Nhà văn Nguyễn Bản và cái
"vạ" văn chương!
Trần
Huy Thuận
Vạ là một danh từ, nói về
những tai hoạ bỗng dưng ập đến cuộc đời một người, một nhóm người, buộc họ phải gánh chịu một cách oan
uổng. Cùng miêu tả điều oan trái đó, còn có danh từ "vạ vịt" và động từ "vạ
lây". Đó đều là những tai hoạ không may, không do "đương sự" chủ
ý gây ra. Nói một cách khác, đương sự không phải là kẻ "chủ mưu" hay
"tác giả" của những sự việc, vấn đề... trực tiếp gây nên cái "vạ"
đó. Có vạ nhỏ, nhưng cũng có vạ tày đình. Vạ nhỏ - chả nói làm chi: Con người
ta vốn sớm nhận thức, "Đời là bể khổ" mà!. Vạ tày đình thì
"gánh" chịu hết cuộc đời, có khi. Thày giáo, nhà văn Nguyễn Bản là
một người như thế.
Nguyễn Bản sinh năm 1931,
tại Bắc Ninh. Mười tám tuổi theo học trường Sư phạm Trung cấp Trung ương trên
chiến khu Việt Bắc. Hai nhăm tuổi tốt nghiệp khoa văn Đại học sư phạm Hà Nội,
cùng khoá với nhiều người sau này trở thành những nhà văn, nhà giáo "tên
tuổi"; được phân công về dạy ở trường cấp III Hàn Thuyên Bắc Ninh - tỉnh
nhà. Là cán bộ kháng chiến, lại dạy giỏi, lại viết văn hay, lại "hào hoa
phong nhã" nữa, nên Nguyễn Bản rất được đồng nghiệp, bạn bè và học sinh
yêu mến, kính trọng. Và anh đã lọt mắt xanh một người con gái diễm kiều, để chỉ
một thời gian ngắn sau, hai người nên duyên vợ chồng.
Hạnh phúc của họ chắc sẽ
êm đềm trôi trong cõi mơ, nếu như đất nước không xẩy ra vụ "nhân văn giai
phẩm"! Đấy là một vụ án văn chương - chính trị, mà những người chủ chốt
sau một thời gian bị kết tội, bị treo bút, bị đầy ải,... đến nay hầu hết đã
được "trả lại" danh dự, công việc, lương lậu,... Trong đó có nhiều
người đã được trao tặng những giải thưởng cao quý! Còn kẻ bị vạ lây thì sao?
Nguyễn Bản là một kẻ bị vạ
lây. Đó là điều hoàn toàn có thể khẳng định, bởi anh chưa bao giờ là thành viên
của nhóm "nhân văn giai phẩm", cũng không hề có bài đăng trên các báo
ấy. Anh chỉ mê một số bài viết của họ. Từ mê, anh lại muốn truyền cái cảm thụ
đó của mình cho đám học sinh thân yêu. Thế là trong một lần cao hứng, sau khi
giảng xong bài thơ "Ta đi tới" của Tố Hữu, Nguyễn bản đã "ngoại
khoá" cho các học trò của mình nghe bài thơ "Lời mẹ dặn" của
Phùng Quán. Ai đó đã tố cáo chuyện ấy lên trên. Thế là một bản án không thành
văn giáng xuống đầu thầy giáo trẻ - "một cú đòn âm", như cách gọi của
nhà văn Hoài Anh. Nguyễn Bản không chống cái gì và cũng không a dua theo ai để
chống bất cứ một ai. Thấy bài thơ "Lời mẹ dặn" có tứ hay, thì anh
thích và muốn truyền cái thích ấy cho mọi người, thế thôi. Ngay từng câu từng
chữ trong "Lời mẹ dặn" cũng chả hề chứa chút nội dung
"chống" nào cả, ngoài chống thói dối trá, thiên thẹo:
Con ơi một người chân
thật
Thấy vui muốn cười cứ
cười
Thấy buồn muốn khóc là
khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông
chiều
Cũng không nói yêu
thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét
thành yêu.
Theo cách nói của dân
gian, cái tội vạ lây ấy của Nguyễn Bản, là thứ vạ miệng - do cái miệng gây nên!
Sau đó, Nguyễn Bản vẫn
được hành nghề dạy học, nhưng là dạy bổ túc cho cán bộ, rồi về "hưu
non". Là sinh viên khoa văn khoá đầu, được đào tạo bài bản để trở thành
người thầy cho các nhà văn, nhà báo sau này, Nguyễn Bản còn là người có năng
khiếu văn chương và dịch thuật như ta biết; vậy mà cái "đòn âm" đã
loại anh ra khỏi cả cái chân "hội viên" Hội văn nghệ địa phương!
Người bạn đồng môn thân thiết thời nhỏ, tuy không được học hành đến nơi đến
chốn, lúc ấy đang làm chức
lãnh đạo cấp cao của tỉnh, nhưng đã không những không có được cái đức của Dương
Lễ đối với Lưu Bình - Nguyễn bản, mà còn muốn bạn cũ "mở mắt" ra mà
xem, đừng tưởng cứ có học vấn cao là muốn gì cũng được đâu! Rồi đến cái cứu
cánh cuối cùng là hạnh phúc gia đình, cũng tiếp tục bị vạ lây: trước sức ép của
đời sống quá khó khăn, sức ép của dư luận về tội ảnh hưởng "Nhân văn giai
phẩm" của chồng, người vợ anh đã không chịu đựng nổi: Nàng đang là
"đối tượng" phấn đấu về mặt chính trị, nàng lại không có được cái cốt
cách quý báu của Bội Trâm, người vợ yêu của Phùng Quán, người đã hết lòng cùng
chông gánh chịu mọi tai hoạ, mọi khó khăn - và có thể nói không quá rằng, không
có Bội Trâm, chắc không thể có một Phùng Quán như chúng ta đã biết. Vợ Nguyễn Bản
tỏ ra rất bất mãn với việc làm của chồng, liên tục dày vò, dằn vặt anh. Cuối
cùng, để "giải thoát" cho nhau, sau nhiều ngày tự đấu tranh tư tưởng,
Nguyễn Bản đã lặng lẽ chia tay vợ, đẻ lại cho chị và các con toàn bộ nhà cửa,
tài sản, ra đi tay không! Tìm đến tá túc nhà bạn tại một ngõ hẻm suốt mấy chục
năm trời, cho đến tận những năm chín mươi của thế kỉ trước, mới may mắn được cô
con gái lớn thương tình, cố gắng gom góp, vay mượn mua cho bố mảnh đất mười mét
vuông cạnh nhà mình và cất cho ông một gian nhà mà nhà thơ Nguyễn Khôi đặt tên
là "Hộp diêm"! Khi ấy nhà văn của chúng ta đã bước qua tuổi sáu mươi!
Vậy là từ ấy Nguyễn Bản được về sống bên con cái, được con cái chăm sóc, không
còn cô quạnh trong túp lều ở nhờ bạn bè nữa. Cuộc đời ông như vậy, kể ra cũng
là "có hậu"!
Đằng đẵng chịu cái gọi là
"đòn âm" mấy chục năm trời , Nguyễn Bản vẫn không rời cây bút: Văn
chưong như cái nghiệp chướng, quấn chặt cuộc đời anh. Anh là một "cây
viết" truyện ngắn có cá tính, để lại nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Nguyễn
Khải nhận xét truyện "Ánh trăng" của anh như sau: "... được viết
bởi cây bút lão luyện nên nó giản dị, nó thật, đọc lời thoại mà như sờ nắn thấy
người". Nguyễn Khôi, nhà thơ đồng hương thì đánh giá: "Ở Nguyễn Bản,
ta có cảm tưởng anh đang nối tiếp dòng của Thạch Lam với "Gió đầu
mùa", chỗ khác của Nguyễn Bản là những cuộc tình thường éo le, trắc
trở...."[1]. Một số truyện của ông đã được dịch ra tiếng nước ngoài. Nhưng
Nguyễn Bản không chỉ sáng tác, mà còn dịch thuật. Anh từng tâm sự: " Tôi
đã từng dịch thuê “tạp nham” đủ loại bằng tiếng Anh như: tài liệu kỹ thuật,
những truyện trinh thám cho NXB Công An như Vụ giết người trên chiếc thuyền
hoa, Những kẻ giết người bệnh hoạn, Trước toà pháp đình để kiếm tiền"[2].
Dù sáng tác hay dich, cây bút Nguyễn Bản cũng luôn thể hiện là một người tài
hoa và có trách nhiệm; đau đáu với đời, hướng về những lớp người nghèo khó, lam
lũ. "Vì sống khá lặng lẽ tại một ngõ nhỏ của Hà Nội nên văn của ông phảng
phất cô đơn, tiềm ẩn xúc cảm số phận con người trong đường đời, đường
tình"[3]. Cuộc đời đã tạo nên tính cách anh, với một tâm hồn vị tha và
khép kín.
Những người trực tiếp làm
báo "Nhân văn giai phẩm" giờ đã kẻ còn người mất, nhưng thảy đều đã
được đắp đền bằng những giải thưởng này giải thưởng kia. Còn bao nhiêu kẻ vạ lây
như Nguyễn Bản, vẫn cô đơn cầy cuốc trên mảnh vườn văn chương gập ghềnh sỏi đá.
Giá như hồi ấy anh có một vài bài đăng trên báo Nhân văn hoặc tạp san Giai
phẩm, chắc có khi anh cũng được xét tặng một cái gì đấy. Thậm chí còn được ai
đó bỏ tiền ra, thuyết phục anh để họ được mua tác phẩm của anh như đã từng làm
với Hữu Loan[4], chưa chừng!
Bây giờ đã là những tháng
cuối của năm sát kề thập niên thứ hai thế kỷ hai mươi mốt. Không còn mấy thời
gian nữa, Nguyễn Bản sẽ vào tuổi "bát thập". Sức viết, sức sáng tạo
của anh vẫn rất tràn đầy, với rất nhiều dự định. Chúng ta sẽ còn được đọc từ
anh nhiều tác phẩm mới, kể cả sáng tác lẫn dịch thuật. Đấy không chỉ đơn thuần
là lời chúc, mà còn là sự trông đợi. Chắc chắn là như thế! ./.
(NGANG QUA CUỘC CHƠI)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét