|
T
|
ừ lâu gã không để
ý đến gò cỏ tranh có cái tên là gò Đất đen. Khuất sau gò có một ngôi nhà kỳ
quái không giống bất cứ ngôi nhà nào trong vùng. Mái nhà lợp cỏ, vách che cỏ đến
cả lối đi cũng ngập cỏ lùng nhùng. Đó là ngôi nhà không mấy người trong làng
qua lại vì tính quái đản của chủ nhà. Một người cao to, tay dài quá gối, lưng
vượn. Gã có cái miệng lôi công, tiếng ngân nga như chuông đồng nhưng khi gã
quát lác vợ con tiếng vang như lênh vỡ. Một thằng đánh giặc miệng mà hù hoạ được
số đông đàn ông trai tráng trong làng. Không ai biết gã tên thực là gì, quê
quán nơi đâu? Chỉ nghe gã bảo gã là một trong hàng ngàn thanh niên thủ đô đi
tình nguyện khu kinh tế mới. Gã vất vưởng ở một nông trường trồng chè một thời
gian. Ngày ngày xua đàn bò mấy trăm con lên đồi, tối đến lại lùa về. Gã chán nản.
Gã không thể theo đòi Tô Vũ chăn dê, gã đã thịt một con bò của nông trường lấy
tiền về xuôi. ở thành phố gã không còn ai thân thích, không giấy tờ hộ khẩu,
nên gã không thể sống yên ổn lâu dài. Gã theo một người tài xế lái xe làm lơ
xe. Cuộc sống lang bạt nay đây mai đó cho đến khi gã gặp cô Là xuôi mảng về bán
củi ở chợ tỉnh. Hàng bún ốc là nơi hai người gặp nhau. Cuộc tình tốn kém không
đáng kể vì gã chỉ mời nàng ăn được đến bát thứ hai thì không sao ăn thêm được nữa.
Cô Là nói mẹ cô sinh con một bề. Ruộng nương nhà cô làm không xuể nếu có người
đàn ông chèo chống chả mấy nỗi trở lên giàu có. Vậy là gã từ bỏ cuộc sống nay
đây mai đó, theo cô Là về xóm này.
Đúng
là mẹ cô Là sinh con một bề, nhưng bà là vợ lẽ một ông người dưới xuôi lên. Tầm
gửi lấn cành, bà vợ cả lần hồi thâu tóm hết ruộng nương, nhà cửa của bà hai.
Khi con gái dẫn “trai” về nhà, đại gia đình ấy kịch liệt phản đối. Cuối cùng,
chấp nhận cho cô Là cái nhà bếp muốn dỡ đi đâu dựng thì dỡ. Gò mả “Cờ đen” là
nơi vô thừa nhận từ bao năm nay, gã dỡ cái nhà bếp ấy về đấy dựng nhà. Quanh gò
cỏ gianh là một con suối sâu cách biệt với xóm làng. Lối đi lại duy nhất là cây
sung già đổ gẫy gập làm thành cái cầu tự nhiên.
Đêm
đêm, người ta bảo trên cây sung già có người đàn bà mặc quần áo trắng, tóc dài
để xoã chấm gót, khi khóc khi cười rấm rứt trên ngọn cây. Thường thì đom đóm có
mùa từ cuối xuân sang hè mới bay ra khi hết ngày sập tối. Nhưng chỗ gốc sung gần
như nó lượn lờ quanh năm. Chỉ giảm hơn một chút vào mùa khô lạnh.
Không
ai từ xưa tới giờ được nhìn thấy cảnh chôn người ở đây dù vẫn gọi là gò mả cờ
đèn. Quân Lưu Vĩnh Phúc một thời đóng đồn trên gềnh "Ông tướng" cách
chỗ này nửa dặm. Người ta lưu truyền vì không hợp thổ nhưỡng cánh quân ấy trải
qua một trận dịch tả kinh hoàng. Viên võ quan chỉ huy đã sai người mai táng
quân số chết dịch trên gò. Khi đó gò đất mọc dày cây ba bét và cây dướng. Từ
khi xuất hiện những nấm mộ, cây cối tự nhiên vàng úa chết khô. Giữa trưa nắng
chang chang một trận mưa có những hòn sét đỏ như sắt nung rơi xuống quả gò. Cây
cối trên gò cháy trụi... Rồi từ đó mọc dày cỏ tranh. Không biết những mộ huyệt
sau đó có được chuyển đi hay không? Nhưng cho đến giờ vẫn còn nhiều nấm đất to
như ụ mối. Có thể vẫn là mộ bên dưới có bộ xương người. Cũng có thể nó đơn giản
chỉ là một tổ mối lâu năm.
Chỉ
riêng việc gã dựng nhà trên quả gò này, gã đã khác người rồi. Gã thường tự nhận
mình là một tên vô chính phủ. Không có họ, không có tín ngưỡng, không có râu,
chỉ có mỗi cái tên là Quảng hoặc là Quảng vô mao.
Cô
Là thường rời nhà từ lúc chưa rõ mặt người, cô đi đâu làm gì không ai rõ. Có ai
hỏi cô bảo cô đi lấy củi, nhưng rất ít khi gặp cô xuôi mảng về chợ bán củi. Người
ta kháo nhau cô thường rình mò các lán người ta dựng trên nương để nghỉ trưa
vào lúc người ta lúi húi làm. Có thóc gạo, mắm muối gì cô vơ bằng kỹ. Hôm nào
không kiếm được cô lần xuống khe suối. Cô không kiếm cá. Cô tìm những cối gạo
giã bằng sức nước. Ở đấy thường không ai trông coi. Sáng người ta đổ lúa vào, đến
chiều hôm sau mới ra lấy gạo. Chỉ bằng những việc đại loại như thế, có nuôi được
lão Quảng vô mao với một lũ con nhút nhít. Có ai hỏi đã nghèo sao lại đẻ đông
con thế cô cười rúc rích: " Cứ đẻ hết trứng mới thôi. Trời sinh voi trời
khác phải sinh cỏ". Lũ con cô Là đã biết đánh bẫy gà hàng xóm hoặc bới trộm
khoai ngoài đồng.
Người
ta rất ít khi bắt gặp lão Quảng ra đường. Ban ngày lão ngủ, chừng mười giờ đêm
lão kéo nhị, hết hát chèo lại ca cải lương. Lão tự biên tự diễn phục vụ nội bộ
vợ con lão nên lời ca tiếng hát của lão chẳng ai thèm quan tâm vì nó vô cùng
quái gở. Không phải thứ ca nhạc của thiên thần, cũng không của ác quỷ, một thứ
âm thanh u ám, hỗn độn, đểu cáng, dâm đãng hết chỗ nói.
Nhưng
đột nhiên mấy ngày nay lão hay ra đường. Đầu chải mượt tay cầm một tờ báo cũ,
miệng hút thuốc phì phèo. Giờ thì lão Quảng đang ngồi bên bờ sông ngay kế bến
lâm sản. Dưới sông tốp người đang cởi trần đóng bè. Người ta kể như không có
cái rét đang vờn lên da thịt đang tím tái của mình. Lão lơ đãng nhìn tốp người
đóng bè, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn theo dòng sông chảy tít tắp về xuôi. Những
đám mây xám đục trên đầu lão cũng không bận tâm. Đám người làm cho nhà Sinh béo
nhìn lão dò xét. Không biết cái thằng cha kỳ quái này ra đây để làm gì? Chắc chắn
lão ra đây ngồi không phải để ngắn cảnh. Lão cũng không có ai để chờ đợi ở bến
sông này. Trong vùng người ta ghê lão như một con hủi, có ai chơi với lão để mà
đợi chờ? Trong đám người làm có người chạy về báo với lão Sinh. Lão đang bận giở
ván tổ tôm vội đứng ra đầu nhà nghe người kia thì thầm. Lão cũng chỉ nói nhỏ mấy
câu đủ cho người kia nghe rồi lại ngồi vào đám tổ tôm.
Luôn
mấy buổi như thế mà không xảy ra chuỵên gì. Người ta cho rằng lão Quảng vô mao
tự nhiên dở tính. Ngủ ngày mãi cũng chán mắt. Lão ra sông hóng gió. Việc ai người
ấy làm, chẳng ai để ý đến lão nữa.
Chỉ
có gã ở gần nhà lão Chỉ là biết hành tung của lão Quảng vô mao. Buổi trưa, buổi
tối đều thấy lão từ nhà lão Chỉ ra về, mặt mũi đỏ gay vì men rượu. Hai lão già
kình địch nhau như lửa với nước mà giờ thân thiện quả là sự lạ!
Gã
ngờ lão Chỉ đang có âm mưu gì đó mà lão Quảng là con bài. Biến một kẻ đối đầu với
mình trở thành đồng đảng, lão Chỉ thực cao tay. Tuy bất cần đời, hành tung khó
hiểu, nhưng Quảng vô mao lại có điểm yếu thích được người ta tâng bốc và ưa được
mời uống rượu. Cứ có rượu vào tốt có thể thành xấu, thù thành bạn bất kể mọi sự
ở đời.
Lão
Chỉ là con người tính toán, lão không cho không ai gì, và cũng không đãi không
ai cái gì. Nhưng mục đích của sự lợi dụng này là gì thì gã không hiểu? Tâm trạng
đang buồn, gã cũng không muốn quan tâm đến những việc xung quanh. Những việc
không liên quan vướng mắc với mình. Nhất là từ hôm con bé theo mẹ nó về xuôi,
căn nhà gã ngày thường đã vắng vẻ, giờ càng hiu quạnh.
Thằng
con lão Đởm ở dưới quê lên gợi ý gã nên đào cái giếng. Nếu gã muốn nó sẽ cùng
thằng bạn đi cùng. Chỉ đào năm buổi là có nước ăn đỡ phải ra sông gánh vất vả.
Nó nói chỉ cần gã mua cho nó cuộn dây thừng, cái xẻng và cái xà beng là đủ dụng
cụ. Nó có mang theo một cái thùng cuốn bằng lốp xe ôtô. Thứ đó dùng để kéo đất
dưới giếng đưa lên không cần tới giành sọt gì cả. Nhưng gã nhìn thấy nó trắng bợt
bạt, chân cẳng như cò hương, không tin lắm ở lời nó nói. Tạng người như nó sinh
ra để đánh phấn, tô son trên sân khấu chứ không phải để làm công việc thổ mộc nặng
nhọc. Thằng đi với nó trông vẻ có nghề hơn, thân đậm, ngón tay quả chuối, bắp
chân bắp tay cuộn cứng như bắp chuối. Hai đứa gọi nhau một là Thành cò, một là
Tú lùn. Cũng có lúc Tú lùn gọi con lão Đởm
là " Thành sếu ". Cò hay sếu đều là giống yếu lả chân cao, đều thích
hợp với ngoại hình và tính cách của con lão Đởm. Không biết nó bất mãn thế nào
với bố mà bỏ lên đây? Nó thề không bao giờ về ngôi nhà của bố nó nữa.
Giếng
thì gã rất muốn đào. Gã định nhờ người làm từ lâu mà chưa được. Nhìn hai thợ
đào giếng này thì gã ngại. Thường chẳng có công việc nào kết thúc hay ho ở những
con người như thế. Lão Chỉ lại không thế. Lão tính mét đào sâu trả tiền. Ngày cơm
ba bữa lão nuôi không tính. Đang khi có chuyện buồn bực trong làm ăn, lão quay
sang đào cái giếng gần nhà cho vợ con đỡ cực. Vậy là ngày hai bữa rượu không kể
bữa sáng chỉ ăn dẹm. Lão nhớ ra còn có lão Quảng đang tồn tại ở đất này. Lão
thân chinh đến tận nhà mời mọc ân cần và từ hôm đó bữa rượu nào cũng không thiếu
lão Quảng. Hai thằng thợ đào giếng đã gần chục ngày mà vẫn chưa đến nước. Chúng
kêu đất rắn pha nhiều đá quá, khó đào. Kỳ thực hai thằng đang rong công. Lão Chỉ
biết nhưng không nói. Đầu óc lão còn đang bận rộn việc khác to tát hơn.
Từ
khi lão Sinh béo đứng ra lập trạm thu mua lâm sản, nguồn thu nhà lão Chỉ sa sút
hẳn. Lão mất chân độc quyền mua bán tre nứa, gỗ lạt ở quãng sông này. Mấy anh
kiểm lâm cũng thưa dần rồi không đến nhà lão. Buôn bán lâm sản mà thiếu sự quan
tâm trợ giúp của họ thì coi như đứt hẳn mối làm ăn. Mấy chuyến liền lão xuôi bè
bị bắt, bị tịch thu, bị phạt mất cả gốc lẫn lãi. Nếu cứ tiếp tục, lão sẽ trắng
tay, sẽ phải bán nhà trả nợ tiền vay vốn, lãi rất cao.
Nguồn
cơn cũng bởi từ cái trạm thu mua của lão Sinh mà ra. Sinh béo không ra tay, lộ
mặt nhưng mọi đòn phép đều do lão bày đặt mà nên.
Lão
Chỉ uất không chịu được. Cơ hồ lão phải trở lại chỗ đứng ban đầu ngày mới lên
đây. Bao nhiêu cố gắng bấy nay trở thành công cốc. Lão lại như ngày nào không đồng
xu trong túi, khó nhọc kiếm từng xu. Bao nhiêu năm là mối giao hảo, cùng làm
cùng ăn không ngờ lão Sinh trở mặt như thế. Thế lực của Sinh béo rất gớm. Nếu
lão cố tranh giành với Sinh béo, lão đo ván là cái chắc. Không khéo có ngày lão
Sính úp sọt, mượn tay chính quyền đẩy lão vào " Bẫu " cũng nên. Ai chứ
lão Sinh hoàn toàn có thể làm được việc này. Với quan hệ hiện nay thì Sinh béo
lo việc ấy nhẹ nhàng như thò tay vào túi.
Vậy
phải làm cách khác. Lão phải nuốt nhục để đi tìm lão Quảng. Một thằng trắng trợn
vồ con gái lão trên đồi lúc nó đi tìm trâu. Cũng chính nó đánh bẫy, ăn thịt con
chó đực to như con bê của nhà lão. Lão biết hết, nhưng không đủ tang chứng để
kiện nó ra chính quyền. Giờ đành phải coi những chuyện ấy chưa từng xảy ra. Nếu
thằng Quảng nghe theo, lão sẽ đạt được hai mục đích. Giống như bắn một mũi tên
mà được cả hai con chim. Vừa diệt được mối làm ăn của lão Sinh, vừa trừ được một
thằng bất đẳng ở kế cận với mình. Nhưng lão phải làm thế nào để khi sự việc xảy
ra, mình vẫn vô can. Lão rất khoái khi nghe Quảng vô mao nói rằng: " Đấu
tranh kinh tế không có gì bằng diệt kinh tế. Làm cho nó lụi bại không ngóc đầu
lên được. Chớ có dại mà ra mặt kình chống với nó. Cứ " Văn bẩn " mà nện
thế nào nó cũng đổ". Phải tham khảo ý kiến của một thằng lưu manh là một
chuyện bần cùng. Nhưng khi nó nói lão thấy nó có cái khôn của nó. ở đời không
ai là hỏng cả. Nếu biết dùng một kẻ chẳng ra gì có khi còn được việc hơn là một
người tử tế. Mà người tử tế ở trên đời phỏng có được bao nhiêu? Những chuyện
đen tối như thế này, người ta nhất quyết không làm. Nghe Quảng nói thế lão rút
trong bọc đưa cho Quảng ít tiền mua rượu uống chơi. Khi nào công việc xong xuôi
lão hứa cho y hẳn con trâu đực sừng vừa bằng tai. Nếu làm sớm hơn thêm cả đôi lợn
giống mua dưới xuôi lên. Giống lợn Đức khi xuất chuồng bằng con trâu be chứ
không phải giống lợn ta nuôi hằng năm mới được ba bốn mươi cân. Quảng vô mao sướng,
y đưa tay bắt rồi cầm dao chém một nhát sâu vào cột:
-
Chơi quân tử đấy nhé. Đây không bao giờ nói mà không làm. Bên nào sai hợp đồng
bên ấy chịu.
Nói
thì nói mạnh mồm như thế. Nhưng làm không đơn giản. Y đã từng thuốn, đóng qua lỗ
đít trâu để nó chảy máu trong, chương bụng ra mà chết mà chủ nhà không biết
trâu chết vì bệnh gì. Rồi giã lá thàn mát lọc lấy nước cô đặc lại thả xuống ao
cá. Cá phơi bụng chết hàng loạt mà chủ ao cá tìm mãi không ra dấu vết, mùi thuốc
sâu. Nhưng đấy chỉ là những trò lặt vặt để trả thù cá nhân những đối thủ tầm
thường. Một ai đó chửi bóng chửi gió nghi con gã ôm mất con gà đang ấp trứng.
Hoặc một nhà nào đó có công việc mâm cao cỗ đầy mà không mời y tới dự. Ai cũng
biết những việc ấy y làm nhưng không bao giờ tóm được y tận tay. Chửi lắm y còn
giở nhiều trò khốn nạn hơn. Ném cứt vào nhà, quăng cóc chết, chuột chết vào bể
nước ăn.
Không
phải ngẫu nhiên mà lão Chỉ nhớ đến y. Trong việc chống trọi với lão Sinh béo
này, Không nhờ đến Quảng vô mao không xong. Chỉ có y mới dám và mới biết cách
làm.
Lão
chỉ tin tưởng như thế, nhưng Quảng thì lo vô cùng. Đối tượng không dễ chơi chút
nào. Sinh béo ở đất này không phải tay vừa. Bố con nó quyền cước, văn võ đủ cả.
Tình huống như lão Chỉ còn phải e dè. Không cẩn thận, nó cho uống no nước sông,
không cũng sặc cứt ra miệng chứ chẳng chơi. Một thân một mình là không thể làm
gì được. Một tay vỗ chẳng kêu, phải có đồng minh. Vậy thì tìm ai ở đất này bây
giờ? Kẻ thật thà ngây ngô thì không được việc. Người sắc sảo khôn ngoan không
ai chịu làm việc mờ ám - Có bần cùng phải dúng tay vào cũng đòi công cao ngất
ngưởng. Vậy tìm đâu ra kẻ biết việc, dám làm không đòi hỏi quá cao? Quảng vô
mao nghĩ đến gã. Một thằng mới ra tù, vô sản tuyệt đối, không tiền, hắn là một
kẻ chán đời. Một kẻ sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có tiền. Y nghĩ như thế và
đi tìm gã. Gã nghĩ " Thiên hạ nhân, thiên hạ tài " và thiên hạ có những
hạng người chẳng ra gì. Đó là mâu thuẫn nội tại của xã hội con người. Dù người
ta có cố gắng thế nào cũng khó lòng thay đổi. Mong mỏi một thế giới toàn những
con người tử tế, thiện tâm là điều không tưởng. Hàng ngàn năm trước đã như thế,
ngàn năm sau cũng là như vậy. ác thiện, tốt xấu như âm dương, như ngày đêm, như
được mất luôn là như vậy. Dù con người có mong mỏi thế nào nó cũng chỉ có ý
nghĩa hướng thiện, vươn tới cái đẹp mà thôi. Tận diệt cái ác, cái xấu xa chẳng
khác nào tận diệt cái nguồn gốc tiềm ẩn của nhân loại. Cái đó thực không khác
tìm đường lên trời vậy. Gã không lấy làm lạ khi trong làng có một người như lão
Quảng. " ở đâu mà không có anh hùng? ở đâu không có những thằng khùng điên
" Nhưng khi Quảng gợi ý, rủ gã tham gia kế hoạch triệt phá kinh tế nhà
Sinh béo gã không khỏi ngạc nhiên trước lòng dạ con người. Con thú dùng nanh vuốt,
cặp sừng, kể cả nọc độc để tàn hại nhau. Nhưng đó là cuộc cạnh tranh sinh tồn.
Còn con người dùng thủ đoạn thì vì cái gì? Để làm gì. Cả Quảng vô mao và gã đều
không cần thiết phải làm việc đó. Thực ra việc Sinh béo kinh doanh lâm sản chẳng
ảnh hưởng gì đến mình. Vì một chút lợi nhỏ để làm hại người khác là điều gã
không bao giờ làm. Có khi hại người không xong lại thiệt chính mình. Mà mình có
oán thù gì với lão? Gã đã trả lời thẳng thừng, điều đó làm Quảng không hài
lòng. Nhưng y không biểu hiện thái độ ra mặt. Quảng chỉ nói xa xôi:
-
Hạnh phúc trên đời là cái chăn hẹp không chỉ trong chuyện ngụ ngôn. Nó có thật
giữa đời. Kẻ này đủ ấm thì kẻ khác phải chịu giá lạnh. Anh chỉ muốn giúp chú có
cơ hội kiếm được tiền. Chú không muốn cũng giữ kín cho. Đây là chuyện chết người
chứ không phải đùa.
Y
nói với giọng đe nẹt xa xôi. Gã cũng chẳng hơi đâu xía vào mớ bùng nhùng đó.
Không phải gã sợ Quảng tìm cách hại mình mà cái chính là không thích dây dưa, “chơi
với kẻ ác không khác nào vào hang cá thối”.
Cũng
có thể Quảng nói ra câu chuỵên như thế để thử lòng mình, hoặc gã muốn tỏ ra vẻ
nguy hiểm của bản thân nhằm hù doạ người khác.
Thế
nào mặc lòng, gã nói:
-
Anh thông cảm, em giờ chỉ muốn yên thân không thích chuyện rắc rối. Người khác
có khi không sao, mình cái sảy nảy cái ung, em rất ngại.
Quảng
không nói gì, ngồi chơi một lúc rồi về ngay.
Gã
cứ tưởng Quảng sẽ bỏ cuộc vì không có người trợ thủ. Không ngờ đêm ấy y làm thật.
Mũi bè vừa đóng xong chưa kịp rời bến bị đứt dây neo vào lúc nửa đêm. Đám thợ
bè chiều hôm đó rượu khướt liên hoan, để ngày hôm sau khởi hành, ngủ say như chết.
Bè cứ thế trôi trong đêm. Về đến Vật Bà bị nước xoáy xé ra từng mảnh. Bấy giờ
đám người trên bè mới hoảng hồn thức dậy. Tiếng la hét, quát mắng, chửi bới
nhau vang động một khúc sông vào lúc canh khuya. Đến hết ngày hôm sau người ta
mới gom được những mảng tre nứa kết lại bè. Nhưng toàn bộ số gỗ nặng giấu dưới
gầm bè bị cuốn chìm xuống lòng vực. Toàn đinh thối, vảy ốc và lát là thứ đắt tiền.
Các loại gỗ này nặng như sắt, vĩnh viễn nằm dưới lòng sông. Sinh béo rũ ra như
tàu lá héo. Lão chỉ nghĩ đám thợ làm bè bất cẩn, không có ý nghi ngờ bị phá hoại
ngầm. Lão tổ chức đi chuyến khác. Lần này lão cho chuẩn bị kỹ càng hơn. Bè được
neo bằng sợi cáp thép buộc hẳn vào gốc cây to. Lại thêm mấy sợi neo phụ. Cho dù
có bão cũng không sợ tuột neo nữa. Đêm nào lão cũng cho người soi đèn kiểm tra.
Bè
đóng xong trước ngày nhổ cày lão cho người xem xét rất cẩn thận. Đêm đến đám thợ
bè phải thay nhau thức canh chừng. Lần này bè không tuột neo nhưng gặp sự cố
khác. Nửa đêm có một mảng nứa nhỏ trên chất đầy rơm rạ tẩm dầu trôi đến sát bè.
Đám thợ chỉ chú ý soi đèn trên bờ chỗ thả cày, không chú ý dưới sông. Bất ngờ phía
đầu bè có tiếng nổ dữ dội. Rơm rạ trên mảng cháy ngút trời. Quả mìn không gây
chết người, nhưng cả bọn bị một phen hú vía. Họ gọi nhau dùng sào chống đẩy đám
cháy ra khỏi bè. Đòn khủng bố này chỉ làm trôi vài nẹp nứa không đáng kể, nhưng
lão Sinh thực sự hoang mang. Lão biết đang có một âm mưu chống lại lão. Có kẻ
nào đó không được ăn, tính đạp đổ công việc làm ăn của lão? Nhưng kẻ đó là ai
thì lão chưa nắm rõ. Lão giỏng tai lên nghe ngóng.
Lão
Chỉ Đen bắn tin cho Sinh béo hiểu rằng: Thủ phạm phải là đứa cao tay, có học mới
biết làm việc này. Phải là đứa vào tù ra tội mới dày dạn kinh nghiệm, mới có
gan làm. Sinh béo nghe có lý. Thủ phạm rất tinh vi, chuẩn bị chu đáo để làm việc
này. Nó lợi dụng sức nước chảy, thả mảng gắn mìn có dây cháy chậm từ phía thượng
nguồn. Đến khi cây nhang cháy đến quả mìn vừa cập tới bè.
Gã
là người Sinh béo nghi ngờ đầu tiên. Gã có thể làm được công việc đen tối ấy.
Nhưng vì động cơ gì thì Sinh béo không hiểu. Không lẽ chỉ để chơi? Điều đó
không phải. Con người từng trải như gã chắc không làm việc ấy. Hay có ai xúi bẩy
xúi dục gã làm? Sinh béo phân vân, nhưng vẫn cho người theo dõi kín đáo. Điều
này thì gã hoàn toàn không biết. Đêm đêm có tiếng động sau nhà gã lại nghĩ chắc
bọn trẻ rình mò ăn trộm gói kẹo, bao thuốc của bà cụ. Thế nên gã xếp sắp gọn
gàng hơn. Đêm dậy chỉ soi đèn chỗ để hàng. Gã không ngờ mình bị bí mật theo
dõi. Tệ hơn Sinh béo báo cáo ngầm với công an xã. Một lần nữa, gã nằm trong
vòng ngắm của chính quyền.
ó
ó ó
Ma
quỷ thường có những trò dụ khị, cài đặt rất tinh vi khéo léo. Những sự việc rời
rạc bề ngoài xem ra chẳng có ý nghĩa gì mà thực ra lại là có một kết cấu tinh xảo,
khiến nhiều số phận không sao tránh khỏi một kết cục cay đắng.
Được
hơn nửa năm gã sống yên ổn, không xảy ra chuyện gì. Hoặc chỉ là những chuyện vớ
vẩn không đáng kể. Gã sống thu mình ít tiếp xúc với xung quanh. Coi đấy là cách
giữ mình tốt nhất để khỏi bị lôi kéo vào những chuyện phiền phức, rắc rối. Phải
cố gắng đến mức căng thẳng mới duy trì được cách sống ấy, vì con người là một
sinh thể vừa yếu ớt lại vừa có nhiều yêu cầu sống phức tạp. Mà gã thì trẻ chưa
qua, già chưa tới, sống như vậy không đơn giản chút nào. Gã cần tình yêu, một
người đàn bà, hoặc ít ra là một vài người bạn để sẻ chia, an ủi. Cho cuộc sống
thăng bằng giữa vật chất và tinh thần. Nhưng một người như thế ở đất này thật
khó biết bao. Gã không sinh ra ở nơi này, không có bạn thủa chăn trâu cắt cỏ và
cắp sách tới trường. Gã xuất hiện ở nơi đây với một hoàn cảnh thật oái oăm. Những
con mắt xung quanh nhiều lúc sắc lạnh như cật nứa cứa vào gan ruột gã. Cần phải
có thời gian mới thay đổi được cách nhìn cách nghĩ của nhiều người. Gã sống
trong mối mâu thuẫn nội tâm giữa ý muốn mở rộng quan hệ để tìm sự cảm thông với
cách thu mình gìn gữi để tránh tổn thương. Điều này luôn làm gã day dứt.
Cuối
cùng gã đi đến chọn lựa cách sống tự nhiên. Cuộc sống không thể lúc nào cũng
lên gân, lấy đà vượt dốc. ý nghĩ cầu an tự ty lúc đầu mất dần ý nghĩa. Gã nghĩ
cuộc sống chỉ cốt yên thân thì cuộc sống chẳng có ý nghĩa gì. Con người không
thể tách ra khỏi sinh hoạt cộng đồng. Tồn tại tốt nhất là hoà nhập và chinh phục
nó. Nhưng cũng lại chính lúc này mầm mống tai ương nảy nở mà gã hoàn toàn vô
tâm không chú ý tới.
Sau
mấy vụ xúi giục Quảng vô mao triệt phá công việc của Sinh béo, lão Chỉ thấy không
ăn thua gì. Tuy nó có làm cho lão ta thiệt hại về tiền của nhưng cũng chỉ là vết
sầy da chốc vảy. Sinh béo vẫn còn những nguồn tài chính tiềm tàng, không dễ gì
đánh qụy hắn được. Lão thấy cần phải có một đòn quyết định. Muốn làm được việc
đó phải là kẻ có gan, có máu mặt. Một tay miệng hùm gan sứa như Quảng vô mao
thì không kham nổi việc này.
Thời
gian này trên bãi vàng có một nhân vật nổi tiếng cùng quê với lão. Hắn nổi tiếng
cướp bóc, trấn lột không gớm tay, coi mạng người như rơm rạ. Mọi người nhìn thấy
hắn đều lánh mặt, nhưng hắn lại rất nể trọng gã từ những ngày ở trại. Một thằng
vốn lành hiền, nhút nhát chỉ sau mấy năm tù thành anh chị, đầu gấu, nanh beo
như một kiểu đột biến gen. Mấy lần hắn đến nhà rủ gã lên bãi vàng, gã nhất quyết
không chịu đi. Hắn thôi không lôi kéo nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn đến chơi nhà.
Hôm
nay hắn cùng Nhân đến vào lúc chập tối. Nhân nói đến để tạ lỗi, việc đem cắm
cái xe đạp của gã mấy tháng trước. Hắn đưa cho gã chiếc áo Natô, thứ mà nhiều kẻ
ao ước có được. Nhân còn xách theo một can ba lít rượu và bọc thịt gà đã chặt sẵn.
từ ngày nổi bãi vàng, hàng quán trong vùng mọc như nấm. bán không thiếu thứ gì.
Vậy là có khách mà gã gần như không phải sắm thứ gì. Cả bọn uống rượu chuyện
trò mãi tới khuya. Nhân bảo ngoài việc đến chơi thăm nhà, còn nhờ gã một việc.
Công
việc đào lò trên bộ xem ra vất vả mà hiệu quả không cao. Phải đào sâu xuống
lòng đất. Đến khi đến lớp xỉ thì xúc đất đổ vào bao cho người chuyển lên bờ.
Sau đó, dùng máy bơm đưa nước từ dưới sông lên, dẫn vào máng lọc. Qua rất nhiều
công đoạn mới tới được máng lọc ra vàng. Công việc vừa nặng nhọc lại vừa nguy
hiểm. Đã có những hầm bị sập chết người. Nhân là người đầu tiên nghĩ ra cách
đào vàng dưới lòng sông. Vừa tiện nước, vừa đỡ nguy hiểm. Muốn thế phải làm một
cái bè thật chắc chắn. Kết cấu thế nào để đặt tới đưa xẻng xúc xuống lòng sông.
ở độ sâu ấy tương đương với độ sâu các lò đang đào trên bờ sông. Mở rộng tầng vỉa
cũng đơn giản, lại không nguy hiểm. Công việc này phải tìm thợ đi bè nhiều kinh
nghiệm, rồi tìm tre gỗ đóng bè...
Nghe
Nhân nói xong gã bảo:
-
Tưởng việc gì chứ việc ấy đơn giản. Tối nay hai ông cứ ở đây sớm mai tôi sẽ dẫn
đi gặp một người. Người này đóng bè hết ý. Tre gỗ là nguồn ông ta thông thạo mà
hiện thời đang bí đầu ra.
Nhân
sốt sắng muốn đi ngay, nhưng Du kẻ cùng đi với Nhân bảo:
-
Thôi cứ để sớm mai, ban ngày ban mặt. Việc làm ăn cứ phải đàng hoàng không đi
đâu mà vội. Hơn nữa anh em lâu ngày mới gặp tao muốn ở đây một tối. Sáng mai
thong thả sẽ bàn.
Gã
cũng nói:
-
Giờ cũng khuya rồi, sang nhà chắc lão đã đi ngủ. Nhanh chậm cũng không bao
nhiêu, mai tôi đưa sang sớm.
Du
nhắc lại lần gã đưa cho y mấy viên cờlôsít. Nếu không có mấy viên thuốc ấy có lẽ
y mãi mãi ở lại bên kìa đèo Lũng Lô rồi. Chiếc xe cá đông lạnh do chết máy giữa
đường bị lỡ hành trình. Cá chuyển lên đến trại đã có mùi. Mấy trăm con người bị
tháo tỏng, chuyển sang kiết lỵ. Phạm chết ở trại chưa bao giờ đông đến thế.
Ngày nào cũng bốn năm chuyến xe cải tiến chở quan tài ra nghĩa địa cây thị. Xưởng
đóng quan tài hoạt động cả ngày lẫn đêm mới đủ số áo quan. Đó là mùa đông ảm đạm
nhất trong đời mà Du và gã không bao giờ quên.
Bố
Du là liệt sĩ thời chống Pháp, nếu không xảy ra vụ án mạng oan nghiệt ấy, Du đã
đi học nước ngoài. Hồ sơ giấy tờ đã làm xong chỉ chờ ngày gọi nhập học thì có lệnh
đình chỉ vì người ta nghi ngờ Du liên quan đến vụ án. Một anh chàng không dám cầm
dao cắt tiết gà lại bị tình nghi là hung thủ.
ở
tù ra Du thành con người khác hẳn. Y không về quê mình mà theo một người bạn được
tha cùng ngày lang thang ngoài thành phố. Có lúc Du chịu đi làm lơ xe. Thất
nghiệp, theo một bọn xuôi ngược trên tàu sống bằng nghề trộm cướp. Con người y
chai sạn, trơ lỳ tự khi nào y cũng không biết nữa. Y đã quá quen với cảnh bị bắt
bớ, giam cầm. Quá quen với việc đánh người và bị người đánh. Máu người rốt cuộc
cũng chỉ là thứ chất lỏng có mùi tanh. Y không sợ máu mình đổ và làm đổ máu người
khác. Tình người với y chỉ còn là thứ tình nghĩa quân tử theo lối luật rừng.
Nghe
nói có bãi làm vàng rất có cơ hội đổi đời y bỏ Hà Nội tìm lên. Nhân đã gặp y và
y trở thành thành viên của đội làm vàng của Nhân gồm hai chục con người. Nơi tứ
chiếng giang hồ gặp nhau, Du trở thành chỗ dựa tin cậy của Nhân.
Nghe
chuyện của Du gã thấy buồn. Cuộc đời Du thế là đã chuyển rất xa điểm xuất phát
ban đầu. Hướng ấy đi về đâu, chỉ nghĩ đến gã đã thấy rùng mình. Không cần phải
tưởng tượng, quá khứ những năm sống trong môi trường ấy đã có nhiều minh chứng.
Một lời khuyên can lúc này chưa chắc đã có tác dụng gì. Nhưng sớm muộn gì mình
cũng phải tác động để Du nhận ra, dừng lại khi chưa quá muộn. Gã nghĩ như vậy
tuy chưa nói ra vào lúc này.
Nhân
có ý thăm dò quan hệ của gã với em gái mình. Gã cũng thành thực nói quan hệ ấy
cũng không có gì ngoài tình cảm anh em quen biết. Nhân bảo: "Bà cụ nhà tôi
đi xem, thầy bảo con này cao số. Nó sinh vào ngày cuối năm nên số vất vả. Muốn
nhân duyên bền vững phải làm lẽ người ta hoặc người chết vợ. Nó có vẻ quan tâm
đến cậu, nhưng cậu vô tình đấy thôi... "
Gã
cười như mếu:
-
Ông bảo hoàn cảnh tôi lúc này làm gì dám nghĩ đến chuyện ấy. Nhất là lại đặt vấn
đề với Thịnh.
Du
cũng thêm vào:
-
Ông cứ uống thuốc liều thử một phen xem nào. Có gì bọn này hỗ trợ.
Câu
chuyện cứ lan man như thế cho đến lúc chợt có tiếng gà gáy sớm. Bên ngoài sương
vẫn mù mịt, trời vẫn còn tối. Gã bảo cả bọn đi ngủ. Nhưng rồi lại rì rầm cho đến
khi sáng bạch.
Nhà
lão Chỉ đào đến cái giếng thứ hai vẫn chưa có nước. Cái thứ nhất gặp đá bàn.
Viên đá dầy, lấy choòng đục xuống hai chục phân vẫn không thấu. Gõ thử vẫn nghe
binh binh. Đá quá dày, đành phải bỏ. Đến cái thứ hai gặp chỗ đất xổng, bọn
Thành cò đào lại hay lệch tâm, có chỗ thành lõm vào nên cứ lở ầm ầm. Được gần
chục mét phải dừng lại không dám đào tiếp. Đất xô mạnh có khi vùi lấp người
không kịp bới lên.
Lão
ngao ngán không muốn tiếp tục công việc. Thành cò vì cần tiền vẫn năn nỉ lão
cho đào chỗ khác. Lão Chỉ còn lưỡng lự.
Đúng
lúc ấy thì cánh Du, Nhân đến nhờ lão giúp cho cái bè. Đang lúc bị Sinh béo chèn
ép, lão Chỉ cũng đang bí chưa nghĩ ra việc gì. Cuộc trao đổi hai bên diễn ra
nhanh chóng. Lão Chỉ nhận sẽ lên bãi vào ngày hôm sau. Tre, gỗ lão sẽ đặt cho bọn
trong làng dùng trâu kéo đến tận nơi. Cánh đào vàng chỉ việc nhận bè rồi thanh
toán tiền cho lão. Lão Chỉ đề nghị thêm một việc là bọn Nhân Du nhận cho thằng
Thành cò và thằng chột con trai lão vào làm một chân.
Nhân
nhận lời ngay vì y cũng đang thiếu người. Đang cho người đi đón thêm mà vẫn
chưa được.
Du
bảo không được, hắn chỉ nhận thằng con lão Chỉ. Còn Thành cò nếu muốn lên bãi
vàng vào tổ khác, y không muốn " lằng nhằng ". Nhân gọi riêng Du ra hỏi.
Du nói: " Nó là con lão Đởm, kẻ đã gieo tai họa cho tao, không đời nào tao
quên để làm ăn với nó. Nhìn nó tao đã ngứa mắt lắm rồi. Nói gì đến việc ăn làm
cùng nó... "
Nhân
nhớ ra câu chuyện Du đã kể với mình, hắn nói:
-
Mày thế mà ngu. Phải tao tao sẽ xử cách khác. Thôi cứ cho nó theo.
Có
một điều, ngay lúc đó lão Chỉ chưa nói. Lão nhận giúp làm việc này còn vì một kế
hoạch riêng của lão. Sinh béo đang là tảng đá cản đường trước mũi bè của lão.
Trước sau gì lão cũng phải tìm cách đẩy đi. Phải nhờ bọn đầu gấu này mới được
việc.
Đứa
con lão Chỉ sau hôm đó, ngày nào cũng lên bãi vàng bán rượu bán thịt, ả quá
quen với việc lôi kéo đàn ông. Có hôm ả ngủ lại lều của đám thợ đào vàng. Thằng
Du say như điếu đổ. Lão Chỉ biết hết nhưng lờ đi như không có việc gì.
ó
ó ó
Gã
tưởng mọi việc như vậy là xong. Lão Chỉ có mối làm ăn mới sẽ quên chuyện kèn cựa
với Sinh béo. Theo gã thế cũng là phải lẽ. Sinh béo vừa có tiền vừa có thế lực,
lại là người đa mưu túc trí. Y dựa vào thế lực nhà nước, danh nghĩa là mua hàng
cho công ty lâm sản, khép kín từ đầu vào đến đầu ra, làm sao lão Chỉ cạnh tranh
được? Thời làm ăn tự phát, mưu mẹo vặt của lão đã hết. Giờ là lúc làm ăn mức độ
quy mô, thủ tục phức tạp hơn, lão làm sao lo được? Người ta không cấp giấy tờ,
không cho xuất bến thì lão phải bó tay. Nguồn lợi lớn từ rừng sẽ thôi không chảy
vào nhà lão nữa. Nhưng biết đâu công việc đào vàng lại kiếm được? Chả thế mà mấy
bố con lão rủ nhau lên ở hẳn trên bãi.
Gã
không ngờ một tuần sau xảy ra một việc chưa từng có ở vùng này. Việc đó làm
tình hình an ninh nóng bỏng khiến cả vùng xôn xao. Công an tỉnh, công an huyện
tới tấp đi về. Người ta đồn rằng đây là một âm mưu phá hoại. Sẽ có nhiều người
bị bắt sau đợt điều tra này.
Ấy
là hôm vào lúc gần sáng, đột ngột nghe tiếng nổ ran như pháo dội. Khu trung tâm
xã lửa sáng rực trời. Tiếng hô hoán dậy đất. Người chạy rầm rập ngoài đường.
Người ta bảo cháy cửa hàng bách hoá của
xã do lão Sinh phụ trách. Năm gian nhà gỗ lợp lá có xếp đầy hàng hoá cháy rụi.
Đám cháy bùng lên từ gian chứa dầu hoả. Hàng trăm con người đổ vào cứu hoả chỉ
kịp khiêng được hai cái tủ và mấy chục bao muối. Vải vóc chăn màn gần như bị
cháy hầu hết. Thứ nào lôi ra được cũng bị cháy lem nhem. Bây giờ thành phế phẩm
không thể bán được nữa. Lão Sinh béo lúc đầu la hét đến khản cổ, sau lả đi. Người
ta phải cáng lão vào trạm xá. Người ta thì thào với nhau không biết số phận lão
sẽ ra sao? Lão sơ ý để hoả hoạn hay có kẻ nào phá hoại? Trận hoả hoạn này có thể
làm lão trắng tay, có khi còn phải ngồi tù vì trách nhiệm. Tuy là đặt ở xã này
nhưng nó cũng là trung tâm bách hoá của cả cụm mấy xã Thượng huyện. Giá trị
kinh tế không nhỏ. Sáng hẳn đám cháy mới được dập tắt hoàn toàn. Cũng may là
người ta đã kịp cách ly, chặn lửa bằng cách dỡ mái mấy ngôi nhà gần đấy. Nếu
không cả khu trạm xá miền và mấy ngôi nhà dân cũng bị lửa thiêu. Trên khu nền
nhà cửa hàng bách hoá còn trơ ra đám cột cháy nham nhở. Những mảnh bát vỡ, mảnh
thuỷ tinh vẫn đang nổ lách tách trong đám than tro còn nóng. Những người đến cứu
hoả áo ướt đẫm, mặt đen nhẻm chỉ lộ hai con mắt. Người cháy áo, người trụi râu.
Có cả người bị bỏng đang bước khập khễnh. Tất cả đã mệt nhoài, không ai nói gì
vào lúc này. Lẳng lặng ai về nhà nấy.
Gã
nhìn thấy Quảng vô mao đang đứng trên một gò mối. Lạ thay, lão vẫn quần áo tinh
tươm, đầu chải mượt như chuẩn bị sắp đi đâu. Chân tay lão sạch sẽ như chả có
liên quan gì đến vụ cháy vừa rồi.
Gã
thấy Quảng nhìn mình với ánh mắt rất lạ. Hình như có ý nghi hoặc. Gã ném cho
lão cái nhìn khinh bỉ. Không lẽ lão già quái đản này lại nghi ngờ mình có dính
líu vào vụ cháy này? Những vụ việc trước Quảng làm gã đều biết cả. Gã không nói
gì là vì không có tang chứng cụ thể. Còn việc Quảng rủ rê và bàn bạc với gã chỉ
là khẩu thiệt vô bằng. Nhưng lúc này ánh mắt Quảng nhìn gã bực không chịu được.
Gã có lợi ích gì để làm một việc động trời này? Lão Chỉ thù hận thế nào mặc lão
gã không hơi đâu dây vào những việc đen tối, rắc rối này.
Khi
gã quay trở về, lão Quảng liền đi theo, lão bảo:
-
Anh tưởng chú mày khôn ngoan hoá ra không phải. Người ta bảo có ăn tìm đến, có
việc tìm đi. Dại gì mà đâm đầu vào chỗ như thế này? Không khéo bị nghi oan mình
là thủ phạm!
Rồi
lão đưa hai bàn tay xoè ngửa ra trước mặt:
-
Đây này. Anh lúc nào cũng hai bàn tay sạch. Chả dại gì nhúng vào than củi. Tội
rơm vạ đá, có khỏi vạ má cũng sưng.
Đi
ngang qua gò cỏ tranh lão cứ lôi kéo gã vào nhà mình. Gã kêu mệt muốn về nghỉ,
lão nói rỗi:
-
Hay mày khinh anh mày nghèo không thèm đến? Tao quý tao mới mời.
Gã
đành phải vào. Từ hồi cha sinh mẹ đẻ đến giờ gã chưa bao giờ thấy một ngôi nhà
kỳ quặc đến thế. Trên mái có rất nhiều miếng ni lông xanh đỏ cài lẫn vào đám
gianh có lẽ để chống mưa giột. Nền nhà xẻ rãnh như bàn cờ. Một con lợn chừng
hai chét tay phóng ra từ đám chăn.
Quảng
rót rượu ra hai cái bát sành sứt miệng. Gã chỉ nhấp lấp lệ không uống. Quảng đặt
bát nhìn thẳng vào mặt gã:
-
Có phải lão Chỉ thuê chú mày làm vụ này không?
gã trừng mắt:
-
Ai bảo ông thế.
Quảng
đấu dịu:
-
Là anh hỏi vậy. Không phải thì thôi. Thế thì lạ nhỉ, thằng nào làm?
Gã
bực mình không nói gì, đứng dậy ra khỏi nhà. Một con rắn đen trùi suýt nữa gã dẫm
phải. Nó phóng vội vào gò mối hay ngôi mộ gần đó. Gò cỏ gianh tự nhiên gió rờn
rợn.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét