năm cuộc Cách mạng dân chủ lần thứ hai đã nổ ra cũng khởi đầu từ Liên Xô với ngọn cờ Công khai - Cải tổ của Gorbachốp Tổng Bí thư ĐCSLX và đã dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống XHCN .
Vậy cuộc cải cách dân chủ lần thứ nhất ở Việt Nam chính là Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, một trào lưu tư tưởng, trong đó theo truyền thống Á Đông, đặc trưng cơ bản của nó là phản ứng và xử lý về ngôn từ chứ không phải là một vụ án gián điệp, một vụ bạo loạn. Tất nhiên khi yêu cầu cách mạng này đặt lên vai văn học thì từ bên trong văn học xuất hiện những yêu cầu thay đổi về hình thức để đáp ứng yêu cầu xã hội.
3- Bối cảnh văn nghệ miền Bắc 1945-1954.
Nền văn nghệ Việt Nam vốn từ một nền văn nghệ nho giáo bắt đầu được hiện đại hóa với chữ quốc ngữ, đỉnh cao là Thơ Mới và Tự Lực Văn Đoàn. Hai phong trào văn học này làm cho văn học Việt Nam vươn tới một nền văn học có các phương pháp sáng tác của văn học hiện đại thế giới cả về ngôn ngữ, nhân vật, thi pháp biểu hiện, chủ nghĩa cá nhân…
Nếu nói về tiến trình văn học, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã làm gián đoạn, nếu không nói là đứt đoạn quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam. Ở đây không nói toàn bộ nền văn học mà là bộ phận văn học do những người cộng sản Việt Nam thực hiện quản lí. Các chính sách về VHVN của ĐCSVN bị ảnh hường nặng nề chủ nghĩa Mao, sau nữa là chủ nghĩa Lênin, Stalin, đã đoạn tuyệt gần như hoàn toàn với quá khứ nhất là bộ phận di sản văn nghệ quan trọng nhất, 1930-1945, đã tuyệt đối hóa chức năng tuyên truyền, lấy quần chúng công nông binh làm mục tiêu, làm thước đo giá trị của văn nghệ, đã thủ tiêu mọi ý tưởng thể hiện nghệ thuật bằng ký hiệu nghệ thuật của người nghệ sĩ. Chính vì vậy người ta mới cường điệu việc tìm đường, nhận đường cho văn nghệ sĩ, gọi nó cuộc lột xác đau đớn, là cuộc sống mới với câu tuyên ngôn giết chết cái cũ trong con người họ.
Chính vì thế, văn nghệ kháng chiến đã đánh mất nhiều tài năng trong các cuộc chỉnh huấn, các cuộc phê bình nội bộ tâm hồn tiểu tư sản hoặc phê bình mạt sát các loại hình nghệ thuật hiện đại. Một bộ phận đáng kể trí thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng tự do trong đó đa số là gốc Bắc đã ly khai văn nghệ kháng chiến. Còn các văn nghệ sĩ tiền chiến thì co mình lại, hoang mang không biết viết cái gì, vẽ cái gì. Lớp văn nghệ sĩ do công nông binh sinh ra chưa thể trở thành những cây bút có tầm vóc. Nhìn vào chất lượng các Giải thưởng văn nghệ trong kháng chiến thì thấy rõ điều đó, có thể gọi là xuất sắc với vài bài thơ, một vài tiểu thuyết có phần đơn giản.
Bước sang giai đoạn hòa bình trong khi bộ máy quản lí vẫn còn đang theo quán tính cũ, thì cuộc sống đã đặt ra những vấn đề mới.
Cách mạng đã chuyển giai đoạn. Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, ai cũng biết là một thời kỳ có nhiều biến chuyển sâu sắc triệt để hơn tất cả các thời kỳ cách mạng trước. Cuộc sống thay đổi rất nhanh và một điều làm cho nhiệm vụ của nhà văn trở nên phức tạp hơn, là công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn đương tiến hành, khó phân biệt trong đó cái gì đương xây dựng chưa xong, và cái gì đương đổ sụp…
Như Phong- Nhìn lại bước đường đã qua,
(Tuyển tập Như Phong)
Trong bối cảnh văn học riêng của miền Bắc như thế, trong bối cảnh văn học thế giới, văn học Sài Gòn đang chuyển sang các chủ nghĩa hiện đại, bối cảnh cuộc cách mạng dân chủ của toàn phe XHCN, tất các văn nghệ sĩ phải đặt ra việc cách tân văn học cả nội dung và hình thức. Đặc biệt của NVGP là sứ mệnh cải cách lại do chính những trí thức, văn nghệ sĩ con đẻ của cách mạng, những người đã ở tuyến đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp khởi xướng.
Nếu cố thoát ra khỏi lối mòn, nhìn theo tiến trình phát triển văn học thế giới, có thể thấy rằng ở Việt Nam nhóm thơ Xuân Thu Nhã Tập của Nguyễn Xuân Sanh đã báo hiệu sự bế tắc của chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán để chuyển qua chủ nghĩa siêu thực. Đó không phải là dòng văn học tiêu cực mà là tích cực theo ý nghĩa nó là một cố gắng của những nhà văn đi tìm lối thoát đưa văn học Việt Nam tiến lên.
Tiếp theo, mọi người còn nhớ, sau trong những ngày mấp mé bờ vực chiến tranh của nước Việt Nam mới, tiếp tục xuất hiện nhóm thơ Dạ Đài của Trần Dần, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch… Trong bản Tuyên ngôn tượng trưng nhóm Dạ Đài đã nói rõ thái độ phủ định văn học giai đoạn cũ và không giấu diếm ý đồ muốn tạo ra một dòng văn học mới:
Vì thế, cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn khóc bạn chẳng làm chúng ta quên, ví chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bềnh của bản thanh âm hoàn vũ.
Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động.
Trần Dần thủ lĩnh của nhóm Dạ Đài sau mười năm, ở một ngã ba, ngã tư thời đại, lại đã được trời đất cho nguồn cảm hứng về một cuộc lột xác cho nền văn học.
Hẳn là Trần Dần đã mang cái khát vọng sôi sục ấy vào các trường ca Cách mạng Tháng Tám, Đi - Việt Bắc, Nhất định thắng… và lôi cuốn các người bạn cùng theo. Trong nhật ký Ghi 1954 ông viết:
Lúc tôi muốn một thứ Thơ dễ dãi. Lúc một thứ Thơ không có vần. Lúc một thứ Thơ như một hạt ngọc. Lúc một thứ Thơ kể chuyện. Lúc một thứ Thơ gồ ghề. Lúc một thứ Thơ hiền lành, có cái khỏe của những bắp thịt hồng. Lúc một thứ Thơ na ná như của anh lính, nó mát mà lành, nó hiền mà khỏe, nó thực tế. Lúc là một thứ Thơ na ná như bài nói của anh cán bộ, nó đả thông, nó giục giã, nó lý luận.
Tôi thích Thơ thời sự, theo sát cái hồi hộp, lo lắng của Đảng tôi, dân tôi, triệu triệu quả tim dân chúng và quân đội, chiến sĩ và cán bộ, lãnh tụ và quần chúng.
Tôi lại cũng thích Thơ không thời sự, Thơ bao trùm đất nước và thời gian, Thơ ăn lấn sang mọi thế kỉ, và Thơ nhập cả vào cái biện chứng bao la của sự vật.
Vì vậy bây giờ tôi muốn một thứ Thơ nào đó lấy đề tài ngay ở nhịp đập trước mắt của trái tim dân tộc Việt Nam. Nhưng trong đề tài đó tôi đào mãi đào mãi tới khi tôi tìm thấy quả tim Nhân Loại. Đó là thực sự mà cũng là ý muốn của tôi. Quả tim dân tộc tôi có nghĩa là quả tim Nhân Loại. Nhịp đập của nó là nhịp đi của Biện Chứng. Cái ngày hôm nay là dồn ép của hàng triệu năm về trước và mở ra triệu thế kỷ về sau. Tôi muốn một thứ Thơ nào đó vạch ra được sự thực đó. Hạt bụi, sợi tóc mây là cả một vũ trụ. Một khoảnh khắc là cả lịch sử của trần gian. Một thắc mắc của em là tất cả lo âu nhân loại.
Qua những dòng này không ai có thể nghĩ đó là một quan niệm suy đồi. Cách mạng đã cho Trần Dần một quan niệm thơ ca mới mẻ và rất biện chứng, rất tích cực đối với cuộc sống.
Như vậy có lẽ trước tiên NVGP đi từ cảm hứng của một cuộc cách mạng văn học, bị kích thích bởi thời cuộc Việt Nam 1954-1956. Tuy vậy, vẫn phải nói thêm rằng nếu không có cái thời cuộc đó sẽ không có NVGP!
Trong NVGP trào lưu tư tưởng chính trị và trào lưu tư tưởng văn học gặp nhau đã tạo ra một sức mạnh xã hội to lớn làm chính quyền nhìn thấy một nguy cơ đe dọa nguy hiểm cần phải loại bỏ hơn là để nó tồn tại. Lúc ấy miền Bắc Việt Nam chưa đủ điều kiện để làm một cuộc cải cách dân chủ, một cuộc cải cách văn học.
Ba mươi năm sau, đứng trước nguy cơ khủng hoảng, ĐCSVN mới đưa ra sách lược đổi mới. Trường Chinh đã làm được việc khởi xướng đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có ít nhiều thay đổi, nhưng những di sản văn hóa Maoist mà ông ta đã áp đặt lên đất nước từ 70 năm nay dù đang hoen gỉ nhưng bộ khung thì vẫn còn tù hãm đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
4- Các điều kiện nảy sinh NVGP
Mặc dù chủ nghĩa Mao đã được chính thức thừa nhận trong cương lĩnh ĐCSVN tại Đại hội lần thứ II tháng 2-1951, nhưng do các điều kiện  của thời kỳ đó, nội bộ lãnh đạo Đảng vẫn còn bị ràng buộc bởi các sự kiện sau:
Họ còn đang choáng váng về hậu quả của sai lầm do CCRĐ gây ra, Đảng phải công khai xin lỗi nhân dân, Tổng Bí thư Trường Chinh phải từ chức, một số cán bộ lãnh đạo CCRĐ bị kỷ luật (13).
Họ còn bị ràng buộc những điều kiện để hy vọng tiếp tục quá trình hiệp thương thống nhất đất nước và giành thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử cho nên phải cố gắng tạo bộ mặt sạch sẽ cho chính thể VNDCCH như tiếp tục sử dụng nhiều nhân sĩ trí thức trong Chính phủ, Quốc hội, ban hành các đạo luật có tính chất dân chủ cởi mở như Luật tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội… Cho đến giữa năm 1957 HCM vẫn còn tính đến khả năng Việt Nam xin gia nhập Khối Liên hiệp Pháp (14).
theo Blog Giao/
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: