Có lẽ đây là lúc đất nước xảy ra nhiều thảm họa nhất từ trước cho đến nay. Biển độc, sông cạn, không khí ô nhiễm và vùng biển đảo bị chiếm trắng trợn. Không những cá chết hàng loạt mà cả con người cũng đã hy sinh ngay trên chính lãnh hải của mình.
Tôi có thể đặt tên cho tình trạng lúc này là nỗi bất hạnh của đất nước. Nhưng theo một nghĩa nào đó, bất hạnh là một loại tài sản, như cách giáo sư trẻ Phan Việt hiện ở Mỹ đã viết. Và nếu biết coi đó là một loại tài sản để dành nó cho những phát kiến thì loại tài sản này mới có ý nghĩa và giá trị, bằng không nó sẽ nhấn chìm và giết chết những kẻ ngu dốt, nhu nhược và hèn yếu.
Nợ công tăng phi mã và ngân sách quốc gia lâm vào tình trạng xấu nhất trong vòng 20 năm qua, có lẽ tệ hại nhất là cảnh vỡ nợ nền kinh tế thời ông Tố Hữu làm ủy viên Bộ chính trị, phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng những năm thập niên 1980s – vì nhà thơ đi làm kinh tế là vậy, nó đã để lại hậu quả là nền kinh tế kiệt quệ, tan hoang, tiền in ra như giấy vụn vì mất giá thảm hại.
Đến nay, dân ta cũng lại quá ngây thơ, khi nhà nước tăng giá vàng lên gấp rưỡi hiện tại thì lập tức nhà nhà đổ xô đi bán vàng để “kiếm lời” vì thấy được hời quá. Nhưng đúng là tư duy ăn sổi ở thì với cái nhìn ngắn hạn, nhỏ mọn nó đã ngấm sâu vào máu của những người Việt. Bởi ở trong hoàn cảnh nào đi nữa, dù vàng vẫn chỉ là một loại tiền, nhưng nó có tính năng dự/lưu trữ – một tính năng đặc biệt mà tiền giấy không có. Nếu tiền mất giá, giống như Zambabuwe với 27 tỷ đơn vị tiền của họ chỉ mua được cái bánh mỳ hay như Venezuela mới đây tầng lớp trung lưu cũng phải bới rác để tìm thực phẩm mà đút vào mồm, bởi lúc đó tiền không còn giá trị nữa, dù có cả một núi tiền đang sở hữu, thì vàng vẫn có thể cất giữ và ổn định được. Bạn có thể lấy vàng để đổi ra ngoại tệ và tìm một cuộc tẩu thoát với đồng tiền nước ngoài nơi mà bạn muốn đến nếu có vỡ nợ hay sụp đổ nền kinh tế quốc dân, hoặc cứ tích trữ đợi đến khi nền kinh tế ổn định trở lại, thì vàng vẫn luôn có giá trị sử dụng.
Thực ra, ở đất nước này, không chỉ có người dân là sợ nhiều thứ, mà đặc biệt là sợ công an, chính quyền và sợ cả sự quy chụp cho những hành động trái chiều, bất đồng chính kiến – mà nhờ nó các nước mới văn minh và phát triển đi lên. Nay kể cả chính quyền cũng lo sợ vì có quá nhiều biến động dồn dập xảy ra cùng một lúc, họ cũng đã lo lắng và sốt sắng với người dân, với tình cảnh đất nước. Họ cũng lo ngại trước cảnh bành trướng của Trung Quốc mà chưa biết phải giải quyết ra sao, họ cũng đang khủng hoảng với chính nội tại của mình về tình trạng tham nhũng và cường quyền, chạy chức, mua bán quyền lực. Họ cũng sợ dân chúng bức xúc quá mà gây ra những xáo trộn nào đó, nên thành ra họ trở nên lo ngoài, sợ trong cùng lúc.
Nhưng thực ra, như ông Franklin Roossevelt đã nói: ở nơi đó, ngoài nỗi sợ hãi ra thì chẳng có gì ngoài nỗi sợ hãi. Và tôi cũng mượn thêm ý của ông Winston Churchill để nói rằng, một chính quyền mà né tránh xung đột (mâu thuẫn xã hội, quốc tế) bằng cách sợ hãi và e dè, thì rồi dân tộc ấy sẽ phải lãnh lấy cả hai thứ đó, cả hậu quả xấu/tiêu cực của xung đột và cả sự sợ hãi chồng lấn lên tiếp nữa, không bao giờ dừng lại.
Đúng là thế, chẳng có gì ngoài nỗi sợ hãi làm chúng ta sợ hãi và trở nên bế tắc. Vì thế mà Malaysia, Indonesia hay Philippines luôn sẵn sàng cho một hành động tương xứng mang tính cứng rắn để đáp trả những hành động trắng trợn, vô pháp của kẻ khác xâm hại đến họ. Ấn Độ cũng có lựa chọn rõ ràng cho mình về một, một số đồng minh cũng như từ chối tham gia con đường tơ lụa trên biển của Trung Quốc để ngăn chặn mưu đồ hiện diện mang tính kiểm soát của Bắc Kinh trên vùng Ấn Độ Dương của họ.
Nỗi sợ hãi chính là cách làm cho kẻ khác trở nên quyền lực và mạnh mẽ hơn. Nỗi sợ hãi khiến con người ta dễ thỏa hiệp hoặc dễ bị mua chuộc hơn. Và nỗi sợ hãi cũng khiến con người ta trở nên vô hại hơn.
Bởi vậy, chỉ khi gạt bỏ được nỗi sợ hãi, con người ta mới tìm ra cách để đứng vững trước những biến cố, dù có lớn đến mấy, vì với tâm thế luôn sẵn sàng và đã có phòng bị dự trù, chúng ta sẽ không bao giờ trở nên tầm thường trước nghịch cảnh.
Cũng giống như vậy, Mỹ trỗi dậy lớn mạnh và trở thành cường quốc số một thế giới sau sự cố quần đảo Hawaii năm 1941 cũng xuất phát từ sự muốn được an toàn và đứng ngoài lề cuộc thế chiến 2 bằng cách thỏa hiệp với Nhật Bản thiết lập hòa bình cho vùng biển Thái Bình Dương để rồi nhận lại hậu quả cay đắng như lời ông Winston Churchill đã cảnh báo trước đó: Né tránh chiến tranh bằng cách chịu nhục, thì rồi sẽ lãnh đủ cả hai, cả nhục nhã và chiến tranh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét