Nguồn: Francis Fukuyama, “At the ‘End of History’ Still Stands Democracy,” Wall Street Journal, 06/06/2014.
Biên dịch: Nguyễn Huy Hoàng
Hai mươi lăm năm trước, tôi viết tiểu luận “Sự cáo chung của lịch sử?” cho The National Interest, một tập san nhỏ. Lúc đó là mùa xuân năm 1989, và với những người trong chúng ta bị cuốn vào những cuộc tranh luận chính trị và ý thức hệ lớn về Chiến tranh Lạnh, đó là một thời khắc đáng kinh ngạc. Bài viết ra đời chỉ vài tháng sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin, đúng thời gian diễn ra các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ trên quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh và giữa một làn sóng chuyển tiếp dân chủ ở Đông Âu, Mỹ Latinh, châu Á, và vùng châu Phi hạ Sahara.
Tôi lập luận rằng Lịch sử (theo nghĩa triết học tổng quát) hóa ra rất khác những gì mà các nhà tư tưởng cánh tả tưởng tượng. Quá trình hiện đại hóa kinh tế và chính trị không dẫn đến chủ nghĩa cộng sản như các nhà Marxist khẳng định và như Liên Xô tuyên bố, mà dẫn đến một hình thức nào đó của dân chủ tự do và một nền kinh tế thị trường. Lịch sử, tôi viết, có vẻ đạt đến đỉnh điểm trong tự do: các chính phủ dân cử, các quyền tự do cá nhân, một hệ thống kinh tế trong đó vốn và lao động lưu thông dưới sự giám sát tương đối khiêm tốn của nhà nước.
Nhìn lại tiểu luận này từ thời điểm hiện tại, chúng ta hãy bắt đầu bằng một điểm rõ ràng: Năm 2014 xem ra rất khác so với năm 1989.
Nga là một chế độc chuyên chế dân cử nguy hiểm được thúc đẩy bởi đô la dầu mỏ, tìm cách bắt nạt các nước láng giềng và đòi lại những lãnh thổ đã mất khi Liên Xô giải thể năm 1991. Trung Quốc vẫn chuyên chế nhưng giờ đã có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, và những tham vọng lãnh thổ của nó ở Biển Đông và Biển Hoa Đông cũng vậy. Như nhà phân tích chính sách đối ngoại Walter Russell Mead viết gần đây, địa chính trị kiểu cũ đã trở lại ở cấp độ lớn, và sự ổn định toàn cầu đang bị đe dọa ở cả hai đầu của lục địa Á Âu.
Vấn đề trong thế giới ngày nay không chỉ là các cường quốc chuyên chế đang trên đà tiến tới mà nhiều nền dân chủ hiện có cũng không ổn định. Ví dụ Thái Lan, nơi kết cấu chính trị bất ổn đã nhường bước cho một cuộc đảo chính quân sự tháng trước, hay Bangladesh, nơi hệ thống vẫn bị kiềm tỏa bởi hai bộ máy chính trị suy đồi. Nhiều nước có vẻ đã chuyển tiếp sang dân chủ thành công—Thổ Nhĩ Kỳ, Sri Lanka, Nicaragua—lại quay trở lại thực tiễn chuyên chế. Các nước khác, bao gồm cả những thành viên gần đây của Liên minh châu Âu (EU) như Romania và Bulgaria, vẫn bị tham nhũng quấy nhiễu.
Rồi còn có các nền dân chủ phát triển. Cả Hoa Kỳ lẫn EU đều trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong thập niên qua, đồng nghĩa với tăng trưởng ảm đạm và tỷ lệ thất nghiệp cao, đặc biệt là với người trẻ. Dù nền kinh tế Hoa Kỳ giờ đã bắt đầu tăng trưởng trở lại, ích lợi vẫn chưa được chia sẻ một cách đồng đều, và hệ thống chính trị phân cực và mang tính đảng phái của nước này khó có thể là tấm gương sáng cho các nền dân chủ khác.
Vậy là giả thuyết “sự cáo chung của lịch sử” của tôi đã được chứng minh là sai lầm, hoặc nếu không sai lầm thì cũng cần sửa chữa nghiêm trọng? Tôi tin rằng về cơ bản thì ý tưởng nền tảng đó vẫn đúng, nhưng giờ tôi cũng đã hiểu nhiều vấn đề về bản chất của sự phát triển chính trị mà tôi thấy chưa thật rõ ràng trong những ngày sôi sục của năm 1989.
Khi quan sát các xu hướng lịch sử rộng lớn, điều quan trọng là đừng sa đà vào những bước phát triển ngắn hạn. Minh chứng của một hệ thống chính trị ổn định là sự bền vững trong dài hạn, chứ không phải hiệu năng của nó trong một thập niên nào đó.
Trước tiên, thử xem xét các hệ thống chính trị và kinh tế đã thay đổi đáng kể như thế nào trong hai thế hệ qua. Về mặt kinh tế, nền kinh tế thế giới chứng kiến sự tăng trưởng rất lớn về sản lượng, tăng khoảng bốn lần trong giai đoạn từ đầu những năm 1970 đến cuộc khủng hoảng tài chính 2007–08. Mặc dù cuộc khủng hoảng là một bước thụt lùi lớn, mức độ thịnh vượng trên thế giới vẫn gia tăng một cách đáng kể trên mọi lục địa. Điều này diễn ra là bởi thế giới đã gắn kết với nhau trong một hệ thống thương mại và đầu tư tự do. Ngay cả tại các nước cộng sản như Trung Quốc và Việt Nam, các quy tắc thị trường và cạnh tranh vẫn chiếm ưu thế.
Những thay đổi lớn cũng diễn ra trong lĩnh vực chính trị. Năm 1974, theo chuyên gia về dân chủ Larry Diamond tại Đại học Stanford, chỉ có khoảng 35 nền dân chủ dân cử, đại diện cho chưa đến 30% số quốc gia trên thế giới. Đến năm 2013, con số này đã tăng lên đến khoảng 120, tương đương hơn 60% tổng số. Năm 1989 đánh dấu sự tăng tốc đột ngột của một xu hướng rộng lớn hơn mà nhà khoa học chính trị quá cố Samuel Huntington tại Đại học Harvard gọi là “làn sóng thứ ba” của dân chủ hóa, một làn sóng bắt đầu với những cuộc chuyển tiếp (sang dân chủ) ở Nam Âu và châu Mỹ Latinh khoảng 15 năm trước đó và sau này mở rộng sang cả vùng châu Phi hạ Sahara và châu Á.
Sự xuất hiện của một trật tự kinh tế toàn cầu dựa trên thị trường và sự lan rộng của dân chủ rõ ràng là có liên quan đến nhau. Dân chủ luôn dựa trên một tầng lớp trung lưu rộng lớn, và số lượng những công dân phát đạt, có tài sản đã lớn mạnh ở mọi nơi trong thế hệ qua. Người dân giàu có hơn, có giáo dục hơn thường đòi hỏi nhiều hơn ở chính phủ của họ—và bởi vì họ trả thuế, họ cảm thấy các quan chức công phải có trách nhiệm giải trình với họ. Nhiều pháo đài cứng đầu nhất của chủ nghĩa chuyên chế trên thế giới là các nước giàu dầu mỏ như Nga, Venezuela, hay các chế độ ở Vịnh Ba Tư, nơi “lời nguyền tài nguyên,” như người ta vẫn gọi, đã cho chính phủ doanh thu ngân sách khổng lồ từ một nguồn lực khác mà không phải là người dân.
Thậm chí nếu thừa nhận khả năng cưỡng lại thay đổi của các chế độ độc tài giàu dầu mỏ, từ năm 2005 chúng ta đã chứng kiến cái mà giáo sư Diamond gọi là “sự suy thoái dân chủ” toàn cầu. Theo Freedom House, tổ chức đưa ra các thang đo được sử dụng rộng rãi về tự do chính trị và dân sự, cả số lượng và chất lượng của các nền dân chủ (sự minh bạch của các kỳ bầu cử, tự do báo chí, v.v.) đều suy giảm trong tám năm liên tiếp vừa qua.
Nhưng hãy đặt sự suy thoái dân chủ này vào bối cảnh rộng lớn hơn: Trong khi chúng ta có thể lo ngại về các xu hướng chuyên chế ở Nga, Thái Lan, hay Nicaragua, thì cả ba nước này đều là các nền độc tài rõ ràng trong những năm 1970. Bất chấp những ngày cách mạng đầy cảm hứng ở quảng trường Tahrir của Cairo năm 2011, Mùa xuân Ả Rập có vẻ sẽ không mang lại một nền dân chủ đích thực ở bất cứ nơi nào trừ đất nước nơi nó bắt đầu, Tunisia. Tuy nhiên, điều đó nhiều khả năng sẽ đồng nghĩa với một nền chính trị Ả Rập đáp ứng người dân tích cực hơn trong dài hạn. Kỳ vọng điều này sẽ diễn ra nhanh chóng là hết sức phi thực tế. Chúng ta đã quên rằng sau các cuộc cách mạng năm 1848—“Mùa xuân của các dân tộc” châu Âu—dân chủ mất đến 70 năm mới có thể được củng cố.
Hơn nữa, trong lĩnh vực tư tưởng, nền dân chủ tự do vẫn chưa có đối thủ nào thực thụ. Nước Nga của Vladimir Putin và Iran của các ayatollah (đại giáo chủ) vẫn bày tỏ sự tôn trọng với các lý tưởng tự do ngay cả khi họ chà đạp chúng trên thực tế. Sao phải mất công tổ chức các cuộc trưng cầu dân ý giả tạo về “quyền tự quyết” ở Đông Ukraine? Một số kẻ cực đoan ở Trung Đông có thể ôm mộng khôi phục một caliphate Hồi giáo cực đoan, nhưng đây không phải lựa chọn của đa số người dân sống trong các nước Hồi giáo. Hệ thống duy nhất có vẻ cạnh tranh với nền dân chủ tự do là cái gọi là “mô hình Trung Quốc,” kết hợp chính phủ chuyên chế với một nền kinh tế một phần dựa trên thị trường và mức độ cao về năng lực kỹ trị và công nghệ.
Nhưng nếu có ai bảo tôi đặt cược xem sau 50 năm nữa, Mỹ và châu Âu sẽ giống Trung Quốc hơn hay là ngược lại, tôi sẽ không do dự mà chọn phương án sau. Có nhiều lý do để cho rằng mô hình Trung Quốc không bền vững. Tính chính danh của hệ thống và sự cầm quyền kéo dài của Đảng phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng cao liên tục, một điều đơn giản là sẽ không diễn ra khi Trung Quốc tìm cách chuyển dịch từ một nước thu nhập trung bình lên một nước thu nhập cao.
Trung Quốc đã tích tụ những chi phí ẩn khổng lồ bằng cách đầu độc nguồn đất và không khí của mình, và trong khi chính phủ vẫn đáp ứng người dân nhiều hơn hầu hết các chế độ chuyên chế khác, tầng lớp trung lưu ngày càng lớn của nước này nhiều khả năng sẽ không chấp nhận hệ thống gia trưởng suy đồi hiện tại trong những thời kỳ khó khăn. Trung Quốc đã không còn truyền bá một lý tưởng phổ quát ra ngoài bên giới như trong những ngày cách mạng của Mao. Với mức độ bất bình đẳng gia tăng và đặc quyền khổng lồ mà những người có liên quan đến chính trị được hưởng, “Giấc mơ Trung Hoa” không là gì hơn một con đường làm giàu nhanh chóng cho một số tương đối ít.
Tuy nhiên, những điều kể trên không có nghĩa là chúng ta có thể thỏa mãn với những gì dân chủ đã làm được trong vài thập niên qua. Giả thuyết “sự cáo chung của lịch sử” của tôi chưa bao giờ có ý mang quan điểm tất định (tức là không phụ thuộc vào ý chí tự do của con người—ND), hay là một dự đoán đơn giản về chiến thắng tất yếu của dân chủ tự do trên toàn thế giới. Các nền dân chủ tồn tại được và thành công chỉ là bởi người ta sẵn sàng chiến đấu vì pháp quyền, các quyền con người, và trách nhiệm giải trình chính trị. Các xã hội như vậy phụ thuộc vào lãnh đạo, khả năng tổ chức, và sự may mắn tuyệt đối.
Vấn đề lớn nhất trong các xã hội đang khát khao trở nên dân chủ là họ không cung cấp được thực chất của những gì mà người dân mong muốn ở chính phủ: an ninh cá nhân, tăng trưởng kinh tế chung, và các dịch vụ công cơ bản (đặc biệt là giáo dục, y tế, và cơ sở hạ tầng) vốn cần thiết để đạt được cơ hội cá nhân. Vì những lý do có thể hiểu được, những người ủng hộ dân chủ tập trung vào việc giới hạn quyền lực của các nhà nước độc tài hay cướp bóc. Nhưng họ không dành nhiều thời gian tương đương để suy nghĩ về cách quản trị hiệu quả. Nói theo lời Woodrow Wilson, họ quan tâm việc “kiểm soát nhiều hơn việc tiếp sinh lực cho chính phủ.”
Đây là thất bại của cuộc Cách mạng Cam lần đầu lật đổ Viktor Yanukovych năm 2004 của Ukraine. Các nhà lãnh đạo lên nắm quyền thông qua các cuộc biểu tình—Viktor Yushchenko và Yulia Tymoshenko—đã lãng phí năng lượng của họ vào đấu đá nội bộ và những giao dịch mờ ám. Nếu một chính quyền dân chủ hiệu quả lên nắm quyền, quét sạch tham nhũng ở Kiev và khiến các thể chế nhà nước trở nên đáng tin cậy hơn, thì chính phủ đã có thể thiết lập tính chính danh của nó ở mọi nơi ở Ukraine, bao gồm cả miền Đông nói tiếng Nga, rất lâu trước khi Putin đủ mạnh để can thiệp. Thay vào đó, các lực lượng dân chủ đã đánh mất uy tín và mở đường cho sự trở lại của Yanukovych năm 2010, qua đó mở màn cho sự bế tắc căng thẳng và đẫm máu trong những tháng gần đây.
Ấn Độ cũng tụt hậu vì một sự chênh lệch tương tự trong hiệu năng khi so với Trung Quốc. Việc Ấn Độ duy trì được nền dân chủ của mình kể từ khi thành lập năm 1947 là rất ấn tượng. Nhưng nền dân chủ Ấn Độ, như làm xúc xích, không quá hấp dẫn khi nhìn gần. Hệ thống này đầy rẫy tham nhũng và quan hệ bảo trợ thân hữu; theo Hiệp hội Cải cách Dân chủ Ấn Độ, 34% số người chiến thắng trong các cuộc bầu cử gần đây của Ấn Độ có cáo trạng hình sự, bao gồm các tội nghiêm trọng như giết người, bắt cóc, và tấn công tình dục.
Pháp quyền có tồn tại ở Ấn Độ, nhưng chậm và thiếu hiệu quả đến mức nhiều nguyên đơn qua đời trước khi khiếu kiện của họ được đưa ra xét xử. Tòa án Tối cao Ấn Độ đang tồn đọng hơn 60.000 vụ, theoHindustan Times. So với Trung Quốc chuyên chế, nền dân chủ lớn nhất thế giới hoàn toàn lép vế về khả năng cung cấp cơ sở hạ tầng hiện đại hay các dịch vụ công cơ bản như nước sạch, điện, hay giáo dục cơ bản cho người dân.
Ở một số tiểu bang của Ấn Độ, 50% giáo viên không đến lớp, theo nhà kinh tế và nhà hoạt động Jean Drèze. Narendra Modi, một nhà dân tộc chủ nghĩa người Hindu mang quá khứ rắc rối vì dung thứ cho bạo lực chống Hồi giáo, vừa được bầu làm thủ tướng bởi một tỷ lệ đa số lớn ấn tượng với hy vọng bằng cách nào đó ông có thể tránh được thói khoa trương thông thường của nền chính trị Ấn Độ và thực sự làm được điều gì đó.
Hơn các dân tộc khác, người Mỹ thường không hiểu được sự cần thiết của chính phủ hiệu quả, mà thay vào đó tập trung vào giới hạn thẩm quyền. Năm 2003, dường như chính quyền George W. Bush tin rằng chính phủ hiệu quả và một nền kinh tế theo định hướng thị trường sẽ đồng thời xuất hiện ở Iraq một khi Hoa Kỳ đã loại bỏ được chế độ độc tài của Saddam Hussein. Họ không hiểu rằng chúng phát sinh từ sự tương tác của các thể chế phức tạp—các đảng chính trị, tòa án, quyền sở hữu, bản sắc dân tộc chung—thứ phát triển trong các nền dân chủ tiên tiến trong hàng thập niên, thậm chí hàng thế kỷ.
Không may là việc thiếu khả năng quản trị hiệu quả đã mở rộng đến cả Hoa Kỳ. Bản hiến pháp kiểu Madison của chúng ta, được cố ý thiết kế nhằm ngăn chặn sự chuyên chế bằng cách nhân rộng các cơ chế kiểm soát và đối trọng ở mọi cấp chính quyền, đã trở thành một chế độ phủ quyết (vetocracy). Trong không khí chính trị phân cực—thực sự độc hại—của Washington ngày nay, chính phủ đã tỏ ra không thể tiến hoặc lùi một cách hiệu quả.
Trái với những kích động ở cả hai bên, Hoa Kỳ phải đối mặt với một vấn đề tài khóa dài hạn rất nghiêm trọng nhưng có thể giải quyết thông qua những thỏa hiệp chính trị nhạy cảm. Nhưng Quốc hội vẫn chưa thông qua ngân sách, theo những quy định của riêng nó, trong nhiều năm qua, và mùa thu năm ngoái, Đảng Cộng hòa đã cho đóng cửa toàn bộ chính phủ vì họ không đồng ý về việc trả các khoản nợ trong quá khứ. Mặc dù nền kinh tế Mỹ vẫn còn là một nguồn của sự đổi mới kỳ diệu, chính phủ Mỹ khó có thể là nguồn cảm hứng cho thế giới ở thời điểm hiện tại.
Hai mươi lăm năm sau [kể từ năm 1989], mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với giả thuyết “sự cáo chung của lịch sử” không phải là ngoài kia có một mô hình cao hơn, tốt hơn, sẽ thay thế nền dân chủ tự do vào một ngày nào đó; cả chế độ thần quyền Hồi giáo lẫn chủ nghĩa tư bản Trung Quốc đều không làm được. Một khi các xã hội lên chiếc thang cuốn công nghiệp hóa, cấu trúc xã hội của chúng bắt đầu theo đổi theo những cách thức làm gia tăng nhu cầu tham gia chính trị. Nếu giới tinh hoa chính trị đáp ứng những yêu cầu đó, chúng ta sẽ đạt đến một phiên bản nào đó của dân chủ.
Câu hỏi là liệu mọi quốc gia có chắc chắn sẽ lên chiếc thang đó hay không. Vấn đề ở đây là sự gắn bó giữa chính trị với kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi một số thể chế tối thiểu nhất định, ví dụ như những hợp đồng có thể thi hành và các dịch vụ công đáng tin cậy, trước khi nó bắt đầu cất cánh, nhưng rất khó tạo ra những thể chế đó trong cảnh đói nghèo cùng cực và chia rẽ chính trị. Trong lịch sử, các xã hội thoát khỏi “cái bẫy” này thông qua các biến cố lịch sử, trong đó những điều tồi tệ (như chiến tranh) thường tạo ra những điều tốt đẹp (như các chính phủ hiện đại). Tuy nhiên, chưa rõ liệu có phải ai cũng chắc chắn được sao tốt chiếu xuống hay không.
Vấn đề thứ hai mà tôi chưa đề cập đến cách đây 25 năm là vấn đề suy thoái chính trị, nó tạo nên một chiếc thang đi xuống. Mọi thể chế đều có thể suy thoái trong dài hạn. Chúng thường cứng nhắc và bảo thủ; các quy tắc đáp ứng những nhu cầu của một thời kỳ lịch sử không nhất thiết là các quy tắc đúng đắn khi những điều kiện bên ngoài thay đổi.
Hơn nữa, các thể chế hiện đại vốn được thiết kế sao cho mang tính phi cá nhân thường dần bị khống chế bởi các tác nhân chính trị quyền lực. Xu hướng tự nhiên muốn làm lợi cho gia đình và bạn bè của con người tồn tại trong mọi hệ thống chính trị, giáng tự do xuống thành một thứ đặc quyền. Điều này cũng đúng trong một nền dân chủ (hãy nhìn vào luật thuế hiện hành của Hoa Kỳ), không khác gì trong một hệ thống chuyên chế. Trong trường hợp này, người giàu có xu hướng trở nên giàu hơn không chỉ vì lợi nhuận cao hơn từ vốn, như nhà kinh tế học người Pháp Thomas Piketty lập luận, mà còn vì họ tiếp cận tốt hơn với hệ thống chính trị và có thể sử dụng quan hệ của họ để thúc đẩy lợi ích của mình.
Còn về tiến bộ công nghệ, nó rất dễ thay đổi trong việc phân phối lợi ích. Những đổi mới như công nghệ thông tin giúp lan truyền sức mạnh do chúng khiến thông tin trở nên rẻ và dễ tiếp cận, nhưng cũng làm suy yếu những công việc kỹ năng thấp và đe dọa sự tồn tại của một tầng lớp trung lưu rộng lớn.
Không ai sống trong một nền dân chủ lâu đời được tự mãn về sự tồn tại của nó. Nhưng bất chấp thăng trầm và dòng chảy của chính trị thế giới trong ngắn hạn, sức mạnh của lý tưởng dân chủ vẫn còn rất lớn. Chúng ta thấy nó trong các cuộc biểu tình tiếp tục nổ ra đầy bất ngờ từ Tunis đến Kiev đến Istanbul, nơi dân thường đòi hỏi chính phủ công nhận phẩm giá bình đẳng của họ như những con người. Chúng ta cũng thấy nó trong hàng triệu người nghèo tuyệt vọng di chuyển mỗi năm từ những nơi như Guatemala City hay Karachi đến Los Angeles hoặc London.
Ngay cả khi vẫn đặt câu hỏi rằng mất bao lâu người ta mới đến được đó, chúng ta cũng đừng nên nghi ngờ gì về kiểu xã hội nằm ở điểm tận cùng của Lịch sử. ♦
Francis Fukuyama là nghiên cứu viên cao cấp tại Đại học Stanford và giám đốc Trung tâm Dân chủ, Phát triển, và Pháp quyền tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli. Cuốn sách mới nhất của ông là Political Order and Political Decay: From the Industrial Revolution to the Globalization of Democracy (Farrar, Straus and Giroux, 2014).
Bản dịch © 2016 Nghiên cứu Quốc tế.
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét