Hội nghị tham vấn này do Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng (UB VHGDTTN&NĐ) của Quốc hội tổ chức với mong muốn có nhiều tiếng nói xây dựng cho đề án sách giáo khoa sau 2015.
Có ý kiến với Hội nghị, PGS.TS Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm UB VHGDTTN&NĐ cho rằng định hướng đổi mới chương trình, sách giáo khoa đã tuân thủ quy định của Luật giáo dục sửa đổi.
Tuy nhiên, vì là định hướng nên Đề án thiếu các phương án cụ thể như phương án phân ban ở THPT cần được đổi mới cơ bản; trong Đề án cũng nên cụ thể hóa về mục tiêu, yêu cầu và nội dung làm cơ sở cho việc thực hiện xây dựng chương trình.
Nêu giải pháp, bà Tâm Đan đề nghị, để thực hiện được Đề án xây dựng, triển khai chương trình và sách giáo khoa sau năm 2015 cần có 2 đề án gồm: Đề án đổi mới công tác đào tạo giáo viên và chương trình đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên và Đề án chuẩn hóa cơ sở vật chất nhà trường phục vụ triển khai sách giáo khoa mới. Đây là 2 yếu tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo điều kiện thành công của Đề án.
PGS.TS Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm UB VHGDTTN&NĐ phát biểu tại Hội nghị. Ảnh Xuân Trung |
Tương tự như vậy, cũng nên định hướng cụ thể hơn trong thực hiện kế thừa và phát triển trong xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa mới và cũng cần xác định rõ phương án một hay nhiều bộ sách giáo khoa.
PGS.TS Văn Như Cương nêu quan điểm về lộ trình thực hiện đề án sẽ kết thúc vào năm 2022 (sau 8 năm), theo kinh nghiệm của ông thời gian có thể sẽ kéo dài đến 2024. Như vậy, 10 năm để chúng là làm một sự thay đổi cơ bản và toàn diện nền giáo dục là thời gian quá dài, khó chấp nhận được.
Theo PGS. Cương, với thời gian đó có thể có 2-3 vị Bộ trưởng khác nhau của ngành giáo dục và nghĩa là phải thay tướng tổng chỉ huy đến mấy lần. Bởi vậy, cần đẩy nhanh tiến độ của công cuộc đổi mới này, một mặt cần thận trọng, mặt khác không thể làm ăn theo kiểu rề rà, đến đâu hay đến đó.
“Làm việc theo công thức này tôi tin rằng chắc chắn sẽ nhanh ít nhất gấp 10 lần trước đây. Tôi dự trù sau khi chương trình các bộ môn từ lớp 1-12 (thử nghiệm) đã được thẩm định lần đầu, công việc biên soạn sách giáo khoa tập trung ở trại chỉ cần 6 tháng là nhiều nhất” – PGS.TS Văn Như Cương phân tích.
PGS.TS Văn Như Cương tha thiết đề nghị tổ chức trại viết sách giáo khoa. Ở đó, các tác giả làm việc tập trung theo đúng giờ hành chính, họ phải tách ra khỏi cơ sở làm việc cũ trong một thời gian quy định, tập trung toàn bộ thời gian và suy nghĩ cho công việc này.
PGS.TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT đề cập trong Đề án chưa này thấy rõ việc phân luồng và phân ban. Phân luồng, phân ban là yêu cầu của công việc đổi mới. Nếu tiến hành phân luồng, phân ban thì trong bậc phổ thông trung học sẽ có nhiều loại trường và phải có nhiều loại chương trình, sách giáo khoa khác nhau.
PGS. Nhĩ đề nghị trong Đề án việc phân ban ở bậc THPT chỉ chia có 2 ban tự nhiên và xã hội, theo ông ít nhất phải có thêm ban kinh tế. Vì số học sinh mong muốn về các ngành kinh tế và nhu cầu xã hội về lĩnh vực này cũng đến hơn 30% người lao động.
GS.TS Đinh Quang Báo, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho rằng không nên quá kỳ vọng vào việc mọi ý đồ sư phạm đều thể hiện được ở văn bản sách giáo khoa; cần tổ chức tốt việc biên soạn các tài liệu bổ trợ trực tiếp, hệ thống với sách giáo khoa sao cho sách giáo khoa và tài liệu này bổ sung hoàn thiện các chức năng cung cấp kiến thức và hướng dẫn tổ chức hoạt động dạy và học.
Cũng theo GS. Đinh Quang Báo, tác giả biên soạn sách giáo khoa phải tập hợp cho được chuyên gia giàu kinh nghiệm sư phạm để vừa có trình độ uyên bác về nội dung khoa học môn học, vừa có kinh nghiệm sư phạm giáo dục phổ thông.
GS. Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Ủy ban VHGDTTN&NĐ đánh giá, chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông hiện nay vẫn còn thiên về truyền đạt kiến thức, chưa chú trọng đúng mức việc rèn luyện tư duy sáng tạo và năng lực tự học, chưa cân đối dạy kiến thực với giáo dục đạo đức, lối sống. Một số nội dung thuộc một số môn học còn thiếu tính khả thi.
GS. Thi đề nghị góp ý Đề án phải làm rõ quan điểm về dạy học phân hóa và dạy học tích hợp; quan điểm về một chương trình chuẩn với khối kiến thức sâu của từng môn học để học sinh lựa chọn và dành một tỷ lệ thời lượng nhất định cho giáo dục lịch sử, văn hóa của mỗi địa phương, vùng miền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét