"Va chạm của Trung Quốc với ông Thạch diễn ra trong một thời gian dài, chủ yếu liên quan tới lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Nhưng Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung, một người biết tiếng Việt rất giỏi, đã nói rằng, quan điểm cho rằng ông Thạch chống Trung Quốc là hoàn toàn sai lầm".
LTS:Tuần Việt Nam xin giới tiếp phần 2 cuộc trò chuyện với PGS. TS Vũ Dương Huân với tư cách là một Nhà Sử học bàn về 30 năm ĐỔI MỚI nhìn từ ngành Ngoại giao. Ông Huân nguyên là Giám đốc Học viện Ngoại giao Việt Nam, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Ngoại giao, Cựu đại sứ Việt Nam tại Ba Lan và Ucraina
Xem lại Kỳ 1:Kinh nghiệm xương máu: “Đừng để bị đá ra rìa”
“Thực tiễn sẽ trả lời”
Tại Hội nghị Trung ương 3 của Đại hội VII được coi là bước ngoặt lịch sử đối với đối ngoại Việt Nam, đối với chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Ông còn nhớ, hồi đó, để đạt được bước ngoặt này thì các vị đứng đầu ngành ngoại giao, đặc biệt là Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã làm những gì để thuyết phục được những người luôn đề cao, coi trọng quan hệ với các nước XHCN và phong trào công nhân trên thế giới?
Ông Vũ Dương Huân: Trong một quốc gia, việc có những ý kiến khác nhau là chuyện bình thường. Trong thời ông Nguyễn Cơ Thạch là Bộ trưởng, nhất là giai đoạn liên quan đến Đại hội VI và Đại hội VII cũng có những vấn đề thuộc về ý thức hệ nổi lên, và gây ra tranh luận mạnh mẽ.
Việt Nam đã bắt đầu chuyển biến từ Đại hội VI, chính xác hơn là Nghị quyết 32 của BCT (7/1986), trước Đại hội VI mặc dù lúc đấy đối ngoại chưa được quan tâm nhiều. Lúc đó, trọng tâm là đổi mới về kinh tế, nhất là tư duy kinh tế.Nhưng mà đối ngoại và đối nội là những vấn đề luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, nếu không có đổi mới về đối nội thì không thể đổi mới đối ngoại.
Tại Đại hội VI đã đưa ra những tư tưởng lớn về đối ngoại, tuy chưa bàn cụ thể. Chẳng hạn là các tư tưởng “Kết hợp sức mạnh; Thêm bạn bớt thù; Kết hợp sức mạnh với giữ vững hòa bình ở Đông Nam Á và Đông Dương…” Hay “chuyển đấu tranh sang cùng tồn tại hòa bình”… Nội bộ ta khi đó như tôi đã nói ở trên là vẫn còn nhiều khác nhau về ý kiến.
Nhưng vẫn còn có sự ủng hộ đối với yếu tố ý thức hệ trong đối ngoại.Nhân đây, tôi xin kể một ví dụ về ngoại giao ý thức hệ. Năm 1989 là năm kỷ niệm 40 năm của Cộng hòa Dân chủ Đức, và họ mời tất cả các lãnh đạo Đảng anh em sang tham dự. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến dự với mục đích, ngoài dự lễ kỷ niệm, là thông báo với các Đảng Cộng sản khác về sáng kiến của Đảng Cộng sản Việt Nam đăng cai tổ chức một cuộc họp bàn để phối hợp các Đảng Cộng sản nhằm cứu CNXH, vì lúc đó CNXH đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng ở Đông Âu và Liên Xô. Ông Linh đã thành công với một số Đảng Cộng sản như Romania, Mông Cổ, Cu Ba, hay Tây Đức, nhưng lại không được Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachev ủng hộ do nội bộ Liên Xô lúc bấy giờ đang có nhiều thay đổi lớn.
Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người tích cực thúc đẩy đa dạng hóa, đa phương hóa vì lợi ích dân tộc. Bộ trưởng Thạch đã xây dựng một đội ngũ nghiên cứu đã kịp nhìn ra xu thế phát triển của thế giới, nhận thấy giờ không thể đi theo lối tư duy xáo cũ được nữa, mà phải đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, phải chú trọng phát triển kinh tế, chú trọng những vấn đề khác để mà thúc đẩy sự phát triển đất nước, và phải giải quyết vấn đề Campuchia.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gặp gỡ nhà đồng sáng lập đảng Xã hội Pháp Jean-Pierre Chevènement năm 1982 - Ảnh: Le Monde
|
Đáng mừng là Đại hội VII, xu hướng ủng hộ đổi mới đã manh nha thắng thế mặc dù không hoàn toàn. Trong Nghị quyết Đại hội VII vẫn còn thấp thoáng tư tưởng ngoại giao ý thức hệ lẫn vào chính sách đa phương hóa quan hệ.
Tôi từng nghe trực tiếp ông Thạch nói rằng, đại ý “Thực tiễn sẽ trả lời”. Tôi vẫn nhớ rất rõ, bản tham luận tại Đại hội VII của ông Thạch rất hay. Ông ấy đã đánh giá về xu hướng phát triển của thế giới, cách mạng khoa học công nghệ, của toàn cầu hóa, xu hướng liên kết kinh tế nhau, và quả quyết Việt Nam không thể đi theo ngoại giao ý thức hệ được, bởi thực tế ở Đông Âu lúc đó là những minh chứng rõ ràng.
Những cơ hội bị bõ lỡ
Nhân ông đang nói về chuyện cũ, chúng tôi xin hỏi một câu chuyện từng nghe phong thanh đâu đó. Có phải đã có những ý kiến khuyên Việt Nam nên bình thường hóa quan hệ với ASEAN và Mỹ, đặc biệt là ASEAN trước khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc?
Ông Vũ Dương Huân: Đúng là có ý kiến đó. Đáng nhẽ ra trong bối cảnh như thế, Việt Nam cần nhanh chóng đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, và điều thúc đẩy đầu tiên chính là cái tăng cường quan hệ với ASEAN và gia nhập ASEAN, vì ASEAN là các nước láng giềng quanh ta.
Tại sao lại khuyên bình thường hóa quan hệ với Mỹ trước là bởi Mỹ là siêu cường, có thể chi phối các mối quan hệ quốc tế. Hơn nữa, trong bối cảnh quan hệ Trung Quốc cực kỳ khó khăn, và Trung Quốc không muốn bình thường hóa quan hệ sớm, họ đã dùng vấn đề Campuchia để ngăn chặn Việt Nam.
Nếu như Việt Nam bình thường hóa quan hệ với ASEAN, chắc chắn mối quan hệ với Trung Quốc sẽ không phức tạp như sau này. Vì, quan hệ quốc tế là những vấn đề dằng díu với nhau. Quan hệ với ASEAN sẽ thúc đẩy việc bình thường hóa với Trung Quốc.
Thật đáng tiếc, cả hai cái việc đó mình đều đã bỏ lỡ.
Hồi đó chúng ta đã có cơ hội tốt để có thể chớp lấy cả 2 cơ hội này phải không ạ?
Ông Vũ Dương Huân: Hồi cuối thập niên 1970, Mỹ đánh tiếng sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Nhưng phía ta đã kiên quyết đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh 3,25 tỷ USD, ghi trong Công hàm của Tổng thống Nich Xơn gửi Thủ tướng Phạm Văn Đồng, như một điều kiện tiên quyết để bình thường hóa. Sau này Nixon bảo không làm được vì quyết định về tài chính thuộc về Quốc hội.Đặc biệt, trong bối cảnh hội chứng chiến tranh Việt Nam còn sâu nặng, Quốc hội làm sao mà chi. Việt Nam đã không tìm hiểu thấu đáo hệ thống chính trị Mỹ.
Đến tận 4/1978, Việt Nam mới chấp nhận bỏ không đòi bồi thường chiến tranh, thì Mỹ đang chuẩn bị bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cộng thêm chuyện ta đưa quân vào Campuchia và điều thứ ba quan trọng nhất là Việt Nam đã ký Hiệp ước Hữu nghị Xô – Việt, trong đó có Điều 6 về phối hợp hợp tác về quân sự.
Còn đối với ASEAN, cơ hội để bình thường hóa quan hệ với ASEAN là có.05/07/1976 Việt Nam đưa ra chính sách 4 điểm được các nước ASEAN rất hoan nghênh. Nhưng tại điểm thứ 4, ta lại kèm theo cái đuôi là tăng cường hợp tác với khu vực ASEAN để khu vực này có hòa bình trung lập thực sự. Vì thế một số nước ASEAN cho rằng mình muốn kêu gọi nhân dân lật đổ chính phủ họ. Hãy nhớ, lúc này các nước ASEAN đều phụ thuộc ở các mức độ khác nhau vào Mỹ. Khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia, lực lượng các nước xung quanh đã về hùa với Trung Quốc và phương Tây bao vây cấm vận Việt Nam.
Cho rằng Nguyễn Cơ Thạch chống Trung Quốc là sai lầm
Theo chúng tôi được biết, trong tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, kênh ngoại giao Đảng với kênh ngoại giao Quốc phòng đã đóng vai trò hết sức quan trọng. Tại sao lại có hiện tượng như thế và bài học cho hậu thế rút ra là gì?
Ông Vũ Dương Huân: Qua một số hồi ký, chúng ta được biết là Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh, Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đã tổ chức gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tại Hà Nội. Tại đó ông Linh bàn với Trương Đức Duy về kế hoạch đi thăm Trung Quốc, và dẫn đến Hội nghị Thành Đô.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh là người coi trọng ý thức hệ, đặc biệt trong quan hệ giữa các nước XHCN và trong quan hệ giữa các Đảng Cộng sản. Ông Linh tin rằng ý thức hệ là con đường quan trọng, có thể hóa giải các mối quan hệ đối ngoại căng thằng, phức tạp. Ông ấy đã có niềm tin kiên định như vậy.
Trong nhiệm kỳ Tổng Bí thư của mình, ông Nguyễn Văn Linh đã rất nỗ lực tạo dấu ấn lịch sử bằng việc bình thường hóa với Trung Quốc.
Chúng tôi không hiểu, tại sao qua kênh ngoại giao Nhà nước lại lâu bình thường hóa hơn? Chúng tôi từng nghe kể Nghị quyết XIII của Bộ Chính trị, do ông Thạch góp sức chủ yếu, có yêu cầu bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc?
Ông Vũ Dương Huân: Tôi đươc biết Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là người rất coi trọng nhân tố Trung Quốc, luôn mong muốn sớm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
>> Xem thêm các bài trong mạch Nhìn lại 30 năm Đổi mới của Tuần Việt Nam
|
Ví dụ, liên quan đến việc góp ý vào Dự thảo Hiến pháp 1980, chính nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên, tại Hội nghị Tổng kết Đối ngoại giai đoạn 1975-1995 vào năm 2007, đã kể lại rằng, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã giao cho ông Niên chuyển bản góp ý của Bộ Ngoại giao tới các ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ. Theo quan điểm của Bộ Ngoại giao, trong Lời Nói Đầu của Dự thảo Hiến pháp 1980 không nên đưa câu “Trung Quốc là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm”.
Khoảng 2-3 tháng trước Đại hội VII (6/1991) có rộ lên tin tức là Trung Quốc đang tìm cách hạ bệ ông Thạch vì ông chống Trung Quốc. Nhưng thực tế là ông chủ trì Nghị quyết XIII, mà một trong những nội dung quan trọng là giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Để nói về giai đoạn lịch sử này, chúng ta cũng có thể dùng câu nói của ông là “thực tiễn sẽ trả lời.”
Đại sứ Trung Quốc Lý Gia Trung, một người biết tiếng Việt rất giỏi, đã nói rằng, quan điểm cho rằng ông Thạch chống Trung Quốc là “hoàn toàn sai lầm".
Xin cảm ơn ông Vũ Dương Huân đã dành thời gian cho Tuần Việt Nam!
Huỳnh Phan – Lan Anh
Kỳ 1: |
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét