BÀI THƠ: "NHÌN TỪ XA... TỔ QUỐC" CỦA NGUYỄN DUY
Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn , tỉnh Thanh Hóa. Năm 1965, ông là tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ , làm lính đường dây của bộ đội thông tin . Ông tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 - Khe Sanh, Đường 9 - Nam Lào, chiến trường miền Nam , và ở biên giới phía Bắc năm 1979. Sau đó ông giải ngũ, làm việc tại Tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam và là Trưởng Đại diện của báo này tại phía Nam.
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm , khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân , rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre,nứa, lá, thậm chí bao tải.
Nguyễn Duy là nhà thơ miền Bắc thành danh từ khi còn rất trẻ. Ông may mắn được nhà phê bình văn học Hoài Thanh chú ý và giới thiêu bài thơ đầu tiên để từ đó ông lặng lẽ theo đuổi con đường thơ ca của mình với không ít gian truân qua nhiều bài thơ nổi tiếng , như : Nhìn từ xa..Tổ quốc, Đá Ơi, Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam....
Bài thơ "Nhìn từ xa ...Tổ Quốc" thực tả một xã hội Việt Nam hôm nay , một xã hội "lắm thứ vua / lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa / Luật pháp như đùa như có như không "
Bài thơ "Nhìn từ xa...Tổ Quốc!" đánh thức lương tri con người Việt nam , giữa một xã hội Việt Nam hôm nay băng hoại và vô cảm , trước những tội ác diễn ra hàng ngày , vốn có tự trong bản chất do ác thuyết dẫn đường . Đặc biệt , bài thơ đã có cái nhìn khác về chiến thắng của cuộc nội chiến vừa qua mà người ta đã và đang ngày đêm hả hê ca tụng ..., với tác giả, đó chỉ một bản bi ca cho người dân khốn khổ . Cái chiến thắng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả . Đây là một bài thơ thực sự "có vấn đề"ngay từ lúc chào đời.
Trong một cuộc phỏng vấn của Mặc Lâm , nhà thơ NguyễnDuy cho biết : "Bài thơ “Nhìn từ xa. . . Tổ Quốc”, khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như vậy. Bản thảo hoàn thành ở Mạc Tư Khoa vào tháng 5-1988, cho đến tháng 8 năm đó thì tôi về Việt Nam. Người mà tôi đưa (bài thơ) đầu tiên là anh Nguyên Ngọc – tổng biên tập của tôi, vì tôi làm ở báo Văn Nghệ hồi đó, và anh em ngày xưa rất quý nhau, chơi với nhau thân, nhưng anh Ngọc cho biết lúc này chưa in được. Bài thơ này lúc đó Tô Nhuận Vỹ là Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, anh gặp tôi và tôi đưa cho anh bản thảo này và anh cầm về. Tôi đinh ninh là anh không dám in đâu, thế mà đùng một cái anh cho in ở tạp chí Sông Hương. Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn từ xa. . . Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm. Bây giờ đọc lại mình cũng không hình dung được là hồi đó mình viết được những câu thơ như vậy. Bây giờ thì không viết nổi... Cho đến bây giờ có nhiều câu mà khi đọc lên cũng còn rợn người. Hồi đó không phải như bây giờ đâu. Bây giờ có cả một lớp người người ta nói trùng trùng điệp điệp những điều như thế, chứ lúc đó nhìn đi nhìn lại thấy mình đơn thương độc mã mà lại ở vào cái thời điểm nguy hiểm. Người ta rình mò, người ta theo dõi ở cửa nhà tôi. Người ta theo dõi mình nên rất là khó trong cuộc sống chứ không phải chỉ là khó trong suy nghĩ nữa đâu ... "
Nhìn từ xa... Tổ quốc!
Ðối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
Ðêm bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
*
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai ?
im lặng
Ai ?
cái bóng !
A… xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sõng soài nền nhà
Thôi thì ta quay lại
chuyện trò cùng cái bóng máu me ta
*
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
Vâng – đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm
Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
*
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày – tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ – tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy bà-tư-duy
xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ ai không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
____
1. Thơ Chế Lan Viên
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm , khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân , rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre,nứa, lá, thậm chí bao tải.
Nguyễn Duy là nhà thơ miền Bắc thành danh từ khi còn rất trẻ. Ông may mắn được nhà phê bình văn học Hoài Thanh chú ý và giới thiêu bài thơ đầu tiên để từ đó ông lặng lẽ theo đuổi con đường thơ ca của mình với không ít gian truân qua nhiều bài thơ nổi tiếng , như : Nhìn từ xa..Tổ quốc, Đá Ơi, Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, Tre Việt Nam....
Bài thơ "Nhìn từ xa ...Tổ Quốc" thực tả một xã hội Việt Nam hôm nay , một xã hội "lắm thứ vua / lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa / Luật pháp như đùa như có như không "
Bài thơ "Nhìn từ xa...Tổ Quốc!" đánh thức lương tri con người Việt nam , giữa một xã hội Việt Nam hôm nay băng hoại và vô cảm , trước những tội ác diễn ra hàng ngày , vốn có tự trong bản chất do ác thuyết dẫn đường . Đặc biệt , bài thơ đã có cái nhìn khác về chiến thắng của cuộc nội chiến vừa qua mà người ta đã và đang ngày đêm hả hê ca tụng ..., với tác giả, đó chỉ một bản bi ca cho người dân khốn khổ . Cái chiến thắng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả . Đây là một bài thơ thực sự "có vấn đề"ngay từ lúc chào đời.
Trong một cuộc phỏng vấn của Mặc Lâm , nhà thơ NguyễnDuy cho biết : "Bài thơ “Nhìn từ xa. . . Tổ Quốc”, khi viết xong thì chính bản thân tôi cũng bất ngờ bởi vì không nghĩ là mình viết được những câu thơ như vậy. Bản thảo hoàn thành ở Mạc Tư Khoa vào tháng 5-1988, cho đến tháng 8 năm đó thì tôi về Việt Nam. Người mà tôi đưa (bài thơ) đầu tiên là anh Nguyên Ngọc – tổng biên tập của tôi, vì tôi làm ở báo Văn Nghệ hồi đó, và anh em ngày xưa rất quý nhau, chơi với nhau thân, nhưng anh Ngọc cho biết lúc này chưa in được. Bài thơ này lúc đó Tô Nhuận Vỹ là Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương, anh gặp tôi và tôi đưa cho anh bản thảo này và anh cầm về. Tôi đinh ninh là anh không dám in đâu, thế mà đùng một cái anh cho in ở tạp chí Sông Hương. Nó cũng như một giọt nước đầy ly, tạp chí Sông Hương đang có một số vấn đề mà gặp bài “Nhìn từ xa. . . Tổ Quốc” này thành ra họ phải đình bản để kiểm điểm. Bây giờ đọc lại mình cũng không hình dung được là hồi đó mình viết được những câu thơ như vậy. Bây giờ thì không viết nổi... Cho đến bây giờ có nhiều câu mà khi đọc lên cũng còn rợn người. Hồi đó không phải như bây giờ đâu. Bây giờ có cả một lớp người người ta nói trùng trùng điệp điệp những điều như thế, chứ lúc đó nhìn đi nhìn lại thấy mình đơn thương độc mã mà lại ở vào cái thời điểm nguy hiểm. Người ta rình mò, người ta theo dõi ở cửa nhà tôi. Người ta theo dõi mình nên rất là khó trong cuộc sống chứ không phải chỉ là khó trong suy nghĩ nữa đâu ... "
Nhìn từ xa... Tổ quốc!
Ðối diện ngọn đèn
trang giấy trắng như xeo bằng ánh sáng
Ðêm bắc bán cầu vần vụ trắng
nơm nớp ai rình sau lưng ta
Nhủ mình bình tâm nhìn về quê nhà
xa vắng
núi và sông
và vết rạn địa tầng
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
*
Ngọn đèn sáng trắng nóng mắt quá
ai cứ sau mình lẩn quất như ma
Ai ?
im lặng
Ai ?
cái bóng !
A… xin chào người anh hùng bất lực dài ngoẵng
bóng máu bầm đen sõng soài nền nhà
Thôi thì ta quay lại
chuyện trò cùng cái bóng máu me ta
*
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta(*)
Vâng – đã có một thời hùng vĩ lắm
hùng vĩ đau thương hùng vĩ máu xương
mắt người chết trừng trừng không chịu nhắm
Vâng – một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi – cấm lội ngược dòng
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
*
Ta đã xuyên suốt cuộc chiến tranh
nỗi day dứt không nguôi vón sạn gót chân
nhói dài mỗi bước
Thời hậu chiến vẫn ta người trong cuộc
xứ sở phì nhiêu sao thật lắm ăn mày ?
Ai ?
không ai
Vết bầm đen đấm ngực
*
Xứ sở nhân tình
sao thật lắm thương binh đi kiếm ăn đủ kiểu
nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng
Mẹ liệt sĩ gọi con đội mồ lên đi kiện
ma cụt đầu phục kích nhà quan
Ai ?
không ai
Vết bầm đen quều quào giơ tay
*
Xứ sở từ bi sao thật lắm thứ ma
ma quái – ma cô – ma tà – ma mãnh…
quỉ nhập tràng xiêu vẹo những hình hài
Ðêm huyền hoặc
dựng tóc gáy thấy lòng toang hoác
mắt ai xanh lè lạnh toát
lửa ma trơi
Ai ?
không ai
Vết bầm đen ngửa mặt lên trời
*
Xứ sở linh thiêng
sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
tượng Phật khóc Ðức Tin lưu lạc
Thiện – Ác nhập nhằng
Công Lý nổi lênh phênh
Ai ?
không ai
Vết bầm đen tọa thiền
*
Xứ sở thông minh
sao thật lắm trẻ con thất học
lắm ngôi trường xơ xác đến tang thương
Tuổi thơ oằn vai mồ hôi nước mắt
tuổi thơ còng lưng xuống chiếc bơm xe đạp
tuổi thơ bay như lá ngã tư đường
Bịt mắt bắt dê đâu cũng đụng thần đồng
mở mắt… bóng nhân tài thất thểu
Ai ?
không ai
Vết bầm đen cúi đầu lặng thinh
*
Xứ sở thật thà
sao thật lắm thứ điếm
điếm biệt thự – điếm chợ – điếm vườn…
Ðiếm cấp thấp bán trôn nuôi miệng
điếm cấp cao bán miệng nuôi trôn
Vật giá tăng
vì hạ giá linh hồn
Ai ?
không ai
Vết bầm đen vò tai
*
Xứ sở cần cù
sao thật lắm Lãn Ông
lắm mẹo lãn công
Giả vờ lĩnh lương
giả vờ làm việc
Tội lỗi dửng dưng
lạnh lùng gian ác vặt
Ðạo Chích thành tôn giáo phổ thông
Ào ạt xuống đường các tập đoàn quân buôn
buôn hàng lậu – buôn quan – buôn thánh thần – buôn tuốt…
quyền lực bày ra đấu giá trước công đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen nhún vai
*
Xứ sở bao dung
sao thật lắm thần dân lìa xứ
lắm cuộc chia li toe toét cười
Mặc kệ cỏ hoang cánh đồng gái góa
chen nhau sang nước người làm thuê
Biển Thái Bình bồng bềnh thuyền định mệnh
nhắm mắt đưa chân không hẹn ngày về
Ai ?
không ai
Vết bầm đen rứt tóc
*
Xứ sở kỷ cương
sao thật lắm thứ vua
vua mánh – vua lừa – vua chôm – vua chỉa
vua không ngai – vua choai choai – vua nhỏ…
Lãnh chúa xứ quân san sát vùng cát cứ
lúc nhúc cường hào đầu trâu mặt ngựa
Luật pháp như đùa như có như không có
một người đi chật cả con đường
Ai ?
không ai
Vết bầm đen gập vuông thước thợ
*
?…
?…
?…
*
Ai ?
Ai ?
Ai ?
Không ai !
Không ai !
Không ai !
Tự vấn – mỏi
vết bầm đen còng còng dấu hỏi
*
Thôi thì ta trở về
còn trang giấy trắng tinh chưa băng hoại
còn chút gì le lói ở trong lòng
*
Ðôi khi nổi máu lên đồng
hồn thoát xác
rũ ruột gan ra đếm
Chích một giọt máu thường xét nghiệm
tí trí thức – tí thợ cày – tí điếm
tí con buôn – tí cán bộ – tí thằng hề
phật và ma mỗi thứ tí ti…
Khốn nạn thân nhau
nặng kiếp phân thân mặt nạ
Thì lột mặt đi lần lữa mãi mà chi
dù dối nữa cũng không lừa được nữa
khôn và ngu đều có tính mức độ
*
Bụng dạ cồn cào bất ổn làm sao
miếng quá độ nuốt vội vàng sống sít
mất vệ sinh bội thực tự hào
Sự thật hôn mê – ngộ độc ca ngợi
bệnh và tật bao nhiêu năm ủ lại
biết thế nhưng mà biết làm thế nào
Chả lẽ bây giờ bốc thang chửi bới
thầy chửi bới nhe giàn nanh cơ hội
Chả lẽ bốc thang cỏ khô nhai lại
lạy ông-cơ-chế lạy bà-tư-duy
xin đừng hót những lời chim chóc mãi
Ðừng lớn lối khi dân lành ốm đói
vẫn còng làm cho thẳng lưng ăn
Ðổi mới thật không hay giả vờ đổi mới?
máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?
*
Thật đáng sợ ai không có ai thương
càng đáng sợ ai không còn ai ghét
Ngày càng hiếm hoi câu thơ tuẫn tiết
ta là gì ?
ta cần thiết cho ai ?
*
Có thể ta không tin ai đó
có thể không ai tin ta nữa
dù có sao vẫn tin ở con người
Dù có sao
đừng khoanh tay
khủng khiếp thay ngoảnh mặt bó gối
Cái tốt nhiều hơn sao cái xấu mạnh hơn ?
những người tốt đang cần liên hiệp lại!
*
Dù có sao
vẫn Tổ Quốc trong lòng
mạch tâm linh trong sạch vô ngần
còn thơ còn dân
ta là dân – vậy thì ta tồn tại
*
Giọt từng giọt
nặng nhọc
Nặng nhọc thay
Dù có sao
đừng thở dài
còn da lông mọc còn chồi nảy cây.
____
1. Thơ Chế Lan Viên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét