Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

Về lại rừng xưa


Trong tôi giờ đây ngân nga những tên đất, tên người. Tên những người bạn của tôi ở khắp bốn phương. Và tên những con đường, những thành phố, những Paris, Berlin, Thành Đô, Brugge, Amsterdam, Boston, New York, Peterburg, Mạc Tư Khoa…, những đất nước tôi đã đặt chân tới, những nơi tôi được bạn đọc đón nhận như người anh em. 
Tưởng như thế là đã thỏa mãn, là được hưởng sự ưu đãi của số phận, không ao ước gì hơn, nhưng vẫn còn một khao khát âm ỉ, dai dẳng, vẫn còn những nơi tôi ước ao được đến. Đúng hơn, được một lần trở lại. Nhất là những đêm chờ trời sáng, những đêm làm tổng kết cuộc đời, mong ước càng thôi thúc. Một thèm muốn, một khát khao như thèm muốn khát khao được trở lại mảnh sân, góc vườn thời thơ ấu: Ao ước được trở lại những trại giam, những nhà tù tôi đã sống. Những nơi ấy là một phần cuộc đời mình, đã góp phần hình thành mình cả về xương thịt lẫn tâm hồn, không thể thiếu, không thể tách rời. Càng về già, càng đến gần cái kết thúc tất yếu càng mong được một lần trở lại. Không phải quê hương, nhưng là một cõi, cõi mình trải qua một kiếp. Khi ta ở đất chỉ là đất ở. Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn (1). Đất ấy cũng hóa tâm hồn hay sao mà cứ bám theo tôi, gọi tôi, rủ tôi gặp lại? Tâm hồn của những người bạn tù đã sống và cho đến bây giờ chắc nhiều người không còn nữa… Đất ấy cũng mang tiếng rì rầm của những buổi ngày xưa vọng nói về(2). Đất bắt rễ vào cuộc sống, vào thân thể, vào từng tế bào thần kinh gọi là số phận. Tôi không thể không nhớ đến các nhà tù trong cuộc tìm lại thời gian đã mất. Những nơi ấy thường xuyên trở về với tuổi già tôi như một ám ảnh tuyệt vọng. Tôi đã nhiều lần “khai báo” với cô nhà báo Vũ Thị Hải:
-Làm sao về được những nơi anh đã lang thang nhỉ? Trước khi chết thế nào anh cũng phải tìm cách trở lại những nơi ấy.
Hải hứa sẽ giúp tôi và đã thực hiện lời hứa đó. Hải là người bạn thân của cả gia đình tôi. Năm 2005, Vũ Thị Hải là nhà báo nổi tiếng nhất với những bài báo vạch trần các quan tham ăn đất, được chương trình “Người đương thời” của truyền hình Việt Nam mời lên ghi và phát hình. Hàng triệu khán giả, những người chỉ đọc cô, nghe nói đến cô đã được trực tiếp nhìn và nghe cô trên màn ảnh nhỏ.
Cuối năm 2006, một người bạn đã cho Hải mượn một chiếc xe bốn chỗ kể cả lái xe và ba chúng tôi, nghĩa là tôi, Hải và nhà thơ Vũ Thị Huyền lên đường đến trại Hoành Bồ, một trong nhiều trại tôi đã “sống”. Tôi chỉ nhớ được một địa danh để hỏi thăm đường: Trại Đồng Vải. Vì trại đặt tại xã Đồng Vải nên còn có tên gọi như vậy.
Trên đường tới Đồng Vải có một cái tên quan trọng khác: Trới. Hình như đây là huyện lỵ của Hoành Bồ. Tôi đã nghe vợ tôi nhiều lần nhắc tới địa danh này trong những lần “hồi ký cách mạng” về những chuyến lên thăm tôi. Và tôi cũng đã một lần từ Đồng Vải đến Trới, khi chúng tôi đi gánh than trong rừng đổ lên ô tô chở về trại.
Vậy là xe chúng tôi cứ bon bon tới Trới, một địa danh khá phổ cập.
Chẳng biết cái thị trấn Trới thời tôi đi tù như thế nào nhưng bây giờ nó đã được ngói hoá, bê tông hoá, có nhà nghỉ, có khách sạn, có quán ka ra ô kê, có nhiều biển quảng cáo và nhiều xe máy, xe ô tô đi lại trên đường nhựa. Một chiếc cầu bê tông bắc ngang qua sông Trới, một dòng sông nhỏ trôi xuôi.
Nơi đây xưa kia là bến đò, vợ tôi phải vượt qua mỗi lần lên trại thăm tôi. Vác chiếc xe đạp poóc ba ga nặng trĩu đồ tiếp tế, lội qua bãi phù sa vì nước ròng, con thuyền đỗ ghếch lên mép nước mãi xa, vợ tôi dưới bãi, ông lái đò trên thuyền cúi đỡ chiếc xe đạp lệch một bên vai nàng khi ấy mới ba mươi tuổi, đặt nằm trong lòng thuyền, rồi sau đó nắm chặt tay vợ tôi để vợ tôi đu lên, bàn chân bết phù sa trơn loạng choạng trượt trên ván thuyền. Sang bờ bên kia. Lại lội lại vác. Mặt trời chiều đã khuất sau rừng. Trời tối dần. Ông lái đò biết vợ tôi đang đến chốn nào, động viên: “Đạp nhanh không tối đấy.”
Tôi chưa đi đò Trới. Chưa vượt qua sông Trới. Cái hôm đi gánh than trong rừng kiếp trước ấy, chúng tôi được ra bờ sông Trới rửa mặt mũi chân tay. Dòng sông vẫn như hôm nay nhưng ngày ấy với chúng tôi là bao la, mênh mông, vô tận. Trời. Chiều. Mây. Gió. Nước. Suốt một ngày cuốc, xúc, gánh trong rừng thâm u không một gợn gió, làm việc thở ra mang tai, gánh than kéo mình xuống dốc phăng phăng, thấy gốc cây bị chém vát nhọn, vẫn cứ quăng chân vào, không tránh được. Mồ hôi. Muỗi đói. Ruồi vàng… Thế rồi là dòng sông mênh mông. Khoảng không cao rộng trời xanh choáng váng. Nhìn xuôi dòng típ tắp chân trời. Lội trên phù sa xoai xoải. Cho nước ngập đến gối, cho sóng ôm lấy bắp chân, cho sóng vỗ quanh đùi. Cho ngón chân bấm xuống, tận hưởng cảm giác mình ngâm trong nước mát, mình mọc lên từ bùn đất phù sa. Chưa hết. Trên đường về trại, một đồi sim ương ương bất ngờ hiện ra. Tất cả lao vào. Vặt. Nhai. Nuốt. Vừa vặt vừa kêu: “Vàng bò!” Khắp đồi vang lên những tiếng hò reo phấn khởi “vàng bò!” Đúng là sim chưa chín, mới vàng bò.
… Xe qua cầu và dừng lại. Để tôi đứng trên cầu chụp ảnh. Chụp ảnh nơi xa nhất tôi đã đi tới trong những ngày lao lý, nơi vợ tôi đã vượt qua trong những chuyến tiếp tế cho tôi. Hải, Huyền cùng chụp ảnh với tôi. Kỷ niệm của tôi cũng là kỷ niệm của hai em.
Xe lại đi. Đường nhựa mới làm rộng và phẳng. Thỉnh thoảng lại dừng xe hỏi những quán bên đường. Tất cả đều trả lời: Trại Đồng Vải vẫn còn (tôi chỉ lo người ta đã chuyển trại đi đâu đấy để xây dựng khu kinh tế). Một con đường nhựa mới mở với bốn làn đường xe chạy. Tôi đã trông thấy rừng. Rừng “nhấp nhô uyển chuyển giăng hàng” gói trong lòng nó biết bao nỗi niềm, bao tâm sự. Rừng vĩ đại im lặng không đe doạ tôi nữa mà đang chờ gặp lại tôi để chuyện cùng tôi. Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”(3). Rừng đã che tôi suốt tuổi thiếu niên, tuổi trưởng thành thời chín năm chống Pháp và rừng đã vây tôi sau đó, khi tôi mới ngoài ba mươi tuổi, thời gian sung sức nhất, thời gian đam mê sống, mỗi giọt máu trong người đều căng tràn tình yêu lứa đôi, tình yêu cuộc sống và lòng quyết tâm thực hiện mơ ước của đời mình.
Nhưng tôi vẫn chưa nhận ra rừng của tôi. Rừng để sống và rừng để chết của tôi!
Gần bốn mươi năm trước, lần đầu tiên từ trại giam Hải Phòng về đây trên một thùng xe vải bạt che kín, nào nhìn thấy gì đâu bốn chung quanh. Chỉ có bụi đất đỏ cuộn lên phía sau xe, bám vào quần áo đầu tóc, mặt mũi. Và khi tới trại, nhận buồng, đặt nội vụ xong tôi được gánh đôi thùng làm bằng gỗ thông ngược ra ngoài trại, xuống suối gánh nước về cho anh em rửa mặt. Thật là một đặc ân. Sau một chuyến đi dài, được ngâm chân dưới suối, rửa sạch chân tay, vốc nước suối mát lạnh lên cổ lên mặt đầy bụi mới dễ chịu làm sao. Nhưng khi gánh trên vai hai thùng nước leo ngược dốc trại, loạng choạng run bắn, nhiều lúc muốn khuỵu xuống. Ngơ ngác tự hỏi vì sao, hai thùng nước này mình vẫn gánh chạy băng băng mà không biết rằng một năm rưỡi xà lim đã làm cơ bắp gân cốt mình nhão ra rồi.
Ngồi trên thùng xe phủ vải bạt không nhìn thấy chung quanh nhưng chắc chắn có một con đường đất đỏ, hai bên là cỏ may ngay dưới bánh xe lăn. Hôm gánh than gần Trới tôi đã đi và về trên con đường ấy. Khi được di lí về Hải Phòng tưởng sẽ được tha, ngồi ở thùng xe com măng ca Ru ma ni đít vuông, lại nhìn thấy những hàng cỏ may ven đường. Giờ đây tất cả là đường nhựa. Con đường nhựa này chạy đến đâu? Không thể nào từ Trới tới trại lại xa như thế. Hỏi. Hỏi những người phá đá, xay đá ven đường. Hỏi ô tô công an biển số Hà Nội đi ngược chiều. Cuối cùng tìm thấy lối rẽ. Một lối rẽ nhỏ, bình thường ít ai để ý. Lộ ra con đường rất hẹp. Rải đá. Có hai vệt nhẵn dành cho người đi và xe lăn bánh. Hai bên là cỏ may. Đúng con đường mình vẫn nghĩ về nó. Nhưng sao không thấy núi đá bên trái, nơi toán lò vôi vẫn làm việc. Dòng suối sâu bên phải có lẽ là đây. Sao suối nhỏ thế, lòng suối sâu và cạn thế? Đúng rồi! Đúng là mình đang trở lại chốn xưa rồi! Dưới lòng con suối cạn vắng vẻ và bẩn thỉu bỗng hiện ra hơn chục người đàn ông đang trần truồng tắm. Chỉ có thể là một toán hết thời gian lao động, tắm rửa trước khi về trại. Chỉ “chúng tôi” mới tắm ở con suối cạn tới đáy này, mới trần truồng chen chúc ở một nơi hoang vắng lộ thiên như vậy.
Tôi reo lên, chỉ tay xuống suối:
-Ta đây rồi!!
Và bảo hai cô bạn:
-Chính hắn đấy. Các em đừng ló mặt ra. Bọn hắn trông thấy, lên đuổi là không thoát được đâu.
Nói vậy. Để tự trấn tĩnh mình. Mong ước của tôi đang thành sự thật. Bao nhiêu kỷ niệm ập đến đè lên tôi nặng trĩu. Tôi vừa nhận ra vừa không nhận ra mảnh đất đã đầy đoạ tôi. Tất cả như một nơi hoang dại. Không có dấu vết của sự sống. Không còn ngọn núi đá bên này suối, nơi toán lò vôi vẫn xô thùng búa làm việc. Tôi bỗng nhớ đến Nguyên, tập trung hình sự, toán lò vôi, bị tai nạn khi nổ mìn phá đá hỏng một bên mắt, con mắt bị lép khiến khuôn mặt anh trông mới kỳ dị làm sao. Rồi nghĩ đến Lỷ Xìn Cắm có nụ cười thơ trẻ, nụ cười Hêmingwê khi trên xe đưa mắt tìm cái nghĩa địa tù bên suối. Không còn. Nói chung chẳng còn gì cả. Cả nhà gặp mặt, nhà hạnh phúc, nơi tôi đã được gặp vợ 24 tiếng. Dòng suối cũng sâu thế này. Hai vợ chồng tôi kẻ trước người sau, lần từng bậc xuống suối, rửa rau vo gạo. Được nhìn người vợ nhỏ bé, hiền thục và đau khổ của mình chuẩn bị bữa cơm, rồi nhặt nhạnh củi nhóm lửa trong bếp, giữa rừng già, ngồi sát bên nhau, ôm nhau nghe lửa reo, chờ cơm chín, rau sôi… Hạnh phúc đơn sơ làm sao, mong manh làm sao và đau đớn biết bao!
Xe đỗ ở cuối “con đường cỏ may”. Cạnh đó là chiếc cầu bê tông gẫy. Nối với “con đường cỏ may” là con đường mòn ven suối quanh co khuất sau rừng.
Tôi đã nhận ra! Tôi đã nhận ra tất cả! Dù đổi thay, dù đã gần bốn mươi năm, tôi đã nhận ra tất cả. Đúng. Đất này là đất của tôi. Trên đất này tôi đã từng chết trong khi sống.
Chúng tôi xuống xe. Tôi bảo Hải, Huyền:
-Chính xác đây rồi các em ạ.
Tôi đứng nhìn bao quát bốn chung quanh và khẳng định lại một lần nữa điều mình đã khẳng định. Nhưng tất cả đều như nhỏ lại. Núi thấp hơn, rừng bớt thâm u hơn. Suối không còn là suối mà chỉ là rãnh nước đầy rêu. Chúng tôi đi làm qua cái cầu xi măng này, một cái cầu xi măng cốt thép mà đổ gục xuống suối, thế đấy. Chẳng cái gì chịu được thời gian. Sáng sáng chúng tôi vẫn qua chiếc cầu này để đi làm. Vậy là vườn rau nơi toán tăng gia chúng tôi suốt ngày lê la nhổ cỏ, gánh nước tưới ngay bên tay trái tôi. Nhưng nơi trước đây là những luống rau muống vừa được tưới ướt đẫm chạy sóng hàng hay mênh mông rau cải chớm trổ hoa chỉ còn là một khu đất hoang cỏ mọc rậm rịt cằn cỗi. Ngược theo dòng suối này lên sẽ có một chỗ ngoặt. ở đó có những tảng đá cuội lớn bắc ngang suối dẫn tới vườn trong, nơi tôi được làm chân coi vườn khi di lí về Hải Phòng để được tha, nhưng rồi lại từ Hải Phòng trở lại trại để rồi sống tới đáy tuyệt vọng của một kiếp người. Và con đường mòn từ một hẻm rừng xiên chênh chếch vào con đường xe chúng tôi vừa đi qua đã có một đàn bướm vàng bay, im lặng bay mất hút trong tán lá… Tôi giảng cho hai cô bạn gái về “lý lịch” những mảnh đất chung quanh tôi, về con suối dưới chân cầu, nơi chúng tôi vẫn tắm giặt trước khi về trại. Thật không ngờ nước cạn chưa đến mắt cá chân thế này mà chúng tôi vẫn tắm được.
Vũ Thị Hài, Bùi Ngọc Tấn, Huyền
Từ trái qua: Vũ Thị Hài, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thị Huyền, tài xế
Bên kia cầu là sân cơ quan. Nhà mới xây to đẹp hơn. Chúng tôi đi qua chiếc cầu gỗ mới bắc. Hải với vẻ tháo vát của một phóng viên xông xáo năng động, bước tới một buồng làm việc cửa mở rồi quay ra vẫy tôi và Vũ Thị Huyền. Đó là phòng làm việc của ông thượng tá phó giám thị. Lời đề nghị được thăm và làm việc của Vũ Thị Hải vấp ngay phải những nguyên tắc không thể đảo ngược mà ông thượng tá đưa ra. Nhưng Hải vẫn không hề tỏ ra bối rối:
-Em biết rồi. Tức là phải được sự đồng ý trực tiếp của anh …. cục trưởng C26 chứ gì. Chúng em cũng không có ý định làm việc ngay hôm nay. Chẳng qua là chúng em đi qua đây và vào liên hệ với anh trước thôi.
Hải giải thích về sự thông thạo của mình: “Em ở báo An Ninh Hải Phòng mãi mà. Anh cho em xin số điện thoại để chuyến sau em ra thì gọi điện báo trước…”
Trong khi Hải ghi số điện thoại của ông giám thị, tôi nói vui:
-Cố lên Hải ạ. Đừng để sểnh mất mẻ này nhé. Con cá này to đấy.
Ông thượng tá hiểu rằng tôi đang nói đến chuyện chồng con của Hải. Tất cả cùng cười. Không khí đã có vẻ thân mật, chan hoà. Khi Hải ngỏ ý được đi tham quan bên ngoài trại, ông giám thị ngần ngừ một thoáng rồi thân dẫn chúng tôi đi. Thế là tôi được bước những bước trên khu tử địa của tôi.
Cái sân khu cơ quan vẫn như trước và tôi nhận ngay ra nó khi nhìn thấy dẫy nhà làm việc cũ ở phía sau sát sườn núi. Vậy là “trại giam của tôi” ở trên lưng chừng ngọn núi trước mặt kia. Nhưng sao không thấy nó? Tôi rất muốn đi về phía ấy, nhưng ông giám thị dẫn chúng tôi đi ngược dòng suối mà bên kia suối là con đường vào trại chúng tôi vừa đi qua. Tôi biết những gì đã tồn tại ở phía bên ấy, chỗ nào đã từng là nhà gặp mặt, nhà hạnh phúc, chỗ nào đặt máy phát điện. Và mãi tôi mới nhớ ra nơi ngổn ngang nguyên vật liệu xây dựng, đá hộc, sắt thép chúng tôi đang đặt chân lên đây là khu làm việc của các toán quản chế: mộc, rèn, may ngày trước. Giăng, Giả Phỉ, Dũng cốc, Dũng chầy, Minh ba đen, Tuất ba tai… ngày ngày tới làm trên đúng mảnh đất này.
Một cổng trại to lớn và một nhà tù với tường đá cao vút hiện ra trước mắt chúng tôi. Chúng tôi đi theo ông giám thị vào khu vực sẽ là trại giam. Một công trình đang xây dựng dở dang. Đã hoàn thành một khu buồng giam, có hàng rào sắt vây quanh và trên mảnh sân nhỏ phía trong hàng rào sắt tôi thấy một đám tù nhân đang ngồi gục đầu phơi nắng.
Chúng tôi xin phép chụp bức ảnh kỷ niệm ở cửa tam quan và được ông đồng ý. Rồi chúng tôi mời ông chụp ảnh với chúng tôi. Hải nói với ông:
-Anh đã ở đây hai mươi năm rồi cơ à? Em chia buồn với anh phải chịu “án chung thân”.
Tất cả cười. Đó là một sự chia sẻ với ông, với việc đã hai mươi năm ông sống tại chốn rừng sâu heo hút này và không biết còn ở đến bao giờ. Nhiều “ông quản giáo” trẻ cũng đã nhận ra Vũ Thị Hải. Họ bảo Hải:
-Em nhận ra chị rồi. Trên ti vi. Trong chương trình Người Đương Thời.
Điều đó tạo thêm thuận lợi cho chúng tôi. Với lại chỉ có nơi chúng tôi vừa đến (một trại giam đang trong giai đoạn xây dựng và đã có một số ít tù nhân) là quan trọng. Còn tất cả là một con suối cạn, những cánh rừng vây quanh, và con đường độc đạo, không một bóng người, cả quản giáo lẫn tù nhân, chẳng có gì phải giữ gìn, cảnh giác.
Đã tới chỗ ngoẹo suối, nơi lòng suối rộng ra, sâu hơn, cầu rửa của nhà bếp, nơi mỗi năm một lần buộc lũ trâu già chờ giết thịt đón tết. Suối cạn, rêu xanh, chiếc cầu gỗ bắc ngang suối để chúng tôi đi về không còn nữa, thay vào đó là một con đường đá vắt ngang như một cái đập nhỏ. Đúng là trại giam chúng tôi ở lưng chừng ngọn núi trước mặt rồi. Nhưng chỉ còn một chòi gác nhô lên rất cao vượt trên tán lá rừng là cái mốc để tôi định vị. Mà rừng ở đấy cũng như tất cả rừng vây quanh không còn là rừng đại ngàn nguyên sinh uy nghiêm tuổi tác rêu phong ẩm ướt chằng chịt dây leo gai góc hăm doạ nữa. Rừng trồng. Một mầu xanh dịu của những cây keo đã trưởng thành đều tăm tăm. Những tán rừng xanh thẫm của cành lá cổ thụ vươn lên, nhoai ra chen nhau nhấp nhô trên nền trời đã biến mất hoàn toàn. Mấy chục năm qua người ta đã đủ thời gian để triệt hạ cả một dải rừng Đông Bắc. Nhưng tôi vẫn nhận ra cái dốc cao sau trại, cái dốc cao nhất, cái dốc cuối cùng trên đường gánh phân từ nhà bò trở về, một bên là vực sâu, một bên là hàng rào trại giam cao vút, tiếng chân lên dốc chạy gằn từ gót dội lên mang tai, mồ hôi dính áo, Lê Bá Di đã hào phóng tặng tôi một bãi phân trâu ở lưng chừng dốc bên kia.
Cái hàng rào vĩ đại quanh trại cũng không để lại dấu vết, cái hàng rào làm bằng những thân cây trồng ken sít nhau. Cũng phải thôi. Gần nửa thế kỷ rồi còn gì. Bao nhiêu thời gian. Bao nhiêu mưa nắng… Lớp tù ngày ấy đến bây giờ còn sống những ai. Minh Ba đen. Nguyễn Đình Thi, Hỉn Sán. Cắm Xìn. Voòng Kỷ Mình, Chí Lồng Sếnh, Tằng Sình Quay, Voòng Sình Hắm… Cái nhà kho. Mảnh sân vôi trước cửa kho nung nóng không kém chảo rang, chiều tháng sáu hầm hập, mồ hôi từ cằm từ lông mày, rỏ xuống sân khô ngay. Tôi và Voòng Kỷ Mình ngồi xổm nhặt những hột lạc rơi vãi cho vào lồ. Kỷ Mình bảo tôi:
-Đi tập trung cải tạo khó lắm a Tấn à…
Có lẽ cái đám ấy chết gần hết rồi. Trừ Giả Phỉ, Minh Ba Đen là kém tuổi, số còn lại đều hơn tuổi mình. Ngay cả đám trẻ nữa. Như Đỗ Lương, như Giăng. Cũng đã chết rồi. Người chết trên biển khi vượt biên. Người chết khi ngồi ô tô đi chơi Đà Lạt… Chả biết đâu mà lường. Mình còn sống đến bây giờ là lãi rồi. Đến được đây một lần. Toại nguyện.
Hải bảo tôi:
-Anh cúi xuống như là rửa tay ở chỗ nhà bếp làm thịt trâu đi. Để em chụp ảnh.
Bùi Ngọc Tấn
Bùi Ngọc Tấn
Bùi Ngọc Tấn
-Anh nhìn về phía vườn trong để em chụp.
Tôi làm theo mọi “mệnh lệnh” của Hải rồi đứng lặng nhìn trời nhìn đất, nhìn rừng, nhìn suối. Bốn mươi năm. Cảnh xưa không còn, người xưa không còn. Một nỗi buồn dâng lên trong tôi. Những gì tôi ghi xương khắc cốt và quan trọng đến thế đối với cuộc đời tôi chỉ còn trong suy nghĩ. Thời gian đã xoá đi tất cả. Không như mình vẫn đến với nó đêm đêm.
Có lẽ tôi là người duy nhất trong số cả ngàn anh em tù ngày ấy hôm nay trở lại chốn này. Ngoài tôi, có ai biết cái nơi đã từng ngấm đắng cay đau đớn vào máu thịt mình, vào từng tích tắc đời mình thay đổi thế này không. Biến mất rồi rừng của tôi, buồng giam của tôi, trại tù của tôi, những bạn tù, những ông quản giáo, những ông giám thị của tôi. Biến mất rồi nơi xẩy ra cuộc chết của tôi và cuộc chết của biết bao người. Không một dấu vết còn lại để những người sống hôm nay biết và nhớ lấy. Gió vẫn thổi. Trời vẫn mây. Rừng vẫn xanh. Nhưng trời, mây, gió, rừng đều đã đổi thay, hơn nữa rừng gió trời mây đều không ký ức. Thời gian sẽ nuốt chửng tất cả. Những tốt đẹp và những thối nát. Những chân thành và giả dối lừa mị. Những tiếng cười đắng cay. Những hy vọng và tuyệt vọng. Thời gian đã nuốt nhiều người trong số chúng tôi và sẽ nuốt tất cả vào cái dạ dầy không đáy của nó. Mà cuộc sống của chúng tôi đáng được mọi người biết đến. Nó cần được lưu giữ trong ký ức cộng đồng như bao điều cần được lưu giữ trong ký ức dân tộc!
Thật may. Tôi cũng còn vớt vát được chút ít. Rất ít. Trong tiểu thuyết. Và mấy cái truyện ngắn. Hy vọng nó sẽ là một cái bong bóng nhỏ cùng với nhiều bong bóng khác nổi lên trên mặt hồ tĩnh lặng của ký ức dân tộc về một thời mọi người đều có thể bị biến đổi gien.
Đứng bên cạnh tôi, Vũ Thị Hải khe khẽ.
-Em sẽ đưa anh lên Vĩnh Quang. Nhưng phải đợi đến mùa xuân…
Tôi nắm tay Hải thay lời cảm ơn.
Vĩnh Quang, một trại nữa đang chờ tôi trở lại.
B. N. T.
(Bản gốc bài viết trên báo Lao Động số Xuân Giáp Ngọ)
(1) Thơ Chế Lan Viên
(2) Thơ Nguyễn Đình Thi
(3) Thơ Tố Hữu


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: