ÔNG NGUYỄN BÁ THANH QUA ĐỜI
THY ĐƯỜNG
Vậy là ông Nguyễn Bá Thanh đã qua đời vào trưa hôm nay 13/02/2015. Dù đã biết ông khó qua khỏi căn bệnh hiểm nghèo này nhưng sao khi được tin ông mất tôi vẫn thấy ngậm ngùi, nuối tiếc.
Biết bao sâu dân mọt nước, những ký sinh trùng của xã hội không chết đi, lại để một người bằng cả tấm lòng mang quyền hạn và khả năng lo cho nước nhà nói chung và một Đà Nẵng hoa lệ nói riêng phải giã từ cuộc sống khi tâm nguyện chưa hoàn thành.
Chắc hẳn rất nhiều nước mắt khóc thương ông, nhất là Đà Nẵng, nơi mà nhờ ông đã trở thành một trong những điểm đến nỗi tiếng của Việt Nam và thế giới. Khi viết những dòng chữ này tôi cũng rưng rưng lệ xót xa.
Tôi biết rằng ngay cả những người thuộc hạng quan Tham trong lòng họ cũng bùi ngùi trước cái chết của Ông Bá Thanh bởi dù có tham ô, tham nhũng nhưng họ cũng còn đó một chút ánh sáng lương tri.
Hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam đang tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, có kẻ cố tình, có kẻ bị cuốn vào vòng xoáy tham nhũng , có kẻ mượn gió bẻ măng, có kẻ mưu hại người để được lợi mình, có kẻ buộc phải tham nhũng để tồn tại... Trừ những kẻ cố tình, còn lại dù có tham nhũng và chưa bị lộ, tin rằng họ cũng như bao nhiều người khác,đều tiếc nuối cho một nhân tài đất nước vừa ra đi vĩnh viễn.
Thôi cũng đành. Sinh lão bệnh tử là quy luật muôn đời của kiếp người. Ta vẫn phải tiếp tục cuộc đời. Thân nghiệp ai cũng có. Chỉ mong sao nhẹ gánh nghiệp báo này, xin được trả góp từ từ cái thân nghiệp để mỗi năm chịu một chút nạn tai, bệnh hoạn nhè nhẹ thôi cho đến cuối đời. Đừng để sống mạnh khỏe cả đời, cuối đời liệt giường chiếu, hic, chịu đâu nỗi.
Xin post thêm 1 bài viết về những chuyện đời vui của ông Bá Thanh từ lúc còn trẻ đến ngày phát bệnh đăng trên báo Lao Động (TW) tiêu đề :
Biết bao sâu dân mọt nước, những ký sinh trùng của xã hội không chết đi, lại để một người bằng cả tấm lòng mang quyền hạn và khả năng lo cho nước nhà nói chung và một Đà Nẵng hoa lệ nói riêng phải giã từ cuộc sống khi tâm nguyện chưa hoàn thành.
Chắc hẳn rất nhiều nước mắt khóc thương ông, nhất là Đà Nẵng, nơi mà nhờ ông đã trở thành một trong những điểm đến nỗi tiếng của Việt Nam và thế giới. Khi viết những dòng chữ này tôi cũng rưng rưng lệ xót xa.
Tôi biết rằng ngay cả những người thuộc hạng quan Tham trong lòng họ cũng bùi ngùi trước cái chết của Ông Bá Thanh bởi dù có tham ô, tham nhũng nhưng họ cũng còn đó một chút ánh sáng lương tri.
Hiện tượng tham nhũng ở Việt Nam đang tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau, có kẻ cố tình, có kẻ bị cuốn vào vòng xoáy tham nhũng , có kẻ mượn gió bẻ măng, có kẻ mưu hại người để được lợi mình, có kẻ buộc phải tham nhũng để tồn tại... Trừ những kẻ cố tình, còn lại dù có tham nhũng và chưa bị lộ, tin rằng họ cũng như bao nhiều người khác,đều tiếc nuối cho một nhân tài đất nước vừa ra đi vĩnh viễn.
Thôi cũng đành. Sinh lão bệnh tử là quy luật muôn đời của kiếp người. Ta vẫn phải tiếp tục cuộc đời. Thân nghiệp ai cũng có. Chỉ mong sao nhẹ gánh nghiệp báo này, xin được trả góp từ từ cái thân nghiệp để mỗi năm chịu một chút nạn tai, bệnh hoạn nhè nhẹ thôi cho đến cuối đời. Đừng để sống mạnh khỏe cả đời, cuối đời liệt giường chiếu, hic, chịu đâu nỗi.
Xin post thêm 1 bài viết về những chuyện đời vui của ông Bá Thanh từ lúc còn trẻ đến ngày phát bệnh đăng trên báo Lao Động (TW) tiêu đề :
TỪ ĐÂU NGƯỜI ĐÀ NẴNG YÊU ÔNG BÁ THANH
Từ cây cầu thôn Phước Đông
Năm 1981, từ phòng Nông nghiệp huyện Hoà Vang, anh cán bộ trẻ Nguyễn Bá Thanh về nhận nhiệm vụ làm chủ nhiệm Hợp tác xã 2 Hoà Nhơn. Hồi đó trong dân gian nông thôn có câu “Hợp tác, hợp te / không có miếng vải mà che cái …” nói lên nỗi bức xúc, thiếu nghèo của nông dân trong phong trào Hợp tác hoá nông nghiệp. Và vì là chủ nhiệm nên dân cũng chẳng ưa gì ông. Mỗi tháng một lần các chủ nhiệm HTX suốt ngày nghe dân chửi, bêu riếu vì cái vụ “bình công chấm điểm”, chia hoa lợi. Hoà Nhơn lúc này có 3 HTX thì chỉ riêng HTX nơi ông Thanh làm chủ nhiệm thì đời sống dân khá ổn, nhờ “ông chủ nhiệm” sâu sát từng nhà, từng gia đình… nên vụ bình công điểm khá sát đúng. Ai lười nhận ít, ai siêng nhận nhiều, không kêu vào đâu được.
Từ thôn Phước Thới (HTX 2) Hoà Nhơn đi đến trường Tiểu học trong thôn, học sinh phải lội qua một con mương rộng, dòng chảy bất thường, nên năm nào mùa lụt cũng có một hai em sảy chân, chết trôi. Dân kêu làm cầu mãi, nhưng hồi đó làm gì cũng phải chờ “kế hoạch” chẳng biết khi nào có. Đùng cái, một hôm dân Phước Đông thấy nhân công, sắt thép, vật liệu ầm ầm đổ tới.
Ông chủ nhiệm Bá Thanh thì tả xung, hữu đột, hò hét suốt ngày trên công trường. Hỏi ra mới hay, nghe dân “chửi” quá, ông tức khí đón xe đò, một mình mang bản thiết kế tự vẽ ra thấu Hà Nội để kêu. Nhờ những quan hệ học hành trước đó (ông tốt nghiệp kỹ sư của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội), cây cầu “tự xin” được cho ít sắt thép, xi măng để làm. Thấy không đủ thiếu chi, ông nghĩ ra trò kết nghĩa với Công ty đóng tàu Sông Thu, rồi thò ra cái giấy xin vật liệu làm công. Nhờ vậy vài tháng sau, ngày đầu năm học mới, học sinh Hoà Nhơn được thong dong đi trên cây cầu bê tông đẹp ngất ngây đến trường, mà không phải lội qua con mươngi nguy hiểm đó.
Chính quyền xã đặt tên cầu Phước Đông (địa danh), nhưng sau dân không chịu, mà chỉ gọi là cầu Nguyễn Bá Thanh, như một sự tri ân. Đến nay sửa chữa bao nhiêu lần, dân vùng này vẫn cứ gọi vậy.
Đào giếng, đãi vàng
Năm 1985. Tỉnh uỷ Quảng Nam – Đà Nẵng ra Nghị quyết 25 về vấn đề tăng cường đầu tư nhân tài, vật lực cho miền núi. Chủ nhiệm Nguyễn Bá Thanh lúc này đã là Phó chủ tịch, Thường vụ huyện uỷ trẻ nhất tỉnh, được điều lên làm Giám đốc Nông trường chè Quyết Thắng, đóng chân tại xã 3 huyện Hiên (nay là Đông Giang). Lúc bấy giờ, anh đã nổi tiếng “chịu chơi” vì là vị giám đốc đầu tiên tự lái chiếc xe Jeep trắng chiến lợi phẩm chạy suốt ngày trên các đồi chè.
Kỷ niệm khó quên nhất về anh là câu chuyện cho phép công nhân khai thác vàng sa khoáng trên địa bàn Nông trường. Những năm 1985-1990 vô cùng khó khăn của các đơn vị kinh tế tỉnh QN - ĐN vì chuyển sang hoạt động cơ chế thị trường; khối Liên Xô và Đông Âu lại tan rã nên hàng hoá sản xuất ra không ai mua. Hàng hoá tồn kho và Nông trường Quyết Thắng cũng không ngoại lệ. Mấy trăm công nhân “đói” dài.
Suy nghĩ mãi, ông mới nghĩ ra kế, cho công nhân đi đào đãi vàng sa khoáng để tạm cải thiện đời sống trong thời điểm khó khăn. Ông bảo ngồi trên đống vàng mà bó tay chịu đói là chuyện phi lý. Nói rồi hôm sau ông cho làm luôn. Ông bày cho công nhân âm thầm khoét sâu vào lòng đất, móc vàng sa khoáng ra suối đãi, rồi mang bán. Nhờ vậy đời sống hàng trăm gia đình khá lên thấy rõ.
Lâu ngày việc vỡ lỡ! Đoàn thanh kiểm xác định việc đào đãi vàng của công nhân là do có chủ trương từ Ban giám đốc. Thế nhưng hôm đoàn thanh tra triệu tập cuộc họp thông qua kết luận, bất ngờ ông tưng tửng nói trong cuộc họp: “Đào vàng mô mà đào vàng! Tui cho phép đào giếng lấy nước uống; công nhân đào giếng, gặp phải cục vàng chẳng lẽ mang vứt đi? Họ có lấy bán mua thêm lon gạo, cọng rau thì cũng coi như BGĐ gián tiếp lo cho đời sống, chứ các đồng chí phát hiện ra tôi hay bất kỳ ai trong BGĐ tơ hào một mảy vàng, tui nhận kỷ luật liền”. Đoàn Thanh tra ớ người ra trước lý lẽ “đào giếng” này, và cuối cùng cũng không chốt lại được kết luận, vì không đủ cơ sở.
Nông nghiệp hoá thành thị
Năm 1993, Tỉnh uỷ Quảng Nam Đà Nẵng quyết định điều ông từ cương vị Giám đốc Sở Nông nghiệp về làm Chủ tịch thành phố Đà Nẵng (lúc này vẫn thuộc tỉnh). Cả thành phố rộ dư luận: “Ông Lân, ông Được (ông Trương Quang Được- Chủ tịch tỉnh QNĐN lúc này) định nông thôn hoá thành thị đây mà !”. Ông cũng ngần ngại vì quản lý đô thị không phải là “nghề” của mình. Ông ra điều kiện, nếu ông về thì phải chấp nhận 2 việc: Một giao quyền quản lý và sử dụng quỹ đất trên một số công trình để ông “đổi đất lấy hạ tầng”; hai cho phép chuyển công tác hết số cán bộ “tham” nhiều, “mưu” ít của Uỷ ban đi, lấy người mới vào để làm. Lý do vì ngân sách hàng năm của thành phố Đà Nẵng, lúc này chỉ bằng nguồn vốn hoạt động của Công ty vệ sinh TP Hải phòng (anh Nguyễn Trung Dân và Vĩnh Quyền đã có dịp phản ảnh trong bài Thao Thức Đà Nẵng đăng trên Lao Động) và nảy sinh tiêu cực trầm trọng về đất đai ở Đà Nẵng lúc này là do đội ngũ này tham mưu.
Tỉnh đồng ý và ông xin nhận luôn quỹ đất khai thác vệt 25 mét ven đường Bắc –Nam (nay là đường Hàm Nghi), hoàn tất hạ tầng cho đường Nguyễn Văn Linh (đường Đông –tây cũ), tái định cư cho dân sống ven trục lộ này, cùng số nhà chồ trên bàu Vĩnh Trung. Nhờ vậy Đà Nẵng có hai con đường khang trang, mở ra những khu đô thị mới về hướng Tây thành phố; hơn hết hàng trăm hộ dân tại đây hưởng lợi; một đêm trở thành triệu phú nhờ hai trục đường mới này. Sau đó tiếp tục nhiều con đường khác như Đống Đa, Nguyễn Tất Thành… cũng thành công tương tự và hàng vạn hộ dân được hưởng lợi lớn từ sự mở rộng của thành phố về phía Tây, Nam… Đà Nẵng hầu như xoá sạch ổ chuột, tiến đến hoàn thành tiêu chí đầu tiên của chương trình “ba có”- có nhà ở.
Chữ tài, chữ tai đi liền
Con đường Bắc – Nam cũng là “cái hoạ” sau này của ông Nguyễn Bá Thanh. Ngày khánh thành cây cầu Sông Hàn, Giám đốc (GĐ) Công ty Hợp doanh xây lắp P.M.T bị bắt ngay sau khi vừa nhận tấm bằng khen xây cầu Sông Hàn; GĐ, PGĐ Công ty Xây dựng nhà Đà Nẵng cũng bị bắt sau đó. Trong quá trình đi cung, ông T đã khai “chung” cho ông Bá Thanh 4 tỷ đồng, đổi lại để nhận công trình làm đường Bắc- Nam. Đây là số tiền rất lớn lúc bấy giờ. Ông bị kiểm điểm, tường trình lên, xuống trần ai mấy tháng trời. Thậm chí trong dư luận đồn đãi bắt giam ông… May sau việc này được làm rõ ràng. Ông vào Thành uỷ với số phiếu cao nhất trong kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố năm đó.
Nói chuyện cầu Sông Hàn, có một việc liên quan đến tài ứng xử của ông Nguyễn Bá Thanh mà người Đà Nẵng vẫn nhớ. Nguyên trước năm 2000, đời sống kinh tế-xã hội hai bờ Đông- Tây sông Hàn chêch lệch đến mức, từ lâu trong dân gian có câu: “con gái quận 3, không bằng bà già quận 1”. Ông quyết tâm xây dựng cầu Sông Hàn để phát triển phía Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn ngang bằng với các quận trung tâm bên này sông, đồng thời khai thác cả 1 vùng ven biển đầy tiềm năng vẫn ngủ yên hàng trăm năm nay. Thiếu vốn, ông chủ trương kêu gọi nhân dân đóng góp tuỳ lòng hảo tâm, kẻ 500 ngàn, người 1 triệu xây cầu. Riêng gia đình ông góp 30 triệu.
Số tiền đóng góp đó cũng bị không ít người ngờ vực. Trong cuộc họp định kỳ 3 tháng một lần giữa ông với Câu lạc bộ hưu trí Thái Phiên có người đứng lên hỏi rằng: “Ông Thanh lương ba cọc ba đồng, mà tiền đâu ra nhiều vậy ?”. Lác đác có tiếng vỗ tay vì đây là câu hỏi khó. Ông trả lời: “Tiền này từ bán quà người ta biếu tui”. Cả khán phòng đột nhiên lặng như tờ. Ông tiếp tục: “ Khách đến thăm, biếu chai rượu, gói trà chả lẽ trả lại. Như hôm qua, mấy anh Hải Phòng ghé thăm tặng hai chai rượu ngoại. Tôi cũng nhận! giao hết cho nhà khách số 4 (Nhà khách Uỷ ban) giữ, bán thu tiền lập ra cái quỹ. Người dân cơ nhỡ, gặp khó, ban chủ nhiệm cứ lấy tiền bán quà đó mà ủng hộ, sau đó báo lại cho tôi. Hôm nay thành phố cần tôi mang góp chứ có chi không hợp lý đâu ?”. Hội trường vỗ tay nhiệt liệt, không biết vì tấm lòng ông hay tài ứng phó thông tuệ như vậy.
Người bạn của báo chí
Đà Nẵng trực thuộc trung ương năm 1997, ông Nguyễn Bá Thanh được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của thành phố sau ngày chia tách với Quảng Nam. Ông quy định mỗi tháng họp với báo chí một lần; 3 tháng họp với Câu lạc bộ hưu trí Thái Phiên (CLB cán bộ hưu trí trung cao cấp) để nghe và giải đáp các thông tin. Và nhất nhất như vậy cho đến ngày ông chuyển sang đảm nhiệm chức vụ Bí thư Thành uỷ. Có lần trong cuộc họp, không khí căng thẳng vì báo chí phản ảnh về những vướng mắc trật tự đô thị, ông đột nhiên hỏi: “Tui hỏi có ông báo TN mô họp ở đây không ?”. Phía dưới có tiếng trả lời “có đây anh !”. Ông nói luôn: “ Ông viết Đà Nẵng là địa phương nhậu nhất nước, chớ thi hồi mô mà biết nhất, với nhì chớ ?”.
Từ cây cầu thôn Phước Đông
Năm 1981, từ phòng Nông nghiệp huyện Hoà Vang, anh cán bộ trẻ Nguyễn Bá Thanh về nhận nhiệm vụ làm chủ nhiệm Hợp tác xã 2 Hoà Nhơn. Hồi đó trong dân gian nông thôn có câu “Hợp tác, hợp te / không có miếng vải mà che cái …” nói lên nỗi bức xúc, thiếu nghèo của nông dân trong phong trào Hợp tác hoá nông nghiệp. Và vì là chủ nhiệm nên dân cũng chẳng ưa gì ông. Mỗi tháng một lần các chủ nhiệm HTX suốt ngày nghe dân chửi, bêu riếu vì cái vụ “bình công chấm điểm”, chia hoa lợi. Hoà Nhơn lúc này có 3 HTX thì chỉ riêng HTX nơi ông Thanh làm chủ nhiệm thì đời sống dân khá ổn, nhờ “ông chủ nhiệm” sâu sát từng nhà, từng gia đình… nên vụ bình công điểm khá sát đúng. Ai lười nhận ít, ai siêng nhận nhiều, không kêu vào đâu được.
Từ thôn Phước Thới (HTX 2) Hoà Nhơn đi đến trường Tiểu học trong thôn, học sinh phải lội qua một con mương rộng, dòng chảy bất thường, nên năm nào mùa lụt cũng có một hai em sảy chân, chết trôi. Dân kêu làm cầu mãi, nhưng hồi đó làm gì cũng phải chờ “kế hoạch” chẳng biết khi nào có. Đùng cái, một hôm dân Phước Đông thấy nhân công, sắt thép, vật liệu ầm ầm đổ tới.
Ông chủ nhiệm Bá Thanh thì tả xung, hữu đột, hò hét suốt ngày trên công trường. Hỏi ra mới hay, nghe dân “chửi” quá, ông tức khí đón xe đò, một mình mang bản thiết kế tự vẽ ra thấu Hà Nội để kêu. Nhờ những quan hệ học hành trước đó (ông tốt nghiệp kỹ sư của Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội), cây cầu “tự xin” được cho ít sắt thép, xi măng để làm. Thấy không đủ thiếu chi, ông nghĩ ra trò kết nghĩa với Công ty đóng tàu Sông Thu, rồi thò ra cái giấy xin vật liệu làm công. Nhờ vậy vài tháng sau, ngày đầu năm học mới, học sinh Hoà Nhơn được thong dong đi trên cây cầu bê tông đẹp ngất ngây đến trường, mà không phải lội qua con mươngi nguy hiểm đó.
Chính quyền xã đặt tên cầu Phước Đông (địa danh), nhưng sau dân không chịu, mà chỉ gọi là cầu Nguyễn Bá Thanh, như một sự tri ân. Đến nay sửa chữa bao nhiêu lần, dân vùng này vẫn cứ gọi vậy.
Đào giếng, đãi vàng
Năm 1985. Tỉnh uỷ Quảng Nam – Đà Nẵng ra Nghị quyết 25 về vấn đề tăng cường đầu tư nhân tài, vật lực cho miền núi. Chủ nhiệm Nguyễn Bá Thanh lúc này đã là Phó chủ tịch, Thường vụ huyện uỷ trẻ nhất tỉnh, được điều lên làm Giám đốc Nông trường chè Quyết Thắng, đóng chân tại xã 3 huyện Hiên (nay là Đông Giang). Lúc bấy giờ, anh đã nổi tiếng “chịu chơi” vì là vị giám đốc đầu tiên tự lái chiếc xe Jeep trắng chiến lợi phẩm chạy suốt ngày trên các đồi chè.
Kỷ niệm khó quên nhất về anh là câu chuyện cho phép công nhân khai thác vàng sa khoáng trên địa bàn Nông trường. Những năm 1985-1990 vô cùng khó khăn của các đơn vị kinh tế tỉnh QN - ĐN vì chuyển sang hoạt động cơ chế thị trường; khối Liên Xô và Đông Âu lại tan rã nên hàng hoá sản xuất ra không ai mua. Hàng hoá tồn kho và Nông trường Quyết Thắng cũng không ngoại lệ. Mấy trăm công nhân “đói” dài.
Suy nghĩ mãi, ông mới nghĩ ra kế, cho công nhân đi đào đãi vàng sa khoáng để tạm cải thiện đời sống trong thời điểm khó khăn. Ông bảo ngồi trên đống vàng mà bó tay chịu đói là chuyện phi lý. Nói rồi hôm sau ông cho làm luôn. Ông bày cho công nhân âm thầm khoét sâu vào lòng đất, móc vàng sa khoáng ra suối đãi, rồi mang bán. Nhờ vậy đời sống hàng trăm gia đình khá lên thấy rõ.
Lâu ngày việc vỡ lỡ! Đoàn thanh kiểm xác định việc đào đãi vàng của công nhân là do có chủ trương từ Ban giám đốc. Thế nhưng hôm đoàn thanh tra triệu tập cuộc họp thông qua kết luận, bất ngờ ông tưng tửng nói trong cuộc họp: “Đào vàng mô mà đào vàng! Tui cho phép đào giếng lấy nước uống; công nhân đào giếng, gặp phải cục vàng chẳng lẽ mang vứt đi? Họ có lấy bán mua thêm lon gạo, cọng rau thì cũng coi như BGĐ gián tiếp lo cho đời sống, chứ các đồng chí phát hiện ra tôi hay bất kỳ ai trong BGĐ tơ hào một mảy vàng, tui nhận kỷ luật liền”. Đoàn Thanh tra ớ người ra trước lý lẽ “đào giếng” này, và cuối cùng cũng không chốt lại được kết luận, vì không đủ cơ sở.
Nông nghiệp hoá thành thị
Năm 1993, Tỉnh uỷ Quảng Nam Đà Nẵng quyết định điều ông từ cương vị Giám đốc Sở Nông nghiệp về làm Chủ tịch thành phố Đà Nẵng (lúc này vẫn thuộc tỉnh). Cả thành phố rộ dư luận: “Ông Lân, ông Được (ông Trương Quang Được- Chủ tịch tỉnh QNĐN lúc này) định nông thôn hoá thành thị đây mà !”. Ông cũng ngần ngại vì quản lý đô thị không phải là “nghề” của mình. Ông ra điều kiện, nếu ông về thì phải chấp nhận 2 việc: Một giao quyền quản lý và sử dụng quỹ đất trên một số công trình để ông “đổi đất lấy hạ tầng”; hai cho phép chuyển công tác hết số cán bộ “tham” nhiều, “mưu” ít của Uỷ ban đi, lấy người mới vào để làm. Lý do vì ngân sách hàng năm của thành phố Đà Nẵng, lúc này chỉ bằng nguồn vốn hoạt động của Công ty vệ sinh TP Hải phòng (anh Nguyễn Trung Dân và Vĩnh Quyền đã có dịp phản ảnh trong bài Thao Thức Đà Nẵng đăng trên Lao Động) và nảy sinh tiêu cực trầm trọng về đất đai ở Đà Nẵng lúc này là do đội ngũ này tham mưu.
Tỉnh đồng ý và ông xin nhận luôn quỹ đất khai thác vệt 25 mét ven đường Bắc –Nam (nay là đường Hàm Nghi), hoàn tất hạ tầng cho đường Nguyễn Văn Linh (đường Đông –tây cũ), tái định cư cho dân sống ven trục lộ này, cùng số nhà chồ trên bàu Vĩnh Trung. Nhờ vậy Đà Nẵng có hai con đường khang trang, mở ra những khu đô thị mới về hướng Tây thành phố; hơn hết hàng trăm hộ dân tại đây hưởng lợi; một đêm trở thành triệu phú nhờ hai trục đường mới này. Sau đó tiếp tục nhiều con đường khác như Đống Đa, Nguyễn Tất Thành… cũng thành công tương tự và hàng vạn hộ dân được hưởng lợi lớn từ sự mở rộng của thành phố về phía Tây, Nam… Đà Nẵng hầu như xoá sạch ổ chuột, tiến đến hoàn thành tiêu chí đầu tiên của chương trình “ba có”- có nhà ở.
Chữ tài, chữ tai đi liền
Con đường Bắc – Nam cũng là “cái hoạ” sau này của ông Nguyễn Bá Thanh. Ngày khánh thành cây cầu Sông Hàn, Giám đốc (GĐ) Công ty Hợp doanh xây lắp P.M.T bị bắt ngay sau khi vừa nhận tấm bằng khen xây cầu Sông Hàn; GĐ, PGĐ Công ty Xây dựng nhà Đà Nẵng cũng bị bắt sau đó. Trong quá trình đi cung, ông T đã khai “chung” cho ông Bá Thanh 4 tỷ đồng, đổi lại để nhận công trình làm đường Bắc- Nam. Đây là số tiền rất lớn lúc bấy giờ. Ông bị kiểm điểm, tường trình lên, xuống trần ai mấy tháng trời. Thậm chí trong dư luận đồn đãi bắt giam ông… May sau việc này được làm rõ ràng. Ông vào Thành uỷ với số phiếu cao nhất trong kỳ Đại hội Đảng bộ thành phố năm đó.
Nói chuyện cầu Sông Hàn, có một việc liên quan đến tài ứng xử của ông Nguyễn Bá Thanh mà người Đà Nẵng vẫn nhớ. Nguyên trước năm 2000, đời sống kinh tế-xã hội hai bờ Đông- Tây sông Hàn chêch lệch đến mức, từ lâu trong dân gian có câu: “con gái quận 3, không bằng bà già quận 1”. Ông quyết tâm xây dựng cầu Sông Hàn để phát triển phía Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn ngang bằng với các quận trung tâm bên này sông, đồng thời khai thác cả 1 vùng ven biển đầy tiềm năng vẫn ngủ yên hàng trăm năm nay. Thiếu vốn, ông chủ trương kêu gọi nhân dân đóng góp tuỳ lòng hảo tâm, kẻ 500 ngàn, người 1 triệu xây cầu. Riêng gia đình ông góp 30 triệu.
Số tiền đóng góp đó cũng bị không ít người ngờ vực. Trong cuộc họp định kỳ 3 tháng một lần giữa ông với Câu lạc bộ hưu trí Thái Phiên có người đứng lên hỏi rằng: “Ông Thanh lương ba cọc ba đồng, mà tiền đâu ra nhiều vậy ?”. Lác đác có tiếng vỗ tay vì đây là câu hỏi khó. Ông trả lời: “Tiền này từ bán quà người ta biếu tui”. Cả khán phòng đột nhiên lặng như tờ. Ông tiếp tục: “ Khách đến thăm, biếu chai rượu, gói trà chả lẽ trả lại. Như hôm qua, mấy anh Hải Phòng ghé thăm tặng hai chai rượu ngoại. Tôi cũng nhận! giao hết cho nhà khách số 4 (Nhà khách Uỷ ban) giữ, bán thu tiền lập ra cái quỹ. Người dân cơ nhỡ, gặp khó, ban chủ nhiệm cứ lấy tiền bán quà đó mà ủng hộ, sau đó báo lại cho tôi. Hôm nay thành phố cần tôi mang góp chứ có chi không hợp lý đâu ?”. Hội trường vỗ tay nhiệt liệt, không biết vì tấm lòng ông hay tài ứng phó thông tuệ như vậy.
Người bạn của báo chí
Đà Nẵng trực thuộc trung ương năm 1997, ông Nguyễn Bá Thanh được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của thành phố sau ngày chia tách với Quảng Nam. Ông quy định mỗi tháng họp với báo chí một lần; 3 tháng họp với Câu lạc bộ hưu trí Thái Phiên (CLB cán bộ hưu trí trung cao cấp) để nghe và giải đáp các thông tin. Và nhất nhất như vậy cho đến ngày ông chuyển sang đảm nhiệm chức vụ Bí thư Thành uỷ. Có lần trong cuộc họp, không khí căng thẳng vì báo chí phản ảnh về những vướng mắc trật tự đô thị, ông đột nhiên hỏi: “Tui hỏi có ông báo TN mô họp ở đây không ?”. Phía dưới có tiếng trả lời “có đây anh !”. Ông nói luôn: “ Ông viết Đà Nẵng là địa phương nhậu nhất nước, chớ thi hồi mô mà biết nhất, với nhì chớ ?”.
Và tiếng cười vang lên với cách hỏi ngược ngộ nghĩnh như vậy; không khí cuộc họp đang nghiêm túc bỗng dưng mềm hẳn ra và trở nên cởi mở hơn nhiều. Hơn 70 cơ quan thông tấn báo chí địa phương, Trung ương trên địa bàn Đà Nẵng đều mong cuộc họp mỗi tháng này. Với ông Thanh, đây là nguồn thông tin hết sức quan trọng để góp phần điều chỉnh các chính sách, chủ trương sát hợp, đồng thời tạo ra sự thông hiểu giữa giới báo chí và công việc của chính quyền địa phương... Với báo chí thì đây là cách giải quyết các vấn đề khúc mắc nhanh nhất, vì sau mỗi ý kiến phát biểu, ngay lập tức các ban ngành cùng dự họp triển khai kiểm tra, khắc phục hay trả lời tại chỗ để giải đáp, đi đến thống nhất quan điểm xử sự…
Cây cầu là công trình mỹ thuật
Đà Nẵng thông qua quy hoạch một lúc bắc 9 cây cầu qua sông Hàn. Ngươi dân xôn xao tự hỏi, bắc làm gì mà nhiều thế? Còn chi dòng sông? Rồi đến Hội đồng nhân dân chất vấn, ông đứng lên giải thích: “Đây không phải là công trình giao thông. Nó sẽ là những kiến trúc mỹ thuật. Ông dẫn chứng tỷ lệ cầu trên dòng sông Hàn ở Seoul Hàn Quốc và những cây cầu qua sông Thames, thủ đô London -Anh Quốc… Và những cây cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cầu Thuận Phước với dáng vẻ khác lạ đã lần lượt ra đời trong ý tưởng này. Cầu Rồng hiện là công trình giao thông có một không hai ở Việt Nam hiện nay. Nhiều khách du lịch mong tới Đà Nẵng để một lần chiêm ngắm cầu Rồng, tận mắt chứng kiến nó phun lửa, phun nước thế nào.
Đặc biệt với cầu Rồng được đặt gần bảo tàng Chăm, trước Đài Truyền hình Đà Nẵng, dư luận ồn ào lên tiếng. Hàng chục bài báo phản bác kịch liệt… vì cho rằng, Di tích lịch sử Bảo tàng Chăm sẽ nằm dưới gầm cầu. Ông mời một công ty tư vấn của Mỹ, tìm giải pháp xây dựng cây cầu bảo đảm mỹ thuật, phù hợp với phối cảnh không gian di tích lịch sử bảo tàng. Các nhà tư vấn đã hạ cốt cầu xuống zero, ngang với mặt đường, đồng thời tạo không gian làm Bảo tàng Chăm trở nên nổi bật trong phối cảnh. Đây là công trình cuối cùng ông làm trước khi ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới.
Dân tin yêu
Hai nhiệm kỳ chủ tịch, hai nhiệm kỳ bí thư, với hơn 15 năm chỉnh trang thành phố, hơn 1/3 trong số 80 vạn dân Đà Nẵng phải thay đổi, chuyển đến nơi ở mới, nhưng chỉ có mươi trường hợp khiếu kiện kéo dài đã là một công trình thành công khó nơi nào bì được. Trong những năm công tác ở Đà Nẵng, ông còn là tác giả của hàng trăm chủ trương, chính sách “không giống ai”, nhưng sau này lại là hình mẫu để các thành phố khác học tập như, xây dựng trung tâm bảo trợ để nuôi người ăn xin, lang thang cơ nhỡ nhằm thành phố vắng bóng ăn xin; hạn chế người không việc làm, không có nhà ở từ các địa phương khác nhập cư vào khu vực trung tâm; hay chính sách dưỡng liêm cho cán bộ các cơ quan pháp luật, tịch thu xe máy, sung quỹ các phương tiện đua xe trái phép…
Hơn hết ông còn gieo vào người dân Đà Nẵng lòng tự hào quê hương, để từ đó từ người trẻ đến các bậc lão niên biết điều chỉnh hành vi xứng với mỹ danh “Thành phố đáng sống”.
Những ngày này, thông tin chính thức cho biết ông bị suy tuỷ, sức khoẻ suy kiệt, nhiều người bất chấp mưa phùn, gió bấc ra sân bay đón ông từ Mỹ về điều trị trên quê hương. Đã có nhiều người xin đăng ký hiến tuỷ để chia sẻ với nỗi đau bệnh tật cùng ông. Với người dân Đà Nẵng, ông không phải là hình tượng để vinh danh, mà đó là hình ảnh thân quen, gần gũi và thật yên tâm khi có ông bên cạnh, trong công cuộc xây dựng mảnh đất quê hương mỗi ngày giàu đẹp hơn, ấm áp tình người hơn.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét