Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

Cuộc chơi của những nước lớn:

Liên Xô Và Chiến Tranh Triều Tiên 1950 – 1953


Liên Xô sau hậu trường chiến tranh Triều Tiên [1950 - 1953]

Khởi phát từ mâu thuẫn nội bộ giữa hai miền Nam – Bắc Triều Tiên, chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) lập tức bị quốc tế hóa, lôi cuốn vào vòng xoáy sự can dự trực tiếp hoặc gián tiếp nhiều quốc gia trên thế giới. Là cuộc xung đột cục bộ đầu tiên của thời kỳ chiến tranh Lạnh, dù đã tạm khép lại, song đây vẫn là sự kiện lịch sử hết sức phức tạp, nhiều bí ẩn, hàm chứa những mâu thuẫn, tính toán trên nền lợi ích đan xen đa tầng. Có ảnh hưởng vượt phạm vi khu vực, chiến tranh Triều Tiên trở thành phép thử bất đắc dĩ trong quan hệ giữa hàng loạt quốc gia bất kể liên minh hay đối địch.
1- Liên Xô với bức tranh địa – chính trị Đông Bắc Á
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quan hệ đồng minh Xô- Mỹ nhanh chóng tan vỡ, hai nước chuyển sang cạnh tranh quyết liệtsức mạnh, ảnh hưởng ở cả vũ đài trung tâm (Châu Âu) lẫn ở vùng ngoại vi (Châu Phi, Châu Á và Trung Đông). Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nhìn nhận hoạt động củng cố vòng cung an ninh Châu Âu của Liên Xô như sự thống trị mang tính thù địch với thế giới tư bản, đe dọa đến an ninh quốc gia của Mỹ; vì thế, tìm kiếm mọi phương thức bao vây, ngăn chặn Liên Xô. Mỹ nỗ lực khôi phục khả năng quân sự của Nhật Bản, biến Nhật Bản thành chỗ đứng chân, bàn đạp để kiềm chế và chống lại Liên Xô, Trung Quốc. Quan hệ Xô – Mỹ, về bản chất, như Brzezinskinhận xét, thể hiện “sựxung độtkinh điển mang tính lịch sử giữa hai cường quốc, song không đơn thuần là xung đột lợi ích quốc gia, mà là cuộc biểu dương sức mạnh giữa hai hệ tư tưởng với hai hệ thống chính trị – xã hội vì quyền thống trị thế giới”. Mỹ trở thành đối thủ hàng đầu, nguy hiểm đối với Liên Xô.
Trong bầu không khí chiến tranh Lạnh đang từng ngày nóng dần lên, việc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với dân số lớn nhất thế giới và diện tích đứng thứ ba thế giới ra đời đã làm biến đổi mạnh mẽ bức tranh địa – chính trị toàn cầu. Sự kiện này lập tức được cả Liên Xô và Mỹ quan tâm. Đối với Mỹ, nước Trung Hoa mới trở thành nguy cơ trực tiếp cho sự hiện diện quân sự – chính trị tại Châu Á, thách thức mục tiêu mở rộng không gian chiến lược và đặt Mỹ trước yêu cầu kiểm soát liên minh Xô – Trung. Giải quyết những thách thức nêu trên, ngoài sự lựa chọn Nhật Bản, Mỹ không thể bỏ qua Nam Triều Tiên đang thù địch với Bắc Triều Tiên – vệ tinh quan trọng, tấm lá chắn, vùng đệm giúp Liên Xô kiểm soát, kiềm chế Nhật Bản – đồng minh quan trọng của Mỹ.
Về phía Liên Xô, tuy có chung nền tảng tư tưởng mácxit, song từ trước khi nước Trung Hoa mới ra đời, quan hệ giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô đã có dấu hiệu “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Tại Hội nghị Ianta (1945), I.V.Stalin thỏa hiệp với Tưởng Giới Thạch để đổi lấy việc công nhận độc lập của vùng Ngoại Mông và một số nhượng bộ khác… Trong cuộc nội chiến 1946-1949, nghi ngờ khả năng giành thắng lợi của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Liên Xô chọn vị trí trung lập. Hành động này đã đánh mạnh vào niềm tin của Mao Trạch Đông và những người Cộng sản Trung Quốc. Đặc biệt, với tính cách lạnh lùng, luôn hoài nghi, đầy mâu thuẫn, I.V.Stalin chưa bao giờ tin tưởng ở Mao Trạch Đông – một người, như I.V.Stalin quan niệm, có quá nhiều tính toán và tham vọng mà I.V.Stalin là người biết rõ hơn ai hết trong thời gian lãnh đạo Quốc tế Cộng sản III, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc là một bộ phận trực thuộc. Những mâu thuẫn tích tụ, tuy chưa bùng phát, song cho thấy trên nền ý thức hệ, quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc nhiều nghi ngại hơn là tin cậy. Khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, tuy khẳng định “thắng lợi của cách mạng Trung Quốc làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho cách mạng thế giới”, song thực tế, I.V.Stalin đã hình dung và lo lắng về một cuộc cạnh tranh không mấy dễ chịu. Khả năng hình thành một trung tâm cách mạng mới trên nền liên minh Trung Quốc – Bắc Triều Tiên trở thành nỗi ám ảnh đặc biệt “nhạy cảm” đối với I.V.Stalin, nhất là khi câu chuyện Nam Tư còn đang nóng hổi.
Như vậy, quan hệ của Liên Xô với Trung Quốc và Mỹ – một bên là đồng minh, một bên là đối thủ có chung một điểm tham chiếu với các cấp độ: Mức 1- kiềm chế, kiểm soát; mức 2 – làm suy yếu; mức 3 - phụ thuộc (đối với Trung Quốc) và mất khả năng cạnh tranh vị trí thống trị toàn cầu (đối với Mỹ). Tại thời điểm đó, Đông Bắc Á trở thành mảnh đất hội tụ lợi ích chiến lược của các cường quốc và là yếu tố quan trọng quyết định sự cân bằng hay nghiêng lệch địa – chính trị thế giới, nơi như Liên Xô xác định, thỏa mãn những yêu cầu, điều kiện cho việc giải quyết những nguy cơ, thách thức tiềm ẩn đối với lợi ích của Liên Xô.
2- Kế hoạch đưa Trung Quốc và Mỹ đụng độ
Từ cuối năm 1948, với sự ra đời của Đại hàn Dân quốc(8-1948) và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (9-1948), bán đảo Triều Tiên nóng dần dưới sức ép, quyết tâm thu giang sơn về một mối của cả hai chính thể. Hai miền Bắc, Nam Triều Tiên đều tích cực chuẩn bị cho công cuộc thống nhất đất nước thông qua con đường vũ trang.
Với sự giúp đỡ của các cố vấn quân sự Liên Xô, từ tháng 1-1950, Kim Nhật Thành đã lên kế hoạch xóa đi vết cắt ngang bán đảo Triều Tiên mang tên vĩ tuyến 38 bằng “đòn tấn công quân sự bất ngờ, với hai cánh quân bộ binh bao gồm 9 sư đoàn, trên hai hướng Seoulvà Hunchhon, kết hợp với các cuộc tấn công của lực lượng du kích và các cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân”. Trong điều kiện kinh tế, quân sự khó khăn và trong cục diện hai cực Đông – Tây, Kim Nhật Thành tích cực vận động, thuyết phục I.V. Stalin ủng hộ. Ngay từ đầu, I.V. Stalin tiếp nhận yêu cầu của Kim Nhật Thành với thái độ dè dặt, trả lời nước đôi: “Một việc lớn như vậy phải được tính toán hết sức cẩn thận. Cần chuẩn bị để không xảy ra bất kỳ một sơ suất nào”. Chuyến đi bí mật đến Moscowngày 8-4-1950 của Kim Nhật Thành với bản kế hoạch sơ bộ tấn công Nam Triều Tiên không nhận được câu trả lời dứt khoát. Tháng 4 và nửa đầu tháng 5-1950, Kim Nhật Thành liên tục hối thúc và chờ đợi tín hiệu từ Liên Xô. Trong điều kiện chiến tranh Lạnh, nếu từ chối ủng hộ mong muốn thống nhất đất nước của nhân dân Triều Tiên, Liên Xô có thể sẽ bị giảm uy tín trong phong trào giải phóng dân tộc, Bên cạnh đó, tháng 5-1950, Báo cáo của Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) cho biết “quá trình quân sự hóa Nhật Bản dưới sự bảo trợ của Mỹ nhằm chống Liên Xô đang được đẩy mạnh”. Tình hình không cho phép I.V.Stalin chậm chễ hơn nữa.
Nhận thấy thời điểm thực hiện các kế hoạch đang đến gần, ngày 14-5-1950, I.V.Stalin gửi điện tín cho Đại sứ Liên Xô tại Bình Nhưỡng T.F.Shtyucov nói rõ quan điểm: “Vấn đề giải phóng Triều Tiên phải được bàn bạc kỹ giữa Bắc Triều Tiên và Trung Quốc. Trong trường hợp Trung Quốc chưa đồng ý, kế hoạch được lùi lại, chờ thảo luận tiếp”. Ngày 15-4-1950, Đại sứ T.F.Shtyucov thông báo về Moscow: Kế hoạch của Kim Nhật Thành đã được Mao Trạch Đông chấp thuận và hứa sẵn sàng can thiệp quân sựtrong trường hợp cần thiết. Khi đã chắc chắn với cam kết tham dự chiến tranh của Trung Quốc, cuối tháng 5-1950, I.V.Stalin quyết định bật đèn xanh cho Kim Nhật Thành thực hiện kế hoạch thống nhất đất nước.Như vậy, ý định phát động chiến tranh xuất phát từ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, song nó chỉ thành hiện thực sau cái gật đầu của I.V.Stalin – lãnh tụ “trung tâm cách mạng thế giới”, còn sự đồng ý của I.V.Stalin chỉ có khi và chỉ khi Mao Trạch Đông lãnh trách nhiệm tham gia và chi viện cho những người anh em Bắc Triều Tiên.
Về vấn đề Mỹ sẽ tham chiến, I.V.Stalin và Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô chưa bao giờ hoài nghi. Tại cuộc họp Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 24-9-1949, khi bàn về vấn đề Triều Tiên, 100 % thành viên nhất trí rằng, khi chiến tranh bùng nổ, Mỹ sẽ thông qua Liên Hiệp Quốc gửi quân đội hỗ trợ Chính quyền Lý Thừa Văn. Từ tháng 4 đến tháng 6-1950, diễn ra một số sự kiện liên quan đến chiến lược của Mỹ và vấn đề Triều Tiên củng cố vững chắc thêm nhận thức của I.V.Stalin. Ngày 19-6-1950, phát biểu tại Quốc hội Hàn Quốc, Giám đốc Office of Strategic Services(OSS)Allen Dulles tuyên bố: “Mỹ sẵn sàng hỗ trợ Hàn Quốc cả về tinh thần và vật chất trong cuộc chiến chống Bắc Triều Tiên”. Trước khi rời Hàn Quốc, AllenDulles viết cho Lý Thừa Văn: “Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào vai trò quan trọng của các bạn trong vở kịch lớn sắp diễn ra”. Ngày 14-4-1950, Ủy ban An ninh quốc gia Hoa Kỳ cho ra đời văn kiện NSC-68 cho phép “thực hiện những hoạt động ngăn chặn Kreml đẩy mạnh mở rộng ảnh hưởng”. Có thể khẳng định rằng, việc Mỹ can dự vào cuộc chiến là chắc chắn, vấn đề còn lại chỉ là thời điểm. Nhà chính trị dày dặn kinh nghiệm I.V.Stalin hiểu rằng cần thêm một động tác kích đẩy.
Ngày 25-6-1950, quân đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tấn công Hàn Quốc. Ngày 25-6 và ngày 27-6-1950, diễn ra hai cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc về vấn đề Triều Tiên. Nắm giữ quyền phủ quyết (vecto), Đại diện Liên Xô Y.A.Malik được lệnh tẩy chay cuộc họp, tự tước bỏ tấm bùa hộ mệnh đối với Bắc Triều Tiên trước sự trừng phạt của Liên quân Liên Hợp Quốc. Nhiều năm nay, giới nghiên cứu thường cho rằng đó là sai lầm đau đớn của nền ngoại giao Xô viết. Tuy nhiên,bức điện của I.V.Stalin gửi lãnh đạo Tiệp Khắc K.Gottwald (được giải mật năm 2000) lý giải việc Y.A.Malik rời khỏi Hội đồng Bảo an không chỉ bác bỏ hoàn toàn nhận định trên, mà còn làm rõ những tính toán sâu xa của Liên Xô đặt trong quan hệ “sinh tử” với Mỹ và Trung Quốc: “Tham gia vào chiến tranh Triều Tiên, Mỹ sẽ chôn vùi sức mạnh quân sự và uy tín quốc tế tại đó. Mỹ buộc phải chuyển trọng tâm chiến lược từ Châu Âu sang Đông Á, đối đầu trực tiếp với Trung Quốc (…) Trong một thời gian nhất định, Mỹ không thể gây chiến tranh thế giới thứ ba và điều đó hết sức có lợi cho việc củng cố hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Châu Âu”.
Trong khung cảnh đối đầu, xung đột của chiến tranh Lạnh,kế hoạch thống nhất đất nước của Kim Nhật Thành, việc đá quả bóng sang chân Trung Quốc, tẩy chay có ý thức Hội đồng Bảo an, từ bỏ quyền phủ quyết vào thời điểm quyết định… chiến tranh Triều Tiên là một tính toán của Liên Xô kéo Bắc Kinh vào cuộc đối đầu với Washington, triệt tiêu khả năng Trung Quốc“nói chuyện” với Hoa Kỳ – điều nếu thành hiện thực sẽ là một thách thức không dễ vượt qua, nhất là đối với những kế hoạch củng cố vị thế và tăng cường sức mạnh toàn cầu mà Liên Xô đang ấp ủ. Quả thật, “Sói xám” I.V. Stalin già dặn trên đấu trường quốc tế đã bắn một mũi tên trúng hai đích.
3-Liên Xô đứng sau thế giằng co của cuộc chiến
72 giờ sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Mỹ quyết định trực tiếp can thiệp, lôi kéo liên quân 15 nước tham gia, cuộc nội chiến Triều Tiên trở thành cuộc khủng hoảng quốc tế.
Về phía Trung Quốc, nhận thức về lợi ích an ninh quốc gia trong bối cảnh xung độ Đông – Tây, khi”các vấn đề trung tâm trong thế giới sau Thế chiến thứ hai là cách mạng vô sản trên phạm vi toàn cầu”, lãnh đạo Trung Quốc tin chắc rằng cuộc đụng độ quân sự trực tiếp với Mỹ là không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ là khi nào và ở đâu. Việc Mỹ gửi Hạm đội 7 đến eo biển Đài Loan càng củng cố quan điểm của Trung Quốc về “mối đe dọa Hoa Kỳ” với chiến lược mở rộng ảnh hưởng, tiêu diệt cách mạng Châu Á, bao vây Trung Quốc từ hướng Triều Tiên. Trên nền tảng lý luận Mác-Lênin về chiến tranh cách mạng, các nhà lãnh đạo Trung Quốc quan niệm, “trong xung đột Triều Tiên, nếu Trung Quốc không can thiệp, phong trào cách mạng Châu Á và thế giới sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng”. Cốt lõi nhận thức của Trung Quốc về xung đột Triều Tiên và vai trò của Trung Quốc trong cuộc xung đột đã vượt qua lợi ích quốc gia hạn hẹp, vượt qua mục tiêu bảo vệ an ninh biên giới thông thường, gắn chặt mục tiêu tái khẳng định vị trí trong trật tự quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai, gắn với quan điểm về tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản ở Châu Á và trên phạm vi toàn thế giới, ở đó, vai trò của Trung Quốc với tư cách “đầu tàu” cách mạng Phương Đông rất quan trọng. Vì thế, khi chiến tranh Triều Tiên bắt đầu, Đảng Cộng sản Trung Quốc lập tức quyết định hoãn kế hoạch giải phóng Đài Loan, tập trung cho vấn đề Triều Tiên.
Tháng 10-1950, khi tình thế chiến tranh hết sức bất lợi đối với Bắc Triều Tiên, I.V. Stalin hối thúc Mao Trạch Đông chuẩn bị 9 tiểu đoàn trong tư thế sẵn sàng, tập trung sát biên giới Trung – Hàn, hứa sẽ hỗ trợ không quân]. Ngày 2-10-1950, Mao Trạch Đông thông báo cho I.V. Stalinsẽ gửi quân đội sang giúp đỡ Bắc Triều Tiên, dự định “lúc đầu, khoảng 5-7 sư đoàn quân tình nguyện sẽ được đưa tới Triều Tiên” và vào khoảng trung tuần tháng 11-1950 sẽ có mặt; đồng thời, yêu cầu Liên Xô viện trợ thêm hàng hóa, bảo vệ biên giới, các khu công nghiệp và quân đội Trung Quốc bằng không quân. Ngày 19-10-1950, Chí nguyện quân Trung Quốc vượt biên giới, trực tiếp tham chiến đấu trên chiến trường Triều Tiên. Thực hiện thỏa thuận, ngày 1-11-1950, Không quân Liên Xô tham gia trận chiến đấu đầu tiên. Sau khi Chí nguyện quân Trung Quốc và Không quân Liên Xô nhập cuộc, cán cân quân sự bắt đầu cân bằng, cuộc chiến giằng co, rơi vào tình trạng bế tắc, việc kết thúc chiến tranh bằng giải pháp chính trị trở nên cấp thiết. Ngày 10-7-1951,tại Kaesong, đại diện của các bên bước vào đàm phán, tuy nhiên, diễn tiến đàm phán hết sức chậm chạp. Vào tháng 5-1952, các bên đã đạt được thỏa thuận trên hầu hết các điều kiện, ngoại trừ số phận của tù nhân chiến tranh, song phải mất hơn một năm, đến tháng 6-1953, mới thống nhất được quan điểm để ngày 27-7-1953ký kết thỏa thuận ngừng bắn.
Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến có khoảng thời gian đàm phán tương đối kéo dài (hai năm) đặt trong so sánh với  toàn bộ chiều dài cuộc chiến (ba năm, hai tháng), bởi”cuộc chiến tranh giằng co sẽ hạn chế tiềm lực quân sự của Mỹ ở Châu Âu, tiêu hao các nguồn lực kinh tế và tạo ra những khó khăn chính trị cho Chính quyền H.S.Truman”. Cuộc chiến kéo dài “làm chảy máu nước Mỹ(…) Sau chiến tranh Triều Tiên, người Mỹ sẽ không còn khả năng tiến hành những cuộc chiến tranh lớn”, “làm tăng lên sự thù địch giữa Mỹ và Trung Quốc,đồng nghĩa với sự gắn bó ngày càng chặt chẽ giữa Bắc Kinh và Moscow, làm giảm đáng kể sự nhòm ngó của Mỹ và các nước phương Tây đối với Châu Âu – nơi được mệnh danh là “trái táo bất hòa” giữa hai cường quốc thế giới Xô – Mỹ, tạo điều kiện để Liên Xô củng cố vững chắc vùng đệm Đông Âu. Bên cạnh đó, theo lý thuyết tiến hành cách mạng vô sản trên phạm vi toàn cầu, “chiến tranh Triều Tiên chính là một phần kế hoạch cách mạng thế giới của I.V Stalin; vì vậy, những cuộc thương lượng hòa bình chỉ là hình thức”.
4Lợi ích và hệ lụy từ chiến tranh Triều Tiên
Chính thức, Liên Xô không tham gia vào chiến tranh Triều Tiên, song cuộc chiến đã tác động đến Liên Xô trên nhiều phương diện.
Chiến tranh Triều Tiên là phép thử đối với quan hệ Trung – Xô. Đề nghị hỗ trợ không quân, bảo vệ Chí nguyện quân từ trên bầu trời của Trung Quốc bị Liên Xô trì hoãn: “Liên Xô không thể có ngay lực lượng không quân đủ để bảo vệ những nơi mà Trung Quốc yêu cầu. Liên Xô có thể bảo vệ một số cụm công nghiệp của Trung Quốc và bảo vệ vùng biên giới Trung Quốc giáp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nhưng cần có thời gian chuẩn bị”. Câu trả lời khiến Trung Quốc phải đối diện với một sự thật tàn nhẫn: Quân đội Trung Quốc sẽ phải chiến đấu mà không có sự đảm bảo từ trên không, phải thu hẹp phạm vi hoạt động, hạn chế hiệu quả chiến đấu, có khả năng thương vong cao. Mao Trạch Đông “không còn sự lựa chọn nào khác ngoài cố gắng nuốt trôi trái đắng của sự phản bội”. Đó cũng là cơ sở để khẳng định “những mầm mống mâu thuẫn Trung – Xô trong tương lai đã được gieo từ những ngày đầu tiên hợp tác hai nước trong chiến tranh Triều Tiên”. Trái với mong đợi của Trung Quốc, Liên Xô không cung cấp viện trợ quân sự không hoàn lại. Sau chiến tranh, Trung Quốc nợ Liên Xô 650 triệu đô la- đó thực sự là gánh nặng đối với nền kinh tế Trung Quốc vốn lạc hậu, đang cần nguồn lực phát triển. Mặc dù Trung Quốc tham chiến chủ yếu bởi các tính toán chiến lược riêng, song các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn không thể gạt đi cảm giác bất mãn do hành động và thái độ của Liên Xô. Trung Quốc ra khỏi chiến tranh với nhận thức Liên Xô là một đồng minh không đáng tin cậy.
Liên Xô thành công trong việc biến Mỹ trở thành kẻ thù số 1 của Trung Quốc. Hai nước duy trì quan hệ thù địch trong gần 30 năm, đánh mất cơ hội đối thoại và ngoại giao. Sau chiến tranh, Liên Xô vẫn giữ nguyên ảnh hưởng ở Bắc Triều Tiên (song ảnh hưởng của Trung Quốc tại đây cũng lớn dần); đồng thời, nâng cao đáng kể uy tín đối với các nước đang đấu tranh giải phóng dân tộc. Chiến tranh Triều Tiên tạo ra một lực cọ sát các mối quan hệ quốc tế của Liên Xô, khiến Liên Xô trở nên có nhiều đối thủ hơn (quan hệ Xô – Mỹ ngày càng thù địch, quan hệ Xô-Trung xấu đi trông thấy, Liên Xô và Nam Triều Tiên không thể xích lại gần nhau).
Chiến tranh Triều Tiên là cơ hội để Liên Xô thử nghiệm một số vũ khí mới, đặc biệt là máy bay chiến đấu MiG-15.Trên chiến trường Triều Tiên, Liên Xô thu lượm khí tài – chiến lợi phẩm, nghiên cứu chế tạo, phát triển vũ khí tối tân. Các chuyên gia, cố vấn và phi công Liên Xô tích lũy nhiều kinh nghiệm chiến đấu bổ ích.
Chiến tranh Triều Tiên phần nào thay đổi cách nhìn của Liên Xô đối với thế giới, Liên Xô cổ vũ cho chính sách “chung sống hòa bình” giữa các nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau. Tháng 4-1952, I.VStalin tuyên bố: “Cùng tồn tại hòa bình và hợp tác giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn có thể, nếu như hai bên đều có mong muốn và tuân thủ nguyên tắc bình đẳng, không can thiệp vào công việc nội bộ mỗi bên”.
Cuộc chiến tranh “đã mang đi sinh mạng của 9.000.000 người Triều Tiên, gần 1.000.000 Chí nguyện quân, 54.246lính Mỹ, 299 sĩ quan Liên Xô, để lại thương tật cả đời cho hàng triệu người”, khiến mỗi người dân trên bán đảo Triều Tiên thêm khao khát và trân trọng giá trị của hòa bình. Song, hòa bìnhkhông đến dễ dàng từ hy vọng và nguyện vọng. Hòa bình chỉ được xây nên từ nỗ lực của mỗi người, của cả cộng đồng với sự tỉnh táo, quyết tâm loại trừ chiến tranh và trái tim biết tha thứ.
VHNST

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: