ĐỖ Hoàng
Lts: Nhóm rượu chúng tôi gồm có tôi, Nhà văn Lê Sơn, nhà văn Vũ Nho, nhà thơ Trần Hậu, nhà văn Lã Thanh Tùng…thường hay kéo ra quán Bà Tình ở đường Đại Cồ Việt gần trụ sở bộ Giáo Dục, hay quán đậu phụ mắm tôm đường Triệu Việt Vương, các quán có rượu có lòng lợn nhâm nhi.
Hôm vừa qua đến lượt nhà văn Vũ Nho chịu chi. Vũ Nho vừa viết cho bạn mình đồng tiến sỹ Ấn tượng Mã Giang Lân in trên báo mạng và in cả tạp chí Thơ. Tôi nói vui: – Mà Giang Lân hai lần dùng vé giả đi tàu thơ. Vũ Nho cười hết cỡ, tiếp: – Không phải, anh ta đi lậu vé.
Đi lậu vé cũng rất hay. Không phải chi Mã Giang Lân mà rất nhiều người đi lậu vé.
Tôi gật đầu đồng ý và giữ lý mình: – Lậu vé cũng ông nội, ông cố vé giả.
Thơ Mã Giang Lân từ lâu mọi người quên khuấy rồi, không mấy ai biết đến ông, dù cả trong văn giới. Vừa rồi Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải cho cuốn Những lớp sóng ngôn từ nên mới xôm trò. Người ta lại tìm Mã Giang Lân để đọc.
Hơn 40 năm trước, Mã Giang Lân được giải ba báo Văn Nghệ năm 1969 – 1970 vơi bài thơ Trụ cầu Hàm Rồng. Đó là bài thơ thuộc dòng tuyên truyên cổ động viên trong thời chiến chống Mỹ, nó thấp thơ cổ động viên của Phạm Tiến Duật tới vạn lần.- Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất năm đó. Phạm Tiến Duật tuy nằm ở hậu phương nhưng vẫn có mác bộ đội Trường Sơn. Còn Mã Giang Lân là anh sơvin chay, như nhiều người khác ở trong hầm, ngủ trên giường, ngoài hậu phương hô hào đánh giặc.
Bài Trụ cầu Hàm Rồng là một bài rất kém thi pháp – nghệ thuật thơ, nó còn thua xa bài về Rau má phá đường tàu Thanh Hóa. Bài vè Rau má còn được các nhà giáo dạy ở trường Nguyễn Ái Quốc trước đây (nay là học viện Hồ Chí Minh) làm dẫn chứng cho bài học Logic học hoặc các phép quy nạp, diễn dịch…
Cái cầu con gọi là cầu bố
Mấy cây lô nhố mà gọi là rừng…
Bài Trụ cầu Hàm Rồng ca ngợi một chiều, nói lấy được.
Tru cầu Hàm Rồng
Đạn hai mươi ly bắn thủng xi măng
Bom tấn ép bẻ cong cột sắt
Tên lửa nổ thép già thành nước
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
Tinh mơ giặc ném bom
Tên lửa tầm xa phóng vội
Không ngày nào bọn cướp trời không tới
Không đêm nào bình yên
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
In xuống dòng sông
Là màu đỏ lá cờ
Như mặt trời mới mọc
Là lửa hàn nở trên từng thanh sắt
Những nụ cười công nhân
Những khẩu pháo phòng không
Một niềm đợi giặc
Các chiến sĩ cất cao tiếng hát
Mênh mông
In xuống dòng sông
Là những đoàn tàu vận tải
Những đoàn xe chuyên cần nhẫn nại
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
Trụ cầu ung dung đứng đó
Bọn giặc lái bị bắt qua đây cúi đầu run sợ
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
1969
Bài thơ trên đã được nhận giải ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ (1969-1970)
Nguồn: Về một cây cầu, NXB Hội nhà văn, 2010.
Mã Giang Lân là giáo sư văn học mà không hề học cách nói của ông cha về nghệ thuật thơ ca – nói một hay mười:
Ước gì sông rộng tày gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi
(Ca dao)
Trụ cầu Hàm Rồng vừa giả tứ, giả tình, vừa tuyên truyền nặng nề, ca ngợi khập khiễng. Nó là một thứ thơ gượng, giả, sến, sơ sài…nở rộ trong chiến tranh chống Mỹ.
Mã Giang Lân đã cầm cái vé giả này lên tàu Thơ và ngồi yên ôn ba bốn chục năm nay.
Trụ cầu bằng sắt thép xí măng thì bom Mỹ không phá được là lẽ đương nhiên, việc không cần phải bàn.Trụ cầu dải yếm, trụ cầu quần lót, trụ cầu rau má Mỹ không phá nỗi Thanh Hóa, Việt Nam mới là thần thánh!
Nếu Trụ cầu Hàm Rồng có thể viết như thế này thì dễ thuyết phục hơn:
Hàm Rồng con gái đảm đang
Trụ cầu dải yếm trói chàng Giôn xơn
Hàm Rồng con gái căm hờn
Trụ cầu quần lót mồ chôn Huê Kỳ
Hàm Rồng phụ nữ gan lỳ
Trụ cầu Rau Má mãi ghi sử vàng!
Sau đó Mà Giang Lân viết nhiều về quê mình nhưng đều là cách viết của người đứng ngoài cuộc nhìn vào với cái nhìn cũng không ra tình cảm, cũng không ra nhạt nhẽo với nhiều kiểu viết không thuyết phục, có thể là nhiều người không tin được:
Tôi thao thức trong ngôi nhà đang thao thức
Cánh đồng vụ gặt
Bàn tay tôi còn đậm hơi bùn
(Mùa trăng trong tập Một tình yêu như thế)
Chưa nói đến những câu trên kia không phải thơ, những câu nói quá bình thường, không nói là tầm thường. Mà cách nói vống lên không ai tin được.
Anh có thao thức thật không? Bằng chứng nào cho biết anh thao thức thật?
Bàn tay anh còn đậm hơi bùn thật không? Bằng chứng đâu? Ảnh hoặc dầu vân tay?
Một ông Mỹ ở bên Mỹ có thể viết những câu như thế. Một người học tiếng Anh 5 tiết có thể viết như thế.
Sau khi viết những câu thơ mà người nước ngoài học một tiết tiếng Việt làm thơ Việt thì Mã Giang Lân lại viết những câu dài ngoằng, dài ngoẳng (câu trên dưới 14 từ) như cái lúc lắc của con trâu đi lỉa gỗ mấy ngày trong rừng cứ tè ra không dứt.
Bội thu những trận mưa tầm tã đêm qua
Bội thu những ngày chói chang không một làn mây không một ngọn gió
Bội thu những cánh đồng khô cằn đòng đòng lấp lóa
Bội thu những tiếng cười héo hắt chiều hôm
(Gọi mùa màng)
Bội thu người ta thường dung chi cánh đồng lúa được mùa, quá nữa thì bội thu tiếng cười, bội thu niềm vui, chứ ai lại đi viết bội thu những trận mưa tầm tã, bội thu tiếng cười héo hắt chiều hôm. Viết đã không có tí gì gọi là chất thơ, lại rất phản cảm, vừa vô tình hỡi ai, vừa lạnh nhạt, vừa không đúng văn chương, văn cảnh chút nào.
Mà Giang Lân cố viết mới không ra mới, cố hiện đại không ra hiện đại và khi viết cũ thì eo ôi cũ như hoang mạc trái đất:
mới sớm ra chợt giật mình
chợt mây, chợt gió, chợt thình lình thu
(Thu năm 2013) – In trên tạp chí Thơ số 1&2 năm 2014
Trong viết lục bát duùg từ láy là một nghệ thuật, gieo vần chữ đầu từ láy cũng nâng lên một bước nghệ thuật. Dùng lưu lượng vừa phải thì hay, dùng nhiều thì nó thành xiếc chữ. Việc này không mới. Trong Sơ kinh tân trang của Phạm Thái và trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, hai cụ đều dùng nhưng dùng rất ít:
Buồng không lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
3254 câu lục bát mà Nguyễn Du chỉ dùng độ một hai lần.
Bài Thu của Mã Giang Lân chỉ 16 câu lục bát mà dùng đến gần hết lượt:
bây giờ đăm đắm một điều
còn bao thu nữa có nhiều nhặn không…
(Thơ đã dẫn)
*
Tôi gặp nhà thơ Mã Giang Lân hai lần, một lần tham dự cuộc bào về luận án tiến sỹ của một nghiên cứu sinh. Ông ngồi trên ghế người chấm điếm. Tôi nhớ trên ghế ấy có Hà Minh Đức, Phương Lưu nữa . Một luận án tiến sỹ không phải Giấy mà là Tiến sỹ Bò đúng nghĩa. Các giáo sư lừng danh đều cho điểm 9 và 10 giống như các giám khảo cho điểm Bước nhảy Hoàn vũ hôm nay vậy(!)
Thời ấy giáo viên, giáo sư gì cũng khó khăn, thôi thì một cách làm thêm không đến nỗi tội tàn. Nhưng thật tội tàn là cái anh Tiến sỹ Bò ầy được cất nhắc nhờ có tầm vế giả Tiến sỹ ấy vào cơ quan lãnh đạo Văn học. Không nói thì cũng biết rồi! Cũng như bên thơ, có nhiều kẻ làm phi thơ ca đoạt được giải thơ được bổ sung vào cơ quan quản lý văn nghệ thì nguy hại không thua các tiến sỹ bò bên thầy Lân!
Lần thư hai tôi gặp Giáo sư Mã Giang Lân ở một cuộc hội thảo văn học nào đó. Ông nói với tôi và một vài nhà thơ đứng quanh:
- Mình làm mảng thơ hiện đại, các anh có thơ gửi cho mình kẻo mình không tìm đọc hết được.
Tôi rất cảm kích lời nói của ông.
Và tôi quan sát ông trong khoảng đứng rất gần. Giáo sư Lân vóc người gọn nhỏ, hơi mảnh khảnh. Gương mặt hiền lành, có tâm. Ở ông toát lên sự đức độ, khiêm nhường của một nhà thơ và một người làm nghiên cứu khoa học giáo dục. Nhiều người dạy học lâu năm hoặc ở ngành giáo dục đều có dáng dấp này!
Tôi quên khuấy đi không gửi thơ cho ông. Sau đó đọc trên tạp chí Thơ của Hội Nhà văn thấy ông khen nhiều người nhưng tôi không thích ông khen một câu thơ không ra thơ, tế không ra tế, phú chẳng là phú của một tác giả nữ. Thôi khen chê thi muôn vẻ, thích thì khen, không thích thì chê, nhưng phải đúng. Câu thơ không phải thơ mà khen thì nguy hại vô cùng.
Ông khen như vậy nên ông mới viết Những lớp sóng ngôn từ như vậy.
Tập thơ của ông không thể gọi là thơ, nó là một loại Vô lối – phi thơ ca đang thịnh hành chúng ta nên bỏ quên trên văn đàn và trong trí nhớ. Mã Giang Lân đã vô tình hoặc không vô tình hai lần dùng vé giả đi tàu Thơ.
Hà Nội, ngày 5 -4 -2014
Đ -H
Hôm vừa qua đến lượt nhà văn Vũ Nho chịu chi. Vũ Nho vừa viết cho bạn mình đồng tiến sỹ Ấn tượng Mã Giang Lân in trên báo mạng và in cả tạp chí Thơ. Tôi nói vui: – Mà Giang Lân hai lần dùng vé giả đi tàu thơ. Vũ Nho cười hết cỡ, tiếp: – Không phải, anh ta đi lậu vé.
Đi lậu vé cũng rất hay. Không phải chi Mã Giang Lân mà rất nhiều người đi lậu vé.
Tôi gật đầu đồng ý và giữ lý mình: – Lậu vé cũng ông nội, ông cố vé giả.
Thơ Mã Giang Lân từ lâu mọi người quên khuấy rồi, không mấy ai biết đến ông, dù cả trong văn giới. Vừa rồi Hội Nhà văn Việt Nam tặng giải cho cuốn Những lớp sóng ngôn từ nên mới xôm trò. Người ta lại tìm Mã Giang Lân để đọc.
Hơn 40 năm trước, Mã Giang Lân được giải ba báo Văn Nghệ năm 1969 – 1970 vơi bài thơ Trụ cầu Hàm Rồng. Đó là bài thơ thuộc dòng tuyên truyên cổ động viên trong thời chiến chống Mỹ, nó thấp thơ cổ động viên của Phạm Tiến Duật tới vạn lần.- Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất năm đó. Phạm Tiến Duật tuy nằm ở hậu phương nhưng vẫn có mác bộ đội Trường Sơn. Còn Mã Giang Lân là anh sơvin chay, như nhiều người khác ở trong hầm, ngủ trên giường, ngoài hậu phương hô hào đánh giặc.
Bài Trụ cầu Hàm Rồng là một bài rất kém thi pháp – nghệ thuật thơ, nó còn thua xa bài về Rau má phá đường tàu Thanh Hóa. Bài vè Rau má còn được các nhà giáo dạy ở trường Nguyễn Ái Quốc trước đây (nay là học viện Hồ Chí Minh) làm dẫn chứng cho bài học Logic học hoặc các phép quy nạp, diễn dịch…
Cái cầu con gọi là cầu bố
Mấy cây lô nhố mà gọi là rừng…
Bài Trụ cầu Hàm Rồng ca ngợi một chiều, nói lấy được.
Tru cầu Hàm Rồng
Đạn hai mươi ly bắn thủng xi măng
Bom tấn ép bẻ cong cột sắt
Tên lửa nổ thép già thành nước
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
Tinh mơ giặc ném bom
Tên lửa tầm xa phóng vội
Không ngày nào bọn cướp trời không tới
Không đêm nào bình yên
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
In xuống dòng sông
Là màu đỏ lá cờ
Như mặt trời mới mọc
Là lửa hàn nở trên từng thanh sắt
Những nụ cười công nhân
Những khẩu pháo phòng không
Một niềm đợi giặc
Các chiến sĩ cất cao tiếng hát
Mênh mông
In xuống dòng sông
Là những đoàn tàu vận tải
Những đoàn xe chuyên cần nhẫn nại
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
Trụ cầu ung dung đứng đó
Bọn giặc lái bị bắt qua đây cúi đầu run sợ
Cứ thế suốt bốn năm
Trụ cầu Hàm Rồng chỉ làm bằng cốt sắt xi măng
1969
Bài thơ trên đã được nhận giải ba cuộc thi thơ báo Văn nghệ (1969-1970)
Nguồn: Về một cây cầu, NXB Hội nhà văn, 2010.
Mã Giang Lân là giáo sư văn học mà không hề học cách nói của ông cha về nghệ thuật thơ ca – nói một hay mười:
Ước gì sông rộng tày gang
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi
(Ca dao)
Trụ cầu Hàm Rồng vừa giả tứ, giả tình, vừa tuyên truyền nặng nề, ca ngợi khập khiễng. Nó là một thứ thơ gượng, giả, sến, sơ sài…nở rộ trong chiến tranh chống Mỹ.
Mã Giang Lân đã cầm cái vé giả này lên tàu Thơ và ngồi yên ôn ba bốn chục năm nay.
Trụ cầu bằng sắt thép xí măng thì bom Mỹ không phá được là lẽ đương nhiên, việc không cần phải bàn.Trụ cầu dải yếm, trụ cầu quần lót, trụ cầu rau má Mỹ không phá nỗi Thanh Hóa, Việt Nam mới là thần thánh!
Nếu Trụ cầu Hàm Rồng có thể viết như thế này thì dễ thuyết phục hơn:
Hàm Rồng con gái đảm đang
Trụ cầu dải yếm trói chàng Giôn xơn
Hàm Rồng con gái căm hờn
Trụ cầu quần lót mồ chôn Huê Kỳ
Hàm Rồng phụ nữ gan lỳ
Trụ cầu Rau Má mãi ghi sử vàng!
Sau đó Mà Giang Lân viết nhiều về quê mình nhưng đều là cách viết của người đứng ngoài cuộc nhìn vào với cái nhìn cũng không ra tình cảm, cũng không ra nhạt nhẽo với nhiều kiểu viết không thuyết phục, có thể là nhiều người không tin được:
Tôi thao thức trong ngôi nhà đang thao thức
Cánh đồng vụ gặt
Bàn tay tôi còn đậm hơi bùn
(Mùa trăng trong tập Một tình yêu như thế)
Chưa nói đến những câu trên kia không phải thơ, những câu nói quá bình thường, không nói là tầm thường. Mà cách nói vống lên không ai tin được.
Anh có thao thức thật không? Bằng chứng nào cho biết anh thao thức thật?
Bàn tay anh còn đậm hơi bùn thật không? Bằng chứng đâu? Ảnh hoặc dầu vân tay?
Một ông Mỹ ở bên Mỹ có thể viết những câu như thế. Một người học tiếng Anh 5 tiết có thể viết như thế.
Sau khi viết những câu thơ mà người nước ngoài học một tiết tiếng Việt làm thơ Việt thì Mã Giang Lân lại viết những câu dài ngoằng, dài ngoẳng (câu trên dưới 14 từ) như cái lúc lắc của con trâu đi lỉa gỗ mấy ngày trong rừng cứ tè ra không dứt.
Bội thu những trận mưa tầm tã đêm qua
Bội thu những ngày chói chang không một làn mây không một ngọn gió
Bội thu những cánh đồng khô cằn đòng đòng lấp lóa
Bội thu những tiếng cười héo hắt chiều hôm
(Gọi mùa màng)
Bội thu người ta thường dung chi cánh đồng lúa được mùa, quá nữa thì bội thu tiếng cười, bội thu niềm vui, chứ ai lại đi viết bội thu những trận mưa tầm tã, bội thu tiếng cười héo hắt chiều hôm. Viết đã không có tí gì gọi là chất thơ, lại rất phản cảm, vừa vô tình hỡi ai, vừa lạnh nhạt, vừa không đúng văn chương, văn cảnh chút nào.
Mà Giang Lân cố viết mới không ra mới, cố hiện đại không ra hiện đại và khi viết cũ thì eo ôi cũ như hoang mạc trái đất:
mới sớm ra chợt giật mình
chợt mây, chợt gió, chợt thình lình thu
(Thu năm 2013) – In trên tạp chí Thơ số 1&2 năm 2014
Trong viết lục bát duùg từ láy là một nghệ thuật, gieo vần chữ đầu từ láy cũng nâng lên một bước nghệ thuật. Dùng lưu lượng vừa phải thì hay, dùng nhiều thì nó thành xiếc chữ. Việc này không mới. Trong Sơ kinh tân trang của Phạm Thái và trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, hai cụ đều dùng nhưng dùng rất ít:
Buồng không lặng ngắt như tờ
Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh
(Đoạn trường tân thanh – Nguyễn Du)
3254 câu lục bát mà Nguyễn Du chỉ dùng độ một hai lần.
Bài Thu của Mã Giang Lân chỉ 16 câu lục bát mà dùng đến gần hết lượt:
bây giờ đăm đắm một điều
còn bao thu nữa có nhiều nhặn không…
(Thơ đã dẫn)
*
Tôi gặp nhà thơ Mã Giang Lân hai lần, một lần tham dự cuộc bào về luận án tiến sỹ của một nghiên cứu sinh. Ông ngồi trên ghế người chấm điếm. Tôi nhớ trên ghế ấy có Hà Minh Đức, Phương Lưu nữa . Một luận án tiến sỹ không phải Giấy mà là Tiến sỹ Bò đúng nghĩa. Các giáo sư lừng danh đều cho điểm 9 và 10 giống như các giám khảo cho điểm Bước nhảy Hoàn vũ hôm nay vậy(!)
Thời ấy giáo viên, giáo sư gì cũng khó khăn, thôi thì một cách làm thêm không đến nỗi tội tàn. Nhưng thật tội tàn là cái anh Tiến sỹ Bò ầy được cất nhắc nhờ có tầm vế giả Tiến sỹ ấy vào cơ quan lãnh đạo Văn học. Không nói thì cũng biết rồi! Cũng như bên thơ, có nhiều kẻ làm phi thơ ca đoạt được giải thơ được bổ sung vào cơ quan quản lý văn nghệ thì nguy hại không thua các tiến sỹ bò bên thầy Lân!
Lần thư hai tôi gặp Giáo sư Mã Giang Lân ở một cuộc hội thảo văn học nào đó. Ông nói với tôi và một vài nhà thơ đứng quanh:
- Mình làm mảng thơ hiện đại, các anh có thơ gửi cho mình kẻo mình không tìm đọc hết được.
Tôi rất cảm kích lời nói của ông.
Và tôi quan sát ông trong khoảng đứng rất gần. Giáo sư Lân vóc người gọn nhỏ, hơi mảnh khảnh. Gương mặt hiền lành, có tâm. Ở ông toát lên sự đức độ, khiêm nhường của một nhà thơ và một người làm nghiên cứu khoa học giáo dục. Nhiều người dạy học lâu năm hoặc ở ngành giáo dục đều có dáng dấp này!
Tôi quên khuấy đi không gửi thơ cho ông. Sau đó đọc trên tạp chí Thơ của Hội Nhà văn thấy ông khen nhiều người nhưng tôi không thích ông khen một câu thơ không ra thơ, tế không ra tế, phú chẳng là phú của một tác giả nữ. Thôi khen chê thi muôn vẻ, thích thì khen, không thích thì chê, nhưng phải đúng. Câu thơ không phải thơ mà khen thì nguy hại vô cùng.
Ông khen như vậy nên ông mới viết Những lớp sóng ngôn từ như vậy.
Tập thơ của ông không thể gọi là thơ, nó là một loại Vô lối – phi thơ ca đang thịnh hành chúng ta nên bỏ quên trên văn đàn và trong trí nhớ. Mã Giang Lân đã vô tình hoặc không vô tình hai lần dùng vé giả đi tàu Thơ.
Hà Nội, ngày 5 -4 -2014
Đ -H
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét