Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2019

NGƯỜI CỦA LÀNG


Trần Vũ Long








(Baonghean) - Với hàng nghìn trang sách viết về quê hương, viết về người thân ruột thịt, về bạn bè ở cái làng Hậu Luật có lẽ nên gọi ông là Người của làng.

Nhà thơ Võ Văn Trực sinh ngày 28/1/ 1936, quê ở xã Diễn Bình (Diễn Châu), từng công tác tại Bộ Ngoại giao, NXB Thanh Niên, báo Văn Nghệ. Ông đã xuất bản hàng chục đầu sách với các thể loại: Thơ, tiểu thuyết, ký, phê bình, sưu tầm khảo cứu… Ông cũng đã được trao nhiều giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và các hội văn nghệ, các cuộc thi sáng tác, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam 1975.
Hơn 20 năm về trước, khi đó tôi đang là một cậu học sinh tiểu học, ông vẫn thường đạp xe đến nhà tôi chơi. Cái căn nhà cấp bốn dột nát chật hẹp của gia đình tôi hồi đó lúc nào cũng ấm áp bởi những người bạn văn chương của bố tôi.
Còn nhớ, hôm nào có ông đến chơi là bố tôi lại bảo mẹ ra chợ mua một rổ khoai lang về luộc và không thể thiếu một bát cà muối giòn tan. Ông bảo khoai lang ăn với cà pháo là nhất, nó gợi cho ông nhớ về quê hương. Phải rồi, với những người con xứ Nghệ như ông và bố tôi thì món ăn dân dã của quê hương còn là món ăn mang tính tinh thần.
Bên rổ khoai lang với bát cà pháo, ngoài chuyện văn chương ông rất hay kể những câu chuyện dân gian ở quê ông cho mọi người cùng nghe, đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ, như chuyện Cố Bợ, chuyện núi Hai Vai… mà sau này ông đều viết thành sách. Ông có giọng nói nhẹ nhàng rủ rỉ, ấm áp khiến cho người nghe phải lắng lại cùng với câu chuyện của mình.
Nhà thơ Võ Văn Trực.
Mỗi khi ông đến chơi là tôi lại sà vào lòng và thế nào cũng nhận được vài cái véo yêu của ông. Mới đây, khi tôi đến thăm ông tại nhà riêng ở khu Yên Hoà, một ngôi nhà sang trọng có thang máy, ông vẫn nhanh chóng nhận ra tôi. Ông hỏi thăm từng người trong gia đình, thậm chí ông hỏi thăm cả những người mà ông đã từng gặp ở nhà tôi trước đây. Bản chất con người ông là vậy, sâu sắc và tình cảm.
Bên cạnh chiếc giường của ông là một cái bàn với rất nhiều sách báo xếp chồng trên đó. Tôi hỏi ông:
- Bác vẫn làm việc được à?
- Bác chỉ thỉnh thoảng đọc thôi, tay yếu đâu có viết được nữa. Không còn làm việc được buồn lắm cháu ạ. Chẳng thà ông trời cho mình chết đi còn hơn sống mà không được làm việc. – giọng nói của ông vẫn rủ rỉ nhưng có hơi run run.
- Thôi bác ạ, ai rồi cũng có lúc già yếu. Làm gì có ai thoát khỏi cái quy luật đó đâu. Cả một đời cống hiến cho văn chương như bác cũng là đáng kính nể rồi. Cũng để lại chút gì cho đời và cho nền văn học rồi bác ạ.
Tôi nhìn lên bàn làm việc của ông thấy cuốn sách “Địa chí văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh” của Nguyễn Đổng Chi được đặt ngay ngắn, ở giữa có kẹp một tờ giấy để đánh dấu trang sách mà ông đang đọc. Còn ông thì nhìn xa xăm ra ngoài khung cửa sổ của căn phòng ở tầng hai. Cuộc sống hàng ngày của ông giờ đây hầu như chỉ vỏn vẹn trong căn phòng nhỏ và ô cửa sổ để nhìn ra thế giới bên ngoài.
Phía bên trong khung cửa sổ là một cuộc sống tĩnh lặng nhưng đầy chiêm nghiệm. Còn bên ngoài kia là một thế giới sôi động, đầy sắc màu không ngừng trôi. Đó là một thế giới có nhiều yêu thương nhưng cũng đầy bất trắc mà ông đã từng trải nghiệm bằng cả máu và nước mắt với gần trọn đời mình.
Một số tác phẩm của nhà thơ Võ Văn Trực
Dường như mấy chục năm qua, gương mặt ông không có nhiều thay đổi, chỉ có mái tóc là bạc trắng, nay vì ốm yếu nên cắt ngắn cho gọn. Thật kì lạ, gương mặt hồn hậu của ông luôn tạo cho người đối diện một cảm giác tin cậy và gần gũi nhưng luôn ẩn chứa một nỗi buồn xa xăm. Ngay cả khi ông cười, ta vẫn có thể thấy nỗi buồn phảng phất trên gương mặt ông.
Trong mỗi một kiếp người có biết bao buồn đau, mất mát mà ta phải trải qua. Và trong cái xã hội mà chúng ta đang từng ngày phải đương đầu và nếm trải này có biết bao những điều ngang trái, bất an đang diễn ra, đang rình rập từng phút từng giây khiến ta phải lo âu, suy nghĩ. Huống chi với một trái tim đa sầu đa cảm như nhà thơ Võ Văn Trực không thể không nhức buốt, không rung lên da diết theo từng nhịp đập đó của cuộc đời.
Những nỗi buồn cứ chất chứa trong ông và ông cất giấu. Những nỗi buồn không làm ông gục ngã. Ông cũng không lãng quên chúng mà đem khâu nó lại, bện chặt nó lại như hành trang để tiếp tục đương đầu với cuộc đời, cùng buồn cùng vui trên những chặng đường tiếp theo. Và mỗi khi một mình đối diện với nỗi buồn, ông lại tìm đến thơ, như tìm đến một người tri kỉ, thuỷ chung trọn đời.
“Cuộc đời dở chuột dở dơi
Nửa bóng tối, nửa mặt trời nhá nhem
Hai tờ sách mở hai bên
Tôi nằm ở giữa khâu bền sợi đau”
(Nhà tôi)
Trong lúc trò chuyện, tôi bảo ông kể về những thăng trầm trong cuộc đời, bởi tôi muốn có những chi tiết để làm nên thân phận của một nhà thơ như ông, cho bài viết của mình. Ông chỉ lặng yên, nhìn ra ngoài khung cửa. Bỗng ông quay lại nhìn tôi, rồi lại rủ rỉ kể những câu chuyện về quê hương, về tuổi thơ của ông. Trong câu chuyện đó tôi nhìn thấy ánh mắt ông sáng lên, giọng nói của ông linh hoạt hẳn lên, chốc chốc lại nở một nụ cười. Và cứ như thế ông say sưa kể lại những kí ức của sáu, bảy chục năm về trước.
Ông bảo, quê hương chính là thượng nguồn của mọi cảm xúc trong suốt cuộc đời cầm bút của mình. Trong câu chuyện, ông đã đưa tôi về với cái làng Hậu Luật, mảnh đất chôn nhau cắt rốn của ông. Ở cái làng Hậu Luật đó có ngôi đền Bạch Y, có đình Trung, có ngôi mộ cổ rộng cả mẫu đất của cụ Hùng Lễ Bá Võ Phúc Tuy, một danh tướng của Lê Lợi, người dân làng ông vẫn gọi là mộ cụ Hùng, có cánh đồng Lao, có đồi Di Lĩnh, có cổng làng rêu phong, có con đường gạch mà ngày trước cụ nghè đã bái tổ vinh quy.
Ông lại kể cho tôi nghe về ngọn núi Hai Vai, con sông Bùng trong xanh với bao truyền thuyết, kể về cây đa, cây muỗm của làng Hậu Luật có hàng mấy trăm năm tuổi. Ông say sưa kể về người bạn nối khổ từ thuở mục đồng có tên là Bá; những đêm theo chúng bạn đi hát đối hát dặm trong làng và ở các làng lân cận.
Ông bảo, ông mê mẩn những làn điệu dân ca, những câu hò, vè, ca dao, tục ngữ quê mình. Mê đến nỗi, khi được địa phương cho đi học ngành ngân hàng ở Trung Quốc, ông đã từ chối vì không muốn xa quê hương, không muốn phải rời xa những làn điệu dân ca, hò vè mà ông vẫn nghe, vẫn hát hàng ngày.Ông cười tươi và bảo đó là cái may mắn đầu tiên của ông. Bởi nếu không sau này, ông đã trở thành một cán bộ ngân hàng rồi.
Còn điều may mắn thứ hai của ông, đó là sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Tổng hợp, ông được nhận về làm việc ở Bộ Ngoại giao. Sau khi làm việc ở đó được một năm, cảm thấy công việc không phù hợp với mình nên ông đã xin chuyển. Có nhiều người bảo ông là gàn là dại. Cũng có thể bây giờ thành một ông to nào đó rồi cũng nên. Nhưng với ông thì đó là may mắn. Những người thân, bạn bè làng Hậu Luật cũng bảo đó là may mắn. Nhờ vậy mà làng Hậu Luật mới có một nhà thơ Võ Văn Trực.
Chỉ cách đây khoảng 3 năm thôi, năm nào ông cũng về quê ba, bốn lần, sau này yếu thì mỗi năm một lần. Cho đến hồi đầu năm nay, khi bị tai biến, ông không còn đủ sức để được về với làng Hậu Luật thân yêu của ông nữa, điều đó làm cho ông buồn và day dứt.
Ông kể, cách đây độ sáu, bảy năm, ông mua chục cái quần soóc và chục cái mũ lưỡi trai, để mang về quê tặng mỗi người bạn từ thuở chăn trâu cắt cỏ một bộ. Rồi, họ cùng mặc bộ đồng phục đó để gặp gỡ nhau, đi chơi khắp xóm làng, vui vẻ hồn nhiên như thuở thiếu thời vậy. Chính vì nặng nợ với quê hương như vậy mà hình ảnh quê hương cứ đi vào trong các tác phẩm của ông một cách tự nhiên và mộc mạc.
Bạn bè văn chương gọi ông là người có nhiều trang viết về quê hương nhất trong Hội Nhà văn Việt Nam. Rồi sau này, trải qua những năm tháng biến cố của lịch sử, mà đã từng được cho là “đổi mới” “cải cách” của chính quyền, cái làng Hậu Luật của ông đã bị tàn phá nặng nề. Trong cái biến cố khủng khiếp đó, ông cũng phải chịu một nỗi đau là mất mộ mẹ.
Sau này, mỗi lần về quê, ông lại đốt một bó hương thật to, rồi cứ lang thang khắp cánh đồng để cắm hương và khấn nguyện mẹ mình trong đau thương và trong nước mắt. Chính từ nỗi đau đó ông làm bài thơ “Tìm mộ mẹ”, một trong những bài thơ hay nhất, đau buồn nhất của ông, khiến cho bất kì người đọc nào cũng có thể bật khóc:
“Mẹ mới khuất mười năm, không còn mộ
Con đi tìm, dẫm nát cỏ đồng quê
Nén hương khấn mười năm không tắt lửa
Mẹ nơi đâu? Xin hãy gọi con về.
….
Trên trần thế mười năm con phiêu dạt
Đất nơi đâu cũng thấy mẹ đang chờ
Hài cốt mẹ suốt mười năm lưu lạc
Con đốt trầm lạy bốn hướng vu vơ…”
Trong chốc lát, ông im lặng nhìn tôi, rồi lại nhìn quanh căn phòng của mình như muốn kiếm tìm một điều gì đó. Lúc này tôi mới để ý, bên dưới tủ sách đồ sộ của ông, có rất nhiều báo cũ, tài liệu, bản thảo được ông xếp thành hai hàng dài, ngay ngắn trên nền gạch. Những tờ báo cũ, những trang bản thảo bằng giấy pơ luya đã ố màu thời gian vẫn được ông cất giữ nâng niu.
Rồi ông đứng dậy, từ từ đi lại cái tủ sách. Tôi định dìu ông lại đó, ông bảo: “Để bác tự đi được”. Ông rút ra mấy quyển sách đem lại tặng tôi. Có thể nói, nhà thơ Võ Văn Trực có một sức lao động rất đáng nể. Kể từ khi nghỉ hưu ông đã sáng tác hàng mấy trăm bài thơ, độ dăm cuốn tiểu thuyết, ngoài ra còn có những cuốn khảo cứu, sưu tầm về văn hoá dân gian.
Đọc tác phẩm của Võ Văn Trực, ta có thể thấy được phần nào con người ông, thời đại ông đang sống ở trong đó. Những đau thương mất mát, vui buồn trong đời ông, những ngang trái bất công của xã hội cứ ăm ắp trong tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim người đọc. Sau khi tặng sách cho tôi, ông bảo: “Kể từ khi bác bị ốm. Anh em báo Văn Nghệ đến thăm nhiều lắm. Mọi người chu đáo lắm”.
Tôi thầm nghĩ bụng, một con người hiền lành và nhân ái như ông thì làm sao mọi người có thể không nhớ đến được kia chứ. Kể từ lúc nghỉ hưu cho đến cách đây độ hai, ba năm thôi, năm nào ông cũng tổ chức một bữa cơm vào dịp gần tết, rồi gọi tất cả đám thanh niên báo Văn Nghệ đến để liên hoan. Đối với cánh thanh niên của báo Văn Nghệ, ông vừa là một thủ trưởng cũ, vừa như người cha, chú và cũng như một người bạn. Bởi khi còn là Phó Tổng biên tập báo Văn Nghệ, ông luôn luôn chan hoà, gần gũi, sẻ chia và nâng đỡ cánh trẻ.
Với hàng nghìn trang sách viết về quê hương, viết về người thân ruột thịt, về bạn bè ở cái làng Hậu Luật có lẽ nên gọi ông là Người của làng. Bởi trái tim ông luôn hướng về mảnh đất quê hương, vui buồn vì nó. Ngay cả khi đau yếu này ông vẫn luôn nghĩ về nơi ấy. Và tôi xin được kết thúc bài viết này bằng câu thơ của ông:
“Tình cốt nhục, nghĩa lân bang
Quý hơn gấp triệu lạng vàng cầm tay”

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: