TTO - Nhận định từ năm 1975 đến nay, VN đã hai lần đánh mất thời cơ và không nên để mất thời cơ thứ 3 sắp tới, GS Trần Văn Thọ đã có bài viết gửi riêng cho Tuổi Trẻ nhân dịp kỷ niệm 45 năm thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn tới, nên đưa ra khẩu hiệu "chống tụt hậu như chống giặc" và cả nước quyết tâm đuổi kịp các nước đi trước.
GS Trần Văn Thọ
1 Cuối năm 1975, tại số đặc biệt đón xuân 1976, tạp chí Economisuto của Nhật đăng chân dung của 7-8 nhà lãnh đạo trên thế giới với phụ chú: Đây là những nhà lãnh đạo mà hành động và phát ngôn của họ sẽ làm thay đổi thế giới trong giai đoạn mới. Hình được chọn có tổng thống Mỹ, Pháp, thủ tướng Nhật, Anh, Tây Đức và Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Điều này nói lên uy tín và kỳ vọng về một VN mới sau khi có hòa bình và thống nhất. Khi đó dân số VN khoảng 47 triệu, là nước nông nghiệp vừa ra khỏi chiến tranh. Nhưng ý chí vượt khó và bản tính hiếu học của người VN, tài tổ chức, lãnh đạo của những người cầm quyền, vị trí địa chính trị... cho thấy triển vọng một nước VN tầm cỡ ở châu Á.
Tuy nhiên rất tiếc ta đã chọn chiến lược, chính sách sai và để mất thời cơ, đất nước lâm vào nguy cơ suốt hơn một thập niên sau đó.
2 Cuối năm 1986, VN đổi mới. Nhưng sự khó khăn của giai đoạn chuyển tiếp cộng với hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi, VN phải mất thêm 6-7 năm nữa mới được thế giới chú ý. Giữa thập niên 1990, lần thứ hai sau ngày 30-4-1975, VN lại trở thành một ngôi sao đang lên ở châu Á. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng, các nước tiên tiến và các tổ chức quốc tế nối lại viện trợ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN...
Kỳ vọng về một nước VN phát triển lên rất cao. Sống tại Nhật Bản những ngày đó tôi thấy rất rõ. Hồi đó dòng thác FDI tại Á châu do Nhật chủ đạo. VN được xem là điểm đến nhiều triển vọng. Nhiều người nhận định VN sẽ trở thành một nước phát triển mới. Tôi cũng mơ như thế.
Nhưng rất tiếc giấc mơ không thành. Từ cuối năm 1996 thế giới không còn đánh giá cao môi trường đầu tư của VN khi những yếu kém về chiến lược, chính sách kinh tế và quản lý hành chính bộc lộ rõ. Doanh nghiệp (DN) quốc doanh được ưu tiên và chưa thoát ra khỏi các định kiến về DN tư nhân và FDI. Cơ chế, thủ tục hành chính quá phức tạp. Do đó, làn sóng mới FDI từ Nhật không đến VN mà chảy sang các tỉnh ven biển Trung Quốc.
3 Từ khoảng năm 2000 những cải cách liên quan DN tư nhân và DN FDI có tiến triển. Nhưng giai đoạn hậu WTO, các luồng tư bản nước ngoài vào quá tự do và với các hiệp định thương mại tự do, hàng công nghiệp nước ngoài tràn vào nhiều trong khi nội lực chưa được củng cố. Đặc biệt DN tư nhân trong nước vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn và đất, nhất là DN nhỏ và vừa.
Do thiếu chiến lược, chính sách tích cực để định hướng dòng chảy FDI và nuôi dưỡng DN trong nước nên hiện nay, cơ cấu kinh tế VN tồn tại nhiều vấn đề phải giải quyết. Chẳng hạn, nhiều dự án FDI chất lượng xấu, thiếu liên kết giữa FDI và DN trong nước, công nghiệp còn chủ yếu là lắp ráp và phụ thuộc nhiều đầu vào từ Trung Quốc.
4 Đã 45 năm sau ngày 30-4-1975 hoặc gần 35 năm sau đổi mới là một thời gian rất dài.
Vào năm 1952 Nhật là nước có thu nhập trung bình thấp. Chỉ 15 năm sau tiến lên nước thu nhập trung bình cao và thêm 13 năm nữa trở thành cường quốc kinh tế. Dĩ nhiên Nhật đã có tích lũy về vốn thể chế, về nguồn nhân lực từ thời Minh Trị. Nhưng điều kiện để các nguồn lực phát huy nhanh là nhờ năng lực và khát vọng của lãnh đạo biết chớp thời cơ trong giai đoạn mới. Hàn Quốc và Đài Loan cũng thắng lợi trong cuộc chạy đua với thời gian. Hàn Quốc chỉ mất 16 năm (từ 1971 - 1987) để chuyển từ nước thu nhập trung bình thấp lên trung bình cao và chỉ mất thêm 10 năm nữa để tiến lên hàng các nước tiên tiến.
Tại sao VN đi chậm? Đó là vì từ năm 1975 đến nay, ta đã hai lần đánh mất thời cơ.
Nghiên cứu bài học ứng phó COVID-19 cho xây dựng đất nước
Khi các nước còn đang khó khăn chống chọi với dịch, VN đã thành công trong việc ngăn ngừa sự lây lan của dịch, nhờ sự quyết tâm, nỗ lực của Nhà nước, sự tận tâm, hi sinh của những người phục vụ trong hệ thống y tế và sự hợp tác, tương tác của các tầng lớp dân chúng.
Thế giới đang bàn luận sôi nổi về sự thành công này. Ta cũng sẽ nghiên cứu thêm để rút ra bài học cho chiến lược xây dựng đất nước trong thời gian tới.
5 Thời đại sau COVID-19 sẽ như thế nào? Theo tôi, với VN đây là thời cơ thứ ba kể từ năm 1975. Nếu biết tận dụng thời cơ này ta sẽ khắc phục các vấn đề về cơ cấu kinh tế nói ở trên và đưa kinh tế phát triển một bước vượt bậc trong thập niên 2020.
Tại sao gọi là thời cơ? Thứ nhất, yếu của nội lực VN là cơ cấu hành chính, là tinh thần trách nhiệm của quan chức, là sự tương tác không mấy thuận lợi của DN và dân chúng với chính sách.
Nỗ lực và phương châm "chống dịch như chống giặc" lần này đã khiến các điểm yếu trên được khắc phục. Trong giai đoạn tới, nên đưa ra khẩu hiệu "chống tụt hậu như chống giặc" và cả nước quyết tâm đuổi kịp các nước đi trước.
Thứ hai, nhờ thành công trong việc chống dịch, hình ảnh VN an toàn và ít rủi ro trong đầu tư làm cho VN thành điểm đến lý tưởng cho các dòng thác FDI mới.
Thứ ba, do đại dịch này, các công ty đa quốc gia sẽ tiếp tục di chuyển cơ sở sản xuất khỏi Trung Quốc. Hiện tượng này đã bắt đầu từ giữa thập niên 2010, sau đó diễn ra mạnh hơn khi xảy ra chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Cũng như dịch SARS năm 2002, đại dịch Covid-19 lần này cũng bắt nguồn từ Trung Quốc.
Đã có phân tích tập quán ẩm thực của Trung Quốc dễ gây dịch bệnh hơn. Do đó, để phòng đứt gãy mạng lưới cung ứng, làn sóng chuyển dịch nhà máy khỏi Trung Quốc sẽ mạnh hơn. Ta nhân cơ hội này tích cực tiếp nhận có chọn lọc các dự án FDI mới để đưa công nghiệp VN lên cao trong chuỗi giá trị sản phẩm và từng bước giảm phụ thuộc vào Trung Quốc.
Trong bài viết cho Tuổi Trẻ Xuân 2020, tôi có nói khả năng 4.000 ngày sắp tới sẽ làm thay đổi VN. Tận dụng thời cơ lần thứ ba này sẽ thực hiện thành công giấc mơ 4.000 ngày đó.
T
TTO - Nhận định từ năm 1975 đến nay, VN đã hai lần đánh mất thời cơ và không nên để mất thời cơ thứ 3 sắp tới, GS Trần Văn Thọ đã có bài viết gửi riêng cho Tuổi Trẻ nhân dịp kỷ niệm 45 năm thống nhất đất nước.
Trong giai đoạn tới, nên đưa ra khẩu hiệu "chống tụt hậu như chống giặc" và cả nước quyết tâm đuổi kịp các nước đi trước.
GS Trần Văn Thọ
1 Cuối năm 1975, tại số đặc biệt đón xuân 1976, tạp chí Economisuto của Nhật đăng chân dung của 7-8 nhà lãnh đạo trên thế giới với phụ chú: Đây là những nhà lãnh đạo mà hành động và phát ngôn của họ sẽ làm thay đổi thế giới trong giai đoạn mới. Hình được chọn có tổng thống Mỹ, Pháp, thủ tướng Nhật, Anh, Tây Đức và Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Điều này nói lên uy tín và kỳ vọng về một VN mới sau khi có hòa bình và thống nhất. Khi đó dân số VN khoảng 47 triệu, là nước nông nghiệp vừa ra khỏi chiến tranh. Nhưng ý chí vượt khó và bản tính hiếu học của người VN, tài tổ chức, lãnh đạo của những người cầm quyền, vị trí địa chính trị... cho thấy triển vọng một nước VN tầm cỡ ở châu Á.
Tuy nhiên rất tiếc ta đã chọn chiến lược, chính sách sai và để mất thời cơ, đất nước lâm vào nguy cơ suốt hơn một thập niên sau đó.
2 Cuối năm 1986, VN đổi mới. Nhưng sự khó khăn của giai đoạn chuyển tiếp cộng với hoàn cảnh quốc tế không thuận lợi, VN phải mất thêm 6-7 năm nữa mới được thế giới chú ý. Giữa thập niên 1990, lần thứ hai sau ngày 30-4-1975, VN lại trở thành một ngôi sao đang lên ở châu Á. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng, các nước tiên tiến và các tổ chức quốc tế nối lại viện trợ, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN...
Kỳ vọng về một nước VN phát triển lên rất cao. Sống tại Nhật Bản những ngày đó tôi thấy rất rõ. Hồi đó dòng thác FDI tại Á châu do Nhật chủ đạo. VN được xem là điểm đến nhiều triển vọng. Nhiều người nhận định VN sẽ trở thành một nước phát triển mới. Tôi cũng mơ như thế.
Nhưng rất tiếc giấc mơ không thành. Từ cuối năm 1996 thế giới không còn đánh giá cao môi trường đầu tư của VN khi những yếu kém về chiến lược, chính sách kinh tế và quản lý hành chính bộc lộ rõ. Doanh nghiệp (DN) quốc doanh được ưu tiên và chưa thoát ra khỏi các định kiến về DN tư nhân và FDI. Cơ chế, thủ tục hành chính quá phức tạp. Do đó, làn sóng mới FDI từ Nhật không đến VN mà chảy sang các tỉnh ven biển Trung Quốc.
3 Từ khoảng năm 2000 những cải cách liên quan DN tư nhân và DN FDI có tiến triển. Nhưng giai đoạn hậu WTO, các luồng tư bản nước ngoài vào quá tự do và với các hiệp định thương mại tự do, hàng công nghiệp nước ngoài tràn vào nhiều trong khi nội lực chưa được củng cố. Đặc biệt DN tư nhân trong nước vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn và đất, nhất là DN nhỏ và vừa.
Do thiếu chiến lược, chính sách tích cực để định hướng dòng chảy FDI và nuôi dưỡng DN trong nước nên hiện nay, cơ cấu kinh tế VN tồn tại nhiều vấn đề phải giải quyết. Chẳng hạn, nhiều dự án FDI chất lượng xấu, thiếu liên kết giữa FDI và DN trong nước, công nghiệp còn chủ yếu là lắp ráp và phụ thuộc nhiều đầu vào từ Trung Quốc.
4 Đã 45 năm sau ngày 30-4-1975 hoặc gần 35 năm sau đổi mới là một thời gian rất dài.
Vào năm 1952 Nhật là nước có thu nhập trung bình thấp. Chỉ 15 năm sau tiến lên nước thu nhập trung bình cao và thêm 13 năm nữa trở thành cường quốc kinh tế. Dĩ nhiên Nhật đã có tích lũy về vốn thể chế, về nguồn nhân lực từ thời Minh Trị. Nhưng điều kiện để các nguồn lực phát huy nhanh là nhờ năng lực và khát vọng của lãnh đạo biết chớp thời cơ trong giai đoạn mới. Hàn Quốc và Đài Loan cũng thắng lợi trong cuộc chạy đua với thời gian. Hàn Quốc chỉ mất 16 năm (từ 1971 - 1987) để chuyển từ nước thu nhập trung bình thấp lên trung bình cao và chỉ mất thêm 10 năm nữa để tiến lên hàng các nước tiên tiến.
Tại sao VN đi chậm? Đó là vì từ năm 1975 đến nay, ta đã hai lần đánh mất thời cơ.
Nghiên cứu bài học ứng phó COVID-19 cho xây dựng đất nước
Khi các nước còn đang khó khăn chống chọi với dịch, VN đã thành công trong việc ngăn ngừa sự lây lan của dịch, nhờ sự quyết tâm, nỗ lực của Nhà nước, sự tận tâm, hi sinh của những người phục vụ trong hệ thống y tế và sự hợp tác, tương tác của các tầng lớp dân chúng.
Thế giới đang bàn luận sôi nổi về sự thành công này. Ta cũng sẽ nghiên cứu thêm để rút ra bài học cho chiến lược xây dựng đất nước trong thời gian tới.
5 Thời đại sau COVID-19 sẽ như thế nào? Theo tôi, với VN đây là thời cơ thứ ba kể từ năm 1975. Nếu biết tận dụng thời cơ này ta sẽ khắc phục các vấn đề về cơ cấu kinh tế nói ở trên và đưa kinh tế phát triển một bước vượt bậc trong thập niên 2020.
Tại sao gọi là thời cơ? Thứ nhất, yếu của nội lực VN là cơ cấu hành chính, là tinh thần trách nhiệm của quan chức, là sự tương tác không mấy thuận lợi của DN và dân chúng với chính sách.
Nỗ lực và phương châm "chống dịch như chống giặc" lần này đã khiến các điểm yếu trên được khắc phục. Trong giai đoạn tới, nên đưa ra khẩu hiệu "chống tụt hậu như chống giặc" và cả nước quyết tâm đuổi kịp các nước đi trước.
Thứ hai, nhờ thành công trong việc chống dịch, hình ảnh VN an toàn và ít rủi ro trong đầu tư làm cho VN thành điểm đến lý tưởng cho các dòng thác FDI mới.
Thứ ba, do đại dịch này, các công ty đa quốc gia sẽ tiếp tục di chuyển cơ sở sản xuất khỏi Trung Quốc. Hiện tượng này đã bắt đầu từ giữa thập niên 2010, sau đó diễn ra mạnh hơn khi xảy ra chiến tranh thương mại Mỹ - Trung. Cũng như dịch SARS năm 2002, đại dịch Covid-19 lần này cũng bắt nguồn từ Trung Quốc.
Đã có phân tích tập quán ẩm thực của Trung Quốc dễ gây dịch bệnh hơn. Do đó, để phòng đứt gãy mạng lưới cung ứng, làn sóng chuyển dịch nhà máy khỏi Trung Quốc sẽ mạnh hơn. Ta nhân cơ hội này tích cực tiếp nhận có chọn lọc các dự án FDI mới để đưa công nghiệp VN lên cao trong chuỗi giá trị sản phẩm và từng bước giảm phụ thuộc vào Trung Quốc.
Trong bài viết cho Tuổi Trẻ Xuân 2020, tôi có nói khả năng 4.000 ngày sắp tới sẽ làm thay đổi VN. Tận dụng thời cơ lần thứ ba này sẽ thực hiện thành công giấc mơ 4.000 ngày đó.
Từng kỳ vọng "con hổ mới ở châu Á"
Giữa năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhấn mạnh nguy cơ tụt hậu là quan trọng nhất trong 4 nguy cơ được bàn đến thời đó. Chỉ tiếc rằng giá như tư tưởng này sớm được triển khai thì đã có các bước cải cách phù hợp.
Gần đây, tôi gặp lại một quan chức của Bộ Tài chính Nhật, người phụ trách việc nối lại viện trợ của Nhật cho VN cuối năm 1992. Ông ấy nói một cách tiếc rẻ: "Hồi đó chúng tôi nghĩ VN, chứ không phải Trung Quốc, là con hổ mới ở châu Á".
GS TRẦN VĂN THỌừng kỳ vọng "con hổ mới ở châu Á"
Giữa năm 1995, Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhấn mạnh nguy cơ tụt hậu là quan trọng nhất trong 4 nguy cơ được bàn đến thời đó. Chỉ tiếc rằng giá như tư tưởng này sớm được triển khai thì đã có các bước cải cách phù hợp.
Gần đây, tôi gặp lại một quan chức của Bộ Tài chính Nhật, người phụ trách việc nối lại viện trợ của Nhật cho VN cuối năm 1992. Ông ấy nói một cách tiếc rẻ: "Hồi đó chúng tôi nghĩ VN, chứ không phải Trung Quốc, là con hổ mới ở châu Á".
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét