Người làng chẳng ai biết
bà từ đâu đến. Thời chiến tranh ở vùng xôi đỗ giữa Việt minh và tề ngụy này đó
là việc thường. Người làng dắt díu nhau đi tản cư, người nơi khác lại đến.
Người ta gọi thời đó là thời loạn lạc. Không mấy ai bụng dạ nào để ý đến chuyện
người khác. Tọc mạch vào những lúc như thế này chẳng lợi lộc gì, có khi còn
mang họa vào thân. Chỉ thấy bà bảo tên là "Đường”, con trai: "Anh cu
Đậu". Tuyệt nhiên không nói gì đến bố “Anh cu” là ai?Hai mẹ con
bà ở ngoài rìa làng. Chỗ ấy ba bề là nước, một bên là đầm cò sen xanh bát ngát.Một bên là đồng trũng,
lúa chỉ cấy một vụ, còn thì cỏ lác, bông súng
bạt ngàn, trứng cà cuống chi chít trên những cọng cỏ. Chỉ có một lối đi
duy nhất nối với con đường làng hun hút sau rặng tre gai.
Gò đất này xưa kia là cái điếm trông cá của
làng. Gọi là đầm cò nhưng có chỗ nước rất sâu, không mấy ai lặn được tới đáy
bao giờ. Tôm cá nhiều vô kể.
Có lần người ta câu được
con cá gần cả yến, vảy cá vàng ánh lên như giát bạc, đuôi cá đỏ thắm như son,
hai cái râu to như ngón chân gà, dài cả gang tay người lớn.
Hai mẹ con bà ở nơi như
thế ai cũng ái ngại. Chỗ ấy đâu phải là nơi để đàn bà, trẻ con sinh sống?
Bà bảo không thích chỗ
đông người!
Với lại nơi này dễ kiếm
sống, chỗ thoáng đãng trẻ con hay ăn, chóng lớn. Khi ấy anh cu Đậu mới lẫm chẫm
biết đi, mới bập bẹ được đôi câu "ăn, "bầm "..
Thuyền thúng không có, lưới
cũng không, bà Đường sống bằng mò trai bắt ốc trong đầm. Bà mò trai giỏi lắm!
Chỉ một buổi trưa đến chiều bà bắt được lưng thúng cả ốc cả trai .
Sáng sớm hôm sau bà quảy
đôi thúng một bên là trai ốc, một bên là cậu quý tử của bà. Cũng chẳng biết gửi
anh cu Đậu cho ai cả.
Đến chợ bà ngồi chỗ gốc
cây gạo còng, bán một lúc là hết ngay.
Thời bấy giờ cua ốc chưa
là đặc sản như bây giờ, nó là món khoái khẩu của người nghèo, mà lại rẻ tiền,
nên bán không khó. Chỉ tội chả được mấy đồng tiền. Người mua thường đi rất sớm,
về còn kịp làm đồng.
Anh cu Đậu ngồi gần mẹ,
tay mân mê cỗ tò he xanh, đỏ, tím, vàng. Chơi chán rồi ăn thứ đồ chơi làm bằng
bột gạo nhuộm phẩm có vị ngòn ngọt, đăng đắng đó.
Khi anh cu Đậu ăn xong
cũng là lúc bà Đường bán xong thúng trai ốc. Bà đong vài đấu gạo, mớ rau, không
quên mua cho anh cu mấy cái bánh hòn. Loại bánh làm bằng bột gạo tẻ, có nhân
hành trộn mỡ. Bà bảo trẻ con ăn thứ bánh này mát da mát thịt.
Ăn nhiều bánh hòn đến
thế mà da dẻ anh cu mỗi ngày một đen, cứ bóng lên như đánh xi vậy!
Đã có người gọi anh là
" Đậu đen ". Có kẻ độc miệng gọi anh
cu là tây lai, vì da anh đen đã đành, tóc lại xoăn nữa. Thời đó tây lai chẳng hiếm, mỗi trận càn bọn lính Lê dương để lại các
làng chúng đi qua vài đứa trẻ, hậu quả của các cuộc bắt bớ, hãm hiếp. Bà Đường biết chuyện xì
xầm của họ cũng chẳng bận tâm. Bà bảo: “Lấp ao, lấp
giếng, ai lấp được miệng thế gian?”
Nói thì nói thế, chứ đêm
anh cu hay thấy mẹ âm thầm khóc. Nước mắt bà chảy ướt vai áo gụ, cu Đậu hỏi :
“Sao mẹ khóc ?” Bà lại bảo “ Mẹ không sao, chỉ hơi rức cái răng!”
Tôi chơi với anh cu Đậu
là vì hay cùng nhau tắm ở đầm Cò.
Sau này tôi có vài lần
tắm biển, nhưng tôi cược rằng không đâu bằng tắm đầm Cò quê tôi! Nước vừa mát,
vừa sạch, xanh trong không bút nào tả nổi, chỉ trông thôi đã lịm đi rồi!
Ở bãi biển bây giờ
thường ô nhiễm nhiều, bọt rác, túi ni lông ngập ngụa. Gọi là tắm biển cho sang
chứ chưa chắc gì có lợi cho sức khỏe!
Năm biết anh cu Đậu, tôi
đã mười ba tuổi. Anh hơn tôi hai tuổi, nhưng đã có vẻ người lớn lắm rồi. Đứng
gần nhau, anh hơn tôi một cái đầu. Đi cứ ngênh nghênh. Hai cổ tay vuông, chắc
như hai cái chổi bừa. Bọn trẻ cùng lứa đứa nào cũng khiếp anh.
Nhưng anh tử tế, thường
hay bênh vực đứa bé, không ăn hiếp kẻ yếu hơn mình.
Anh bắt cá rất tài tình,
chỉ bằng tay không. Hai tay giơ lên trời, nhón thẳng hai bàn chân, nhắm mắt
lại, anh lặn theo kiểu thẳng đứng như thế. Hai bàn chân bàn cuốc của anh để lại
hai hàng lỗ sâu hoắm dưới bùn. Đoạn anh bảo chúng tôi mở một vòng vây
rộng, đứa nào đứa ấy khua nước loạn xạ, ầm ĩ một hồi.
Lũ cá hoảng sợ, cắm đầu
chui cả vào hang hố trong bùn. Lúc ấy anh mới lặn xuống tóm gọn từng con.
Thường là bắt được cá trê, cá riếc. Lũ cá rô, cá mương ranh ma ít khi tóm được.
Chúng tôi vơ một đống gốc rạ, lá sen khô nổi
lửa nướng cá ăn. Đứa nào đứa nấy đánh độc chiếc quần đùi, mặt mũi lọ lem, trông
rất buồn cười.
Chán ăn cá, Đậu đen bày trò diễn kịch. Đó là
thời khắp nơi đang có phong trào văn
nghệ quần chúng. Xã nào cũng có một đội văn nghệ. Tiết mục khi là cải lương,
lúc hát chèo. Chúng tôi bắt chước y hệt người lớn, chỉ tội không có phông bạt,
nhạc cụ gì cả. Mũ mão vua ban được chắp bằng lá mít, bộ râu của quan đại thần
thì làm bằng râu ngô, đôi hài xung trận của võ tướng bằng mo cau khâu lại.
Anh cu Đậu đen trùi trũi
đóng vai hoàng tử, tôi nhỏ con đóng giả làm công chúa. Cả đoàn "Văn công
" chúng tôi duy nhất anh đậu biết ca cải lương. Thằng Oanh con lão Kim
vàng (Gọi như vậy vì ông này có mấy cái răng cửa bịt vàng) chỉ biết đánh đàn
bằng miệng " Từng .. tứng, . từng ..tứng ..tưng ".
Về sau anh Đậu kiếm đâu
được cây sáo, tiếng sáo của anh véo von, tận đầu làng còn nghe thấy.
Chơi chán chúng tôi kéo
nhau về nhà anh. Nhà chỉ có hai gian, mái lợp rạ, cửa che bằng cái nong to,
không khóa bao giờ. Anh cu Đậu lôi ra một rổ khoai nguội, chỉ một loáng chúng
tôi giải quyết xong!
Mỗi đứa làm một gáo nước
mưa hứng từ cây cau trước nhà. Ngả chiếc nong che cửa chúng tôi ngồi nghe Đậu
đen kể chuyện.
Những chuyện này anh được mẹ kể cho nghe
những đêm mưa gió, không đi chơi đâu. Toàn những chuyện "Tống Chân Cúc Hoa, Tấm Cám, Thạch
Sanh .."
Trong con mắt của trẻ
con trong làng, anh Đậu thật hiểu biết, thật giỏi giang, thật đáng mặt đàn anh!
Một tối tôi đang bảo cho thằng em học bài. Bố tôi mất sớm, mẹ tôi chỉ có mình tôi là con
đẻ. Đứa em là con nuôi. Một hôm đi họp về qua bãi ngô, mẹ tôi nghe có tiếng trẻ
con khóc, bà mang về nuôi. Nó khỏe mạnh hơn tôi, trùng trục như cối lỗ. Nhưng
học thì như nước đổ đầu vịt. Đến lớp nó cứ há mồm ra, chảy rớt chảy dãi, nhưng
chẳng nhớ được gì cả. Nên về nhà chẳng bao giờ nó tự làm được bài. Sách, vở của
nó quăn queo nhàu như giẻ lau bảng. Mẹ tôi bắt tôi phải kèm nó: "Mất tiền
đóng gạo góp, em nó học kém, chả thiệt cho nhà mình à?". Tôi đành phải từ
từ bảo nó. Nếu tôi gắt lên, nó càng cuống, đực mặt ra. Đang lúc bực mình như
thế anh cu Đậu đến. Anh bảo "Đi với tao một lúc". Tôi nói: "Mẹ
em đi họp vắng, nhà chỉ có hai anh em. Thằng này sợ tối...". Anh gạt đi:
"Bảo nó đóng cửa lại, trùm chăn kín đầu, sợ cái gì". Thằng em tôi im
thin thít. Nó không đồng ý nhưng không dám nói. Nể anh Đậu, tôi đành dặn nó ở
nhà. Trời không trăng sao nên tối đen như mực. Điều đó với chúng tôi không đáng
kể. Mắt trẻ con vẫn nhận ra đường. Cứ nhìn lên ngọn tre hai bên đường in lên
nền trời là nhớ ra lối đi ngay. Anh Đậu bảo về nhà anh đã. Bà Đường đi vắng.
Anh nói: "Mẹ tao đi nhể đậu lào cho bà Hai còng, khuya mới về." Anh
sửa soạn một cuộn dây, một cái bao và cái xô rách bằng sắt. Tôi hỏi:" Đi
bắt cá à" anh bảo"ừ". Tôi lặng lẽ đi theo anh.
Đến một cái ao cạn nước
không sâu lắm, anh bảo tôi đứng đợi. Anh lội xuống vục một xô bùn rồi xách lên.
Tôi chẳng hiểu ra làm sao, nhưng chẳng dám hỏi. Hai anh em đi về phía bìa làng. Chỗ có cái nhà thò
ra, nền đất rất cao. Chơi với nhau đã rất lâu nhưng nhiều
chuyện anh cu Đậu làm, tôi thật bất ngờ. Lần này
nữa không biết anh giở trò gì nữa đây?.
Chúng tôi ngồi sau bụi
chuối cạnh ngôi nhà đó cả tiếng đồng hồ. Chợt có tiếng chó sủa râm ran trong
làng. Có người đi xe đạp tới. Đèn pha xe đỏ như con đom đóm đực, chỉ đủ soi một
khoảng ngắn trước xe. Anh cu Đậu bảo: "Lão Kim đấy". Ai chứ lão Kim
tôi không lạ gì, lão này là phó công an xã, tính hoắng mà hách lắm. Mấy lần
hoạnh chúng tôi về việc bắt cá đầm Cò. Lão thả hết thùng cá xuống đầm, còn dọa
lập biên bản đưa về huyện. Lão làm việc ráo riết lắm. Nhưng lão có tật hay mò
đàn bà, con gái. Vợ lão tươi tốt là thế, chẳng hiểu vì sao lão vẫn tòm tem mấy
bà góa chồng?
Một lần lão mò cả đến
nhà anh cu Đậu, bị bà Đường mẹ anh trát cho một trận. Vậy mà vẫn không chừa,
vẫn tìm cách lân la. Anh cu Đậu căm lắm. Thường kiếm cớ đánh thằng Oanh con
lão. Giờ gặp lão ở đây không biết anh cu Đậu định làm gì? Tôi có ý định hỏi,
anh lấy tay bịt miệng tôi lại. Tôi đành lặng im.
Ngôi nhà trước mặt chúng tôi là nhà bà
Phúc. Bà này chồng hy sinh chiến dịch Điện Biên Phủ, chỉ có hai mẹ con.
Tôi lờ mờ hiểu ra ý định của anh cu Đậu.
Nền nhà bà Phúc rất cao. Chắc là đổ đất đề phòng nước ngập. Cái dốc lên nhà xe
phải dắt, không đi xe được. Lão Kim giấu xe vào bụi chuối rồi đi thẳng lên nhà,
không hề gọi cửa. Đợi một lúc lâu anh cu Đậu mới rỉ tai tôi: "Cho lão này
bài học". Anh đưa tôi cuộn dây, dặn chốc nữa giữ chặt một đầu.
Nhà bà Phúc không có chó nên chẳng ai
biết chúng tôi nấp ngay ngoài cổng. Trong nhà cũng yên ắng như không có ai vào.
Chắc hẳn lão Kim đã từng vào đây nhiều lần. Anh Đậu bảo "Tao để ý kĩ
rồi, không sao đâu, đừng sợ". nhưng tôi vẫn chưa biết anh định làm gì. Đã đi với anh đến đây rồi, đành phải
theo ý anh thôi. Anh cu Đậu lấy xô bùn sau bụi chuối ra đổ lên đầu ngõ, rồi xoa
xuống dốc một lượt. thứ bùn đen nhão nhoẹt, có biết trước đi vẫn còn trơn.
Hai chúng tôi nấp sau bụi chuối đầu ngõ.
độ khoảng canh giờ có tiếng kẹt cửa. lão Kim lò dò đi ra. lão đi nhanh như ma
đuổi. đến đầu ngõ lão vấp phải sợi dây, ngã xoài ra, miệng chỉ dám khẽ a a
không dám lên tiếng. anh cu Đậu chạy vụt ra chụp cái bao tải gai lên đầu lão.
Bị bất ngờ lão chui tọt vào bao. anh cu Đậu cầm một đầu dây quấn quanh bao vài
vòng rồi buộc túm miệng lại. Lão Kim ra sức giãy giụa trong bao, nhưng không
dám kêu.
Anh cu Đậu hẩy cả chiếc
xe đạp giấu trong bụi chuối, rồi kéo tôi chạy về. trong lúc sơ ý, lại vội,
chúng tôi bỏ quên chiếc xô hàng ngày mẹ anh vẫn đi bán ốc. Vì thế về sau lão
kim biết ai là người hại lão và để ý thù. Có lần lão sai dân quân nhốt anh ở ủy
ban xã vì tội đánh đổ máu cam một bạn cùng học vì thằng này nói anh là con lai.
Nhưng anh chưa đến tuổi vị thành niên, đến tối lão đành phải thả. Tôi tưởng anh
sợ, anh vẫn hề hề cười:"Làm đếch gì được tao"!
Những ngày yên tĩnh đi
qua rất nhanh. Đất nước lại đi vào chiến tranh. Kỳ này cực kỳ gian khổ. Có thể
phải: " Đốt cháy cả dải Trường Sơn"! Chúng tôi đã đến tuổi tòng quân,
gác bút lên đường trong màu áo lính. Bộ quần áo rộng thùng thình, nhưng đứa nào
cũng hãnh diện lắm.
Anh Đậu và tôi cùng nhập ngũ một ngày. Anh sức
vóc hơn tôi được điều về đơn vị vận tải, huấn luyện mãi trên trường lái xe Ba
Vì. Tôi về đơn vị thông tin. Sau chuyển sang đơn vị pháo cao xạ. Bảo vệ thủ đô. Đôi lần về thăm nhà gặp nhau anh còn thuộc
và ngâm rất hay bài thơ :"Tiểu đội xe không kính".
Thời tiếp vận ra chiến
trường lái xe được cả nước trọng vọng. Mai ngày chiến tranh kết thúc anh còn có
nghề bảo đảm cho tương lai. Còn tôi là thằng lính thông tin, hết rải lại cuộn
dây, công việc rất bình thường, mai ngày có dùng làm kế sinh nhai? Ấy là tôi
nghĩ vậy chứ không hề có ý ghen tỵ với anh.
Năm sau đơn vị tôi ra cảng bảo vệ Hải Phòng, rồi ra Quảng Ninh. Đời
chinh chiến anh và tôi ít gặp nhau.
Cuối năm ấy tôi bị
thương. An dưỡng ba tháng. Tôi được đơn vị cho về thăm nhà. Làng xóm đến chơi
rất đông. Bà Đường mẹ anh Đậu cũng đến thăm, cho tôi cân đường hộp sữa. Tôi hỏi
chuyện về anh, bà tần ngần không nói. Mãi sau bà mới chép miệng :"Hỏi
chuyện nó làm gì, cháu còn mệt cứ nghỉ ngơi đã. Khi nào nó về, tao sẽ bảo nó
đến chơi" Tôi đoán có điều gì uẩn khúc. Hôm sau thằng Oanh đến chơi với
tôi bảo:"Tay Đậu đen đảo ngũ rồi, bây giờ
đang cải tạo trên Đồng Mô."Tôi không tin người như anh Đậu lại là kẻ hèn
nhát, “B quay” ! Tôi hỏi nó: "Có thật không" Nó bảo: "Cả làng
này biết, tao nói sai làm gì". Rồi nó kể cho tôi nghe mọi chuyện..
Đơn vị anh Đậu lần ấy chở xăng vào chiến
trường. Xe anh cũng chở một téc đầy, mấy nghìn lít xăng. Đáng lẽ ở chỗ tập kết
chờ đến đêm hành quân, anh lại lái xe về làng. Đường đê mưa trơn, xe chỉ có đèn
gầm, đến chỗ rẽ từ trên đê về làng, anh cho xe xuống dốc. Phanh xe không ăn lại
thêm trơn trượt, cái xe của anh lộn vòng xuống ruộng. Nó lật ngửa, chổng bốn vó
lên trời. Người, xe không việc gì nhưng mấy ngàn lít xăng tháo hết xuống ruộng.
Hôm sau đơn vị phải cho xe về kéo lên. Annh Đậu bị kỉ luật, sinh ra chán nản.
Anh bảo:"Số tao chẳng ra gì, chiến trường bom đạn như thế, đường như đường trên mặt trăng
mà xe chẳng sao, về làng tềnh tềnh thì xe lại đổ".
Xe xăng mấy ngàn lít
chảy tràn xuống ruộng, chỉ hứng vớt vát được vài chục lít. Làng tôi nghèo, có
ai làm gì có sẵn phuy đựng xăng? Xô chậu không thể làm đồ chứa, xăng bốc hơi
rất nhanh.
Thời xăng được coi như
máu, mất cả xe xăng đâu phải chuyện đùa? Anh Đậu như người ta
nói, mất cả chì lẫn chài. Sao gạch tuột hết , mất
luôn quyền lợi chính trị . Chịu xong cái án kỷ
luật, anh bỏ về làng. Đáng lẽ phải về đơn vị
làm lại từ đầu, xe xăng đã đổ có hốt lại được đâu? Danh dự đã mất, khó bề
làm lại. Chẳng ai lạ gì khi có vết, muốn vươn lên cũng khó! Đấy mới chỉ nghĩ đi,
chưa nghĩ lại. Anh thành tên đảo ngũ. Nếu như có người động
viên kịp thời, có thể anh đã trở về đơn vị.
Lúc này lão Kim đã lên
chức phó chủ tịch, trưởng công an xã. Lão chẳng đả động gì đến
tâm tư, nguyện vọng của anh, cứ gọi thẳng lên xã.
Anh bị mạt sát đủ điều,
lão còn tỷ: "Người như anh không sai phạm mới là chuyện lạ ! Người ta cũng
như vạn vật ở đời đều có xuất xứ, nguồn gốc, tính cách cũng từ đó mà nảy
sinh!"
Anh muốn nhổ vào mặt
lão, muốn hét to lên với lão rằng: " Tính cách tôi thì sao ? Tôi có nông
nổi hồ đồ cũng không nhớp như ông! Nhưng anh không nói, cứ trơ lì ra, lão lại
càng tức!
Cuối cùng lão bảo:
"Nếu anh không về đơn vị tôi sẽ cho anh đi cải tạo". Anh nghĩ :" Lão dọa
mình đây, làm gì mà mình phải đi cải tạo? Đã thế, để xem, lão làm gì mình
" Không ngờ lão làm thật.
Lão Kim là con nuôi
Chánh Hào. Chánh Hào ba vợ đều sinh con gái. Kim là cháu họ gọi Chánh Hào bằng
bác. Chánh Hào quý hóa Kim như con đẻ. Kim được ăn học hẳn hoi, Chánh Hào cho
Kim lên tỉnh học. Thời bấy giờ học đến “đíp lôm” ở làng này rất hiếm. Chỉ có
ông Thừa Bính và Kim. Ông Thừa Bính làm thừa phái cho quan huyện. mấy lần Chánh
Hào xin việc làm cho Kim dưới Hà Đông ở chỗ quan phủ, nhưng Kim không chịu. Bản
tính thích ngao du. Kim chơi với đủ hạng người. Khi Nhật đảo chính Pháp, Kim bị
bắt giam vào hỏa lò Hà Nội. Chánh Hào mất nhiều tiền của mới chạy cho Kim ra
được. Cũng từ dịp này Kim quen với một người là cán bộ Việt Minh. Năm khởi
nghĩa không biết bằng cách nào Kim có chân trong Ủy ban Cách mạng của tổng, gồm
ba xã tronng huyện. Thời kỳ Mặt Trận Liên Việt, cuộc đấu tranh giai cấp chưa
nóng bỏng. Còn có thành phần địa chủ kháng chiến trong Mặt Trận Liên Việt.
Chánh Hào giúp Kim tham
gia công tác của Việt Minh. Chánh Hào ngày làm việc cho địch, đêm hoạt động cho
ta. Từ sau giảm tô năm 1953. Thái độ của giai cấp địa chủ khác hẳn. Ruộng đất
là chuyện sống còn, phân rõ giai tầng ở mọi làng quê. Chánh Hào quay sang chống
lại kháng chiến.
Một buổi tối có tốp lính
đồn kéo vào nà Chánh Hào. Năm gian nhà ngối đèn mang sông sáng trưng, nhà Chánh
Hào đang ăn cỗ mừng thượng thọ cho cụ cố tám mươi tuổi. Thấy lính đến Chánh Hào
vội sai người ra mở cổng. Hai con chó tây được xích vào
cẩn thận. Tốp lính chỉ có ba người, người đi đầu mang lon thượng sỹ. Tất cả đều mang tiểu liên tôm sơn.
Chánh Hào cứ nghĩ đó là thượng sĩ lâm. Một sĩ quan đại VIệt có tiếng gian ác.
Lão nghĩ bụng thằng này đến chắc thế nào cũng rầy rà đấy. Đến gần hóa ra không phải,
mà là kim con nuôi lão. Lão giật mình:"Thằng này theo Việt minh vào khu tự
do rồi kia mà. Sao nó lại ăn mặc như thế này?" Lại nghĩ :"Thằng này
như thằn lằn thay màu, biết thế nào được. để yên xem sao đã !" Lão vẫn ra
vẻ mừng rỡ:"Anh về đấy à, thực may quá. Hôm nay làm lễ thượng thọ cho cụ.
Mời các anh vào trong này dùng bữa luôn." Lão quay ra quát đám người
nhà:" Chuẩn bị cho ông một mâm tử tế vào nhé". Kim mặt lạnh tanh bảo:
"Cám ơn, chúng tôi bận việc, không ăn uống được đâu. Có chỗ nào kín đáo
tôi muốn gặp riêng ông!" Chánh Hào tái mặt "Vâng, vâng mời vào nhà
trong". Lão quát mấy người nhà lảng vảng lại gần: " chúng bay đi chỗ
khác, việc quốc gia đại sự , lại đây làm gì?" Chánh Hào lập cập mở cửa
gian buồng ở dãy nhà ngang. Đây là gian nhà khách đặc biệt, chỉ dành riêng cho
những việc làm kín đáo. Nền nhà cũng lát đá hoa, giữa nhà này bộ sa lông bàn
tàu cổ. Kim không lạ nơi này. Hồi còn đi học Kim vẫn lẻn vào đây xem sách cho
yên tĩnh.
Chánh Hào châm ngọn đèn
búp măng. Ánh sáng của nó đủ để mọi vật trong phòng. Kim quay ra khép cửa lại.
Giọng Kim lạnh lùng:" Ông đừng sợ, chúng tôi nói để ông biết: chúng tôi là
nngười của Ủy ban Kháng chiến. Đến nhắc ông một điều. ông phải chấm dứt ngay
việc làm tay chân cho pháp. Chính quyền Bảo Đại sẽ sụp đổ nay mai. Nếu ông tiếp
tục làm hại kháng chiến, cách mạng sẽ thănngr tay trừng trị. Trước đây ông đã có một chút ủng hộ kháng chiến nên cách mạng
chưa ra tay. Chúng tôi cảnh cáo ônng như vậy ông rõ chứ".
Chánh Hào toát mồ hôi
hột, lão còn một chút hi vọng. Lão lắp bắp:"Nhờ anh xin kháng chiến cho
thầy một chút, thầy chỉ là người làm ăn không dính dáng gì đến chính
trị..."
Kim lạnh lùng: "Ai thầy bà với ông? Tôi
chỉ là nạn nhân của giai cấp địa chủ, bị ông đè đầu cưỡi cổ. Hôm nay tôi nhân
danh cách mạng nhắc ông như vậy. Nếu ông cố tình là ông tự chuốc lấy cái
chết..."
Năm cải cách ruộng đất
vợ chồng Kim lên đấu tố rất hăng. Kim làm tổ trưởng dân quân. Địa chủ bị giam ở
đình làng. Trời nóng như đổ lửa. Có người lén múc cho Chánh Hào gáo nước. Kim
bắt được, hắn đổ đi. Còn sừng sộ với người đó. Vợ Kim tố là đã bị Chánh Hào hãm
hiếp. Chính thị được Chánh Hào cưới về làm vợ Kim. Đám cưới mổ cả bò, trong
làng không ai không biết. Thị lấy tay xỉa vào tận mặt: "Chính mày đã cưỡng
hiếp bà thì chớ, còn đối xử dã man. Phần thịt kho phần bà đi vắng chưa về, mày
đổ cho bẹc giê, mày nhớ không?".
Chánh Hào bị trói vào
cột đình, hai mắt nhắm nghiền. ông ta chẳng biết có nghe rõ không, cứ gục đầu
xuống im lặng.
Ký ức về những ngày ấy
ghi lại rất rõ trong đầu óc trẻ con chúng tôi. Sau này có lần anh cu Đậu chơi
trò đấu địa chủ. Thằng Oanh con lão Kim phải đóng vai Chánh Hào. Anh đóng vợ
lão Kim. Anh bắt chước mụ vận hai bên cạp quần. Thể như mụ xắn váy quai cồng:
"Chính mày đè bà ra, mới sinh ra thằng con hoang, làm khổ bà. Vì thế chồng
bà mới xử tệ với bà, đi lại với người khác".
Thằng Oanh là đứa ngu
ngơ. Nhưng nó không ngu đến mức để anh chửi xỏ bố mẹ nó. Nó chửi:" Đồ đểu,
tao không thèm chơi với chúng mày nữa. Mày là con tây đen ai nhếch mày?"
Đậu đỏ mặt lên: "Bố con mày là đồ đểu, quân sở khanh, ăn cháo đái
bát". Hai bên xông vào nhau. Đậu khoẻ hơn, vật thằng Oanh sấp mặt xuống
đất. Môi dưới của nó bị giập sưng vêu lên.
Hôm ấy lão Kim vác gậy
lùng tìm Đậu cả buổi. Anh phải nấp trong buồng nhà tôi đến khuya mới dám về.
Thời bình dân học vụ,
những người có văn hóa cao rất ít. Văn hóa lớp ba của mẹ tôi còn được phân công
cán bộ đầu nghành. Công tác chủ yếu nhờ ở nhiệt tình cách mạng. Mấy chục năm,
mãi về sau này bà cũng chỉ lên đến chức chủ nhiệm hợp tác xã. Trong khi nhiều
người giúp việc dưới quyền đã lên làm cán bộ trên tỉnh.
Sự học của lão Kim lại
càng có giá. Mặc dù người ta e về nhân cách của lão, nhưng thiếu cán bộ vẫn
phải dùng. Đó là thời kỳ cán bộ chưa có điều kiện đào tạo có hệ thống, có chuẩn
mực. Lão làm thư kí của ủy ban rồi sang công an xã. Mụ vợ lão đấu tố Chánh Hào
đã là cái cớ để lão đi lại với người khác. Chẳng biết có phải hay không nhưng
lão bảo: "Thằng Oanh là con Chánh Hào, tao chỉ có hai đứa con gái".
Thằng Oanh tủi phận sụt sùi khóc, lão quát:"Có im mồm đi không! Giống địa
chủ vào nhà tao được xuống thành phần rồi còn muốn cái gì ì...?. Thằng Oanh
chẳng hiểu xuống thành phần là thế nào.
Hôm sau nó hỏi bọn tôi, anh cu Đậu cười khềnh khệch :"Xuống thành phần là
xuống gầm giường ấy. Mày không biết xuống gầm giường là gì à?" Oanh tức
lồi cả mắt mà không làm gì được.
Bọn trẻ con chúng tôi là
thế, cãi nhau, đánh nhau chán lại chơi với nhau. Chỉ giận được vài ngày. Cả xóm
có mấy đứa, giận nhau lâu thì chơi với ai?
Chuyện về những tên đảo
ngũ đáng ra tôi không nên kể lại , vì nó không hay ho gì , dễ gây phản cảm .
Hơn nữa nó cũ quá rồi , nó nằm ngoài mối quan tâm của người thời nay . Nhưng có
một điều làm tôi suy nghĩ mãi, Ai cũng chỉ có một lần sống trên đời, chẳng nhẽ
đi qua không để được điều gì trên thế gian này gọi
là tốt đẹp, thậm chí để lại điều xấu xa. Và như
vậy thật đau lòng biết bao? Vì vậy tôi
quyết định kể nốt phần còn lại của câu chuyện, để chứng minh rằng anh Cu Đậu
không phải là người quá xấu, không có gì khả dĩ để chúng ta thông cảm . Anh làm
hỏng cuộc đời mình bởi tính nông nổi, hay tự ái và ưa sĩ diện, hoàn toàn không
phải vì hèn nhát mà quay đầu!
Dầu sao, một thời chúng
tôi đã là bạn của nhau, cho dù thói đời thích sang bắt quàng làm họ, phù thịnh
không ai phù suy, thì chúng tôi vẫn là bạn của nhau mãi mãi.
Nghĩ như vậy nên trước hôm trở về đơn vị, tôi đến thăm anh, lúc đó đang
lao động " Cải tạo " ở " Công trường ". Còn vì một lẽ bởi
tính tò mò của tôi, về mặt trái của cuộc sống thời chiến. Gọi là “cải tạo” cho
ghê, thực ra không đến nỗi nào. Mấy chục con người ăn ở tập trung trong một cái
đình, cách làng tôi hơn chục cây số. ( lại nói đến đình thời đó đâu đâu cũng
được sử dụng vào những việc đại loại như vậy ) .
Công việc hàng ngay của những người như
anh Đậu là vác đất, đá, đào hồ chứa nước. Vẫn bộ quân phục trên người nhưng
nhàu nát và rất bẩn. Là thằng lính ở chiến trường, quả thật tôi chưa bao giờ thấy bộ quân phục nào thảm hại như thế. Nó cũng âu
sầu như người mang nó. Họ lặng lẽ vác những thấu đất sét trên vai. Bùn đất dính
đầy trên đầu, trên cổ. Thấy tôi đến tất cả dừng lại giây lát. Có thể họ tưởng
tôi là người của Tỉnh Đội, huyện đội đến. Thường vẫn có những cuộc thăm viếng
như thế. Sau đó là chuyển đổi người. Có người về đơn vị, có người tạm cho về
nhà. Họ rì rầm với nhau gì đấy rồi lại cặm cụi làm việc. Tôi gặp người chỉ huy
xin phép được gặp Đậu. Anh ta không hút thuốc, tiếp tôi lạnh nhạt, nhưng cũng
đồng ý cho gặp. Tôi ngồi với anh dưới một bụi chuối còi
cọc gần công trường. Vì không thể đi xa hơn được. Tôi hỏi:"Thế nào, khỏe
không ? " Anh cười gượng gạo :
" Nhìn thì biết, mày về bao giờ? "
Tôi đáp : "Tôi nằm
an dưỡng, giờ đã khỏe, mai về đơn vị. Sao lâu anh không về nhà? Hay người ta
không cho về? "
Anh nhấm mhẳn : " Chẳng ai cấm, xin
người ta cũng cho về. Nhưng chán, chả muốn! "
Tôi toan bảo : " Mẹ anh ở nhà đang
ốm, bà suy nghĩ nhiều đâm bệnh." Nhưng sợ anh buồn nên lại thôi . Hai chúng tôi ngồi một
lúc lâu. Nói gì bây giờ?
Đậu có tính hay tự ái
vặt, không khéo lại cho mình là lên lớp. Tôi muốn để câu chuyện
tự nhiên, như ngày nào cả hai còn là trẻ con. Bỗng có tiếng gầm rú của
máy bay phản lực. Phía Hà Nội đạn cao xạ vút
lên loang loáng, từng cụm khói nhỏ giăng khắp bầu trời. Công trường báo động,
mọi người vội vã tản xuống giao thông hào.
Là lính phòng không, tôi
biết chỗ mình cách xa tầm bom đạn, anh Đậu vẫn thản nhiên như không có gì xảy
ra. Chúng tôi theo dõi phía
trời Hà Nội đang rung chuyển.
Đợt oanh tạc ngắn ngủi
chấm dứt đột ngột như thể trò đùa của mấy con chim sắt. Yên tiếng súng, tất cả
lại ai vào việc đó, như không có việc gì xảy ra. Tôi còn ngần ngại chưa
biết mở đầu câu chuyện chính định nói với anh như thế nào ?
Anh
đã chủ động trước : " Không cần nói, tao biết mày định nói gì rồi. Xong
đợt này tao về đơn vị. Sống chết nó có
số, chỉ tức mình vô tình mà người ta cố đóng sống cho tội phá hoại .."
Tôi lấy làm mừng. Lòng
tự ái, sau đấy là tự ty không khéo phá hỏng đời anh, giờ anh có thể bước qua
được thử thách đó. Anh có thể tự ái với bạn bè, người thân, sao lại tự ái với
xã hội? Chỉ thiệt cho mình, ai người ta bận tâm?
Cuối cùng, tôi cũng chỉ
nói vài lời trước lúc chia tay: " Anh nói thế cũng phải! "
Đơn vị tôi vào chiến trường, tôi không có dịp gặp lại Đậu đen. Nhưng tin chắc thế nào anh cũng trở về đơn vị. Có thể gặp nhau trong chiến trường. Người làng, tôi cũng gặp vài người, nhưng chẳng ai biết chút tin tức về anh.
Tôi gặp thằng Oanh. Nó
bị mìn Cờ lê mo cụt một bên chân, đang chờ ngày ra bắc. Nó đọc cho tôi nghe
những bài thơ nó làm những ngày nằm dưỡng thương.
Không ngờ, tẩm ngẩm mà
thằng này lại có tài. Nó làm thơ hay phết!
Thơ nó giàu cảm xúc, có
phần tinh tế nhưng ủy mị quá. Đọc xong người ta đễ buồn. Buồn vu vơ không đi
đến đâu. Phần nhiều là những bài tự sự, viết về bản thân nó. Những bài về đề
tài xã hội thường nhàn nhạt, chung chung không sâu lắm. Đấy là cảm nhận riêng
của tôi thế thôi, chứ tôi biết mình văn vẻ nào có ra gì?
Hiểu biết về thơ ca lại
càng ít, cứ như chim chích vào rừng, nên chẳng biết góp ý gì với nó, mặc dù nó
bảo nghe xong cho ý kiến. Tuy hiểu biết ít ỏi, tôi cũng không lạ gì phần lớn
những anh làm thơ chẳng ai thích khi người khác chê thơ mình, mặc dù mồm vẫn
bảo :" Cứ mạnh dạn cho ý kiến "! Con người ta dù tỉnh táo cách mấy
cũng thích được ngợi khen. Chả thế có ông nhà thơ đến đơn vị tôi đọc thơ thấy
có ít người vỗ tay, đùng đùng bỏ về, không ở lại dự bữa cơm thân mật . Ông
không hiểu rằng:
- Lính là lính thật ,
nhưng cũng biết thế nào là bài thơ hay . Thơ ông cứ như hô khẩu hiệu, ai mà vỗ
tay cho được ?
Với thằng Oanh lúc này
lại khác. Nó đang thương tích, sự động viên lúc này có lợi cho sức khoẻ của nó.
Tôi bảo : " Nếu mày
cố gắng, tài mày đáng mặt làm con cháu cụ Tản Đà đấy "
Nó sướng đến nỗi ứa nước
mắt.
Kể cũng lạ! Một câu
khích lệ, có khi chỉ là chẳng còn câu nào để nói, lại có thể chuyển hướng, thay
đổi số phận con người!
Sau này thằng Oanh ra
quân, về sở văn hóa tỉnh, có thơ đăng đều đều, viết theo kiểu tụng ca, diễn
giải chính sách. Hồi đó văn học rất được coi trọng, chưa bị pha loãng do cơ chế
thị trường, xã hội hóa như bây giờ.
Nhà văn, nhà thơ đi đến
đâu cũng được ưu ái trọng vọng. Tiền nhuận bút không nhiều nhưng đồng tiền có
giá trị. Chả thế mà có anh nhà thơ tỉnh lẻ, in một tập thơ, tiền nhuận bút mua
được cả căn nhà rộng rãi ngoài Hà Nội. (Đương nhiên giá nhà đất hồi chiến tranh kể cả ở Hà Nội cũng là giá
bèo!) Không như thời bây giờ, nhà thơ dù ở thang bậc nào cũng phải bỏ tiền túi ra mà in. In xong rồi dở khóc dở cười, bán
ít người mua, cho thì không biết cho ai để giải quyết xong đống sách. Thơ không
hẳn là dở, nhưng thời buổi này còn bao nhiêu người mua thơ? Thằng Oanh khi ấy
lại khác. Mỗi chuyến nó đi thực tế về nào gà,
nào gạo. Không phải của đút lót đâu nhé ! Đấy là tấm lòng của những
người yêu thơ, yêu lây sang nó! Nó thật hạnh phúc !
Hết chiến tranh, tôi giải ngũ xin vào học một
trường kỹ thuật.
Trong lúc chờ đợi, tôi
về làng. Lòng cứ băn khoăn tự hỏi không biết bạn bè cũ còn, mất những ai? Bấy
nhiêu năm chiển tranh nhoè đi bao nhiêu mơ ước, bao nhiêu số phận! Tôi thật không ngờ khi biết tin về Đậu Đen.
Nhà anh vẫn hai gian nhà
tre, chỉ thêm cái cánh cửa làm bằng gỗ mỏng. Không thấy cái nong rách ngày xưa.
Chắc đã vứt đi lâu rồi. Mẹ anh đã già, tóc bạc gần hết. Da mặt bà nhăn nheo,
đôi mắt trũng sâu đờ đẫn. Nhưng bà vẫn nhận ra tôi ngay, cứ nắm tay tôi mà
khóc:"Thằng Đậu nhà bác số nó khổ. Đợt nó đi lao động về cứ định trở về
đơn vị. Nhưng bác ốm nặng, nó lần chần mãi không đi được. Có người bảo:"
Đằng nào cũng mang tiếng rồi. Mẹ ốm đi làm gì? Nó ở nhà, cuối năm ấy lấy vợ, Vợ
nó xấu người, nhưng được cái đảm. Hai mẹ con nó hôm nay sang đằng ngoại, tối
mới về". Tôi sốt ruột hỏi:"Thế anh ấy bây giờ ra sao?" Bà đáp:
- Cuối năm nay, người ta nói nó được về...
Rồi bà kể cho tôi nghe cái tai nạn của
anh. Vợ sinh con được vài ngày, Đậu rất bận. Ở địa phương người ta không phân
cho anh việc gì. Anh sắm cái xe thồ, hàng ngày mua chuối, mít về Hà Nội bán.
Công việc vất vả nhưng cũng kiếm được tiền. Chẳng được bằng ai, anh an phận
mình, vui với vợ con. Sự đời không theo ý muốn con người. Vụ trai gái ghen nhau đâm chết người trên bãi chiếu phim, không tìm ra
thủ phạm. Người ta khoanh vùng để sàng lọc đối tượng, bắt hơn chục người. Đậu
đen cũng có trong số đó. Đúng hôm anh đi Hà Nội tới khuya mới về. Chưa kịp rửa chân tay, dân quân ập vào dẫn lên xã. Anh
còn ngớ ra không hiểu chuyện gì. Lão Kim còn bảo:" Đừng vờ vịt, khôn hồn,
chót nhỡ thì nhận đi. Còn được hưởng lượng khoan hồng. cố tình giấu giếm thì
tội càng nặng". Đến đây Đậu mới rõ sự việc, anh trình bày, chẳng ai nghe
anh cả. Lão Kim lấy từ trong túi con dao nhọn để trong túi ni lông:"Cái
này chắc anh biết là của ai rồi chứ gì". Đậu giật mình "Đúng con dao
của mình rồi. Nhưng mình đánh mất hơn tuần nay rồi , đã phải làm con dao khác.
Thứ dao này chỉ để ra nải, cắt chuối bán lẻ, hoặc cắt mít bán cho khách. Làm
sao nó lại ở đây?". Anh nhận mà như không nhận: " Đúng là con dao của
tôi. Nó có khắc chữ Đ ở cán. Nhưng tôi làm mất lâu rồi. Tôi chẳng có liên quan
gì đến việc này cả. Vợ tôi mới sinh, xin các ông cho tôi về."
Viên công an huyện thì
bảo:" Đây là vụ trọng án nên tất cả được đưa về trại tạm giam của
tỉnh". Đậu không ngờ có ngày mình lại ở tù. Biết thế nào là phòng giam
riêng. Thế nào là cuộc sống của một can phạm. Tình ngay, lý gian chẳng ai làm
chứng được cho sự vô tội của anh. Hơn một năm trời giam cứu, án không thành,
hơn chục con người mang cái lệnh tập trung cải tạo, nội dung tội trạng rất mơ
hồ: "Thành phần nguy hiểm cho xã hội" !
Chẳng thể nói gì hơn với
bà vào lúc này , tôi nói với mẹ anh : " Cũng tại cái số anh ấy vất vả, bác
cũng không nên nghĩ ngợi nhiều bác ạ! " Thấy bà sụt sùi khóc, tôi động
viên : " Đời có nắng có mưa, hết cơn nó lại tạnh mà bác!"
Bà bảo : " Nhưng
người ta chỉ có một lần trên đời, có được sống mãi đâu để hỏng lần này, làm lại
lần khác? Đời nó coi như bỏ đi rồi. Bác cả đời ăn ở tử tế,
không ngờ lại ra nông nỗi này, chẳng để được
phúc đức cho con cháu, lại mang tiếng với làng xóm, khổ lắm cháu ạ! "
Tôi không hỏi tự dưng bà
kể tôi nghe chuyện riêng của mình mà bao năm trời bà giấu kín: Bà Đường người Hưng Yên,
cánh đồng Tam thiên Mẫu là quê hương bà. Thời con gái bà vào đội du kích bí
mật, hoạt động trong vùng địch chiếm. Là người có nhan sắc, bà được phân công
làm địch vận, một trong ba mũi giáp công của ta lúc bấy giờ. Ngày ngày bà mang
rượu, thuốc lá và vài thứ tạp phẩm bán gần cổng đồn địch. Bà đã móc nối được
với vài tên lính trong đồn. Trong số đó có một viên hạ sĩ người Âu Phi. Tên anh
ta là Mat ta Khan, anh ở Việt Nam đã lâu, nói sõi tiếng Việt. Mat ta Khan trước
đây có chân trong mặt trận bình dân, không ủng hộ cuộc chiến tranh của người Pháp ở Đông Dương . Anh đã giúp cô
Đường ngày ấy, bí mật tuồn vũ khí trong đồn cho đội du kích. Anh nói quê hương
anh cũng bị người Pháp chiếm đóng, anh theo binh nghiệp cũng là chuyện bất đắc
dĩ.
Cả làng nguyền rủa cô
Đường đánh đu với tây. Bố mẹ cũng từ cô. Anh cu Đậu là hậu quả ngoài ý muốn của
mối quan hệ ấy. Không thể ở làng, cô
Đường lên quê tôi từ đấy.
Thì ra, ngay từ lúc mới
ra đời, xuất thân của anh đã đầy uẩn khúc, đã bao nhiêu nỗi éo le.
Tôi về làm kỹ thuật cho
nhà máy xi măng của một tỉnh miền núi . Ban
đầu người ta có ý xếp cho tôi ở phòng tổ chức. Vì tôi là người từ chiến trường
về, xem như đây cũng là một sự ưu đãi. Nhưng tôi không nhận vì biết mình có tính hay cả nể, dễ hỏng việc. Cán bộ tổ
chức đòi hỏi hiểu biết sâu sắc con người và xã hội, có óc tỉnh táo, đôi lúc cần
cả sự lạnh lùng khô khan và nguyên tắc nữa .. Đấy là chưa nói đến hạng cán bộ tổ chức
chuyên mưu mô, mánh lới vì đây là mảnh đất màu mỡ cho những tiêu cực đó phát
triển. Nó là một khoa học nhân văn tầm cao, lại là con dao hai lưỡi cho người
dùng nó. Tôi biết mình không đủ sức, chỉ muốn làm công việc kỹ thuật thuần túy.
Lúc này ngành xi măng
đang là mũi nhọn của nền kinh tế quốc dân. Khắp nơi xây dựng. Nhà máy chạy hết
công suất, lò nung đỏ lửa suốt ngày đêm mà cung không đủ cầu. Công nhân phải
làm thêm ca, nhân viên kỹ thuật chúng tôi cũng bù đầu.
Máy móc thiết bị đã cũ,
không hiểu tại sao người ta vẫn nhập từ nước ngoài về? Công nghệ có từ thế kỷ trước, nước người ta
đã cấm vận hành vì nạn ô nhiễm khủng khiếp. Trông xa nhà máy giống như con quái
vật khổng lồ, giống lò nung vôi của quỷ sứ hơn là nơi sản xuất xi măng! Bụi đá, đất cát bay mù trời, phủ trắng nhà
cửa, cỏ cây quanh nhà máy.
Tôi được phân công thiết
kế hệ thống thông gió và hút bụi cho nhà
máy. Khi đem chạy thử, kết quả thật
không ngờ. Ban giám đốc thưởng cho tôi một số tiền nhỏ và mươi ngày phép .
Lâu lắm tôi mới lại có
dịp về thăm quê.
Ngay buổi tối đầu tiên
trở về làng của tôi, trong làng có đám tang. Lại là đám tang của lão Kim vàng.
Lão mất sau khi nghỉ công tác một thời gian. Có người bảo lão phẫn chí việc gì
đấy ở địa phương nên phát bệnh. Tôi cũng không tìm hiểu kỹ lắm chuyện này,
vì con người ta chết là hết, tốt xấu cũng không nên nói đến. Nghĩa tử là nghĩa
tận, đả động đến mà làm gì? Ân oán đều bỏ lại, không ai nhắc nữa. Đến bước cuối
con đường sinh tử ai chẳng như ai ?
Nhưng tôi hoàn toàn bất
ngờ thấy trưởng đoàn bát âm lại là anh cu Đậu. Tôi đã đi dự nhiều đám
tang, nhưng chưa ở đâu tiếng kèn đám ma lạ não nùng đến thế này!
Tiếng kèn như nỗi buồn
của bao nhiêu kiếp người gom lại, vẩn vương không rời tâm trí người ta. Không
phải con cháu hay người thân của người quá cố cũng cảm thấy se lòng.
Tiếng khóc hờ cất lên
thay cho con cháu của anh Đậu lại thêm nát ruột. Nó không giống như hát chèo,
không giống cải lương, không phải hát ca trù mà là tất cả nỗi buồn của các thể
loại cộng lại .. Mắt anh lim dim, đầu hơi lắc lư, tay đập phách. Lúc này anh
như hóa thân vào tâm trạng con cháu lão Kim. Chỉ nhìn mồ hôi lấm tấm trên trán
là biết anh đang cố gắng tập trung tâm trí như thế nào. Anh như quên hẳn những
gì đã qua. Người quá cố với anh lúc này không còn chút oán giận nào.
Tôi chợt thấy buồn. Kiếp con người có đáng
là bao? Khi sống giăng mắc, gây hấn với nhau để được cái gì?
Đám con cháu lão Kim về
đông đủ cả. Đứa con gái tên là Thêm con bà Phúc cũng đến đội khăn chở. Nó là
đứa con ngoài giá thú của lão, từ ngày lão thôi công tác nhận lão là cha đẻ,
gần đây đi lại như người trong nhà.
Cái gì lâu ngày cũng trở
thành tự nhiên như nó hằng có . Riêng tôi, tôi thầm thắc
mắc không biết có phải cái Thêm có được từ buổi tối mà tôi và anh cu Đậu đánh bẫy
bùn hay không? Nhưng đang ở đám tang,
ai lại đi hỏi chuyện này?
Thằng Oanh bây giờ đã
lên chức trưởng phòng văn hóa huyện. Nó to béo bệ vệ. Áo tang bằng vải sô nó
đang mặc như muốn nứt ra. Bên chân giả không
đứng lâu được nên đành ngồi chống gậy chịu tan,
vừa bi lại pha chút hài nom chẳng giống ai .
Anh Đậu nhìn thấy tôi
chỉ khẽ gật đầu. Lúc này không phải là
lúc trò chuyện với nhau.
Việc đám thế này, anh
bận ít nhất phải mất hai ngày. Đành chờ mấy hôm mới gặp được.
Hình ảnh anh Đậu chèo
thuyền Bát Nhã nơi đám tang khiến tôi đêm ấy không sao ngủ được. Giọng anh cất
lên như không phải tiếng con người . Nó cao hơn, sâu hơn cái con người đạt được
:
“Ới sãi tôi đây
Áo vải nâu sồng
Đưa người về tiên cảnh
Đưa người chẳng tính
công !
Thuyền về mà bến đợi
Tây Trúc mà xa xôi
Thôi hồn để lại
Mênh mang cõi Người !
Hồn ơi lặng lẽ
Bước chân xuống thuyền
Châu, vàng thời bỏ lại
Sang hèn thời hồn quên !
Nếu còn vướng bận
Thua được chốn phù vân
Ba sinh thời hẹn lại
Chớ có mà băn khoăn !
Đường lên Tây Trúc
Sóng dâng thác cuồng
Ông kia ngồi dịch xuống
Bà này ngồi dịch lên
Đã xuống thuyền Bát Nhã
Là không chia sang hèn..
Tay cầm thời chuỗi hạt
Cho chắc mà hồn đi
Chớ nhìn xuôi ngược
Kẻo mà ngã xuống sông
Ơi hỡi dô khoan,
Khoan lại mà hò khoan
!”
Anh lái đò ở đâu cũng
vậy, thời nào cũng vậy, ở chốn trần ai hay đường về tiên cảnh cũng đều nặng
lòng với khách qua sông.
Mấy ngày sau tôi gặp anh
ở nhà quản trang của làng, nhân tiện đi viếng mộ. Anh được xã giao cho việc này
. Thôi thì chẳng giúp được gì cho người đang sống, giúp cho người ta khi đã qua
đời. Cứ ngỡ anh buồn lòng vì bao chuyện đã qua, hóa ra không phải.
Anh bảo tôi với giọng
đùa cợt mà mặt nghiêm nghị:
" Tao vừa làm chủ tịch, vừa làm bí thư ở
đây . Trong làng có bao nhiêu hộ, tao có bấy nhiêu ngôi! Chỉ
khác
cái là ở đây không có tranh đoạt, kiện cáo vớ vẩn, nên công tác cũng gặp nhiều
thuận lợi! Anh nào trước khi ra đây cũng phải xin gặp tao lần cuối cùng, mày
bảo không oai à? Tao vừa thổi kèn đưa tiễn họ, lại đón họ vào đây, Thích hay
không cũng phải có ý kiến của tao mới được, đến đây bằng nhau tất ! "
Tôi biết không phải hoàn
toàn như thế.
Người khá giả nấm mộ cao
hơn, nhiều vòng hoa đắt tiền hơn nấm mộ người nghèo, người không chức
vị gì trong xã hội. Kể cả đến khi chết rồi, đối
với con người, công bằng xã hội vẫn còn là một giấc mơ!
Tôi hỏi: " Suốt
ngày anh ở đây làm bạn với những nấm mồ, với tiếng nỉ non anh không thấy buồn
sao? "
Anh trừng mắt nhìn tôi,
vẫn cái giọng ốc xạo: " Mày nói hay thật! Sao lại chỉ có mình tao?
Cả dân cả làng ở đây.
Tao vẫn thấy họ đi lại, ca hát, cãi cọ ở quanh đây. Có gì mà phải buồn? Sống
với họ đỡ phức tạp chú mày ạ, vì họ chẳng đòi hỏi, mưu mô hay mánh lới gì nữa.
Toàn là những tâm hồn trong sáng mà thơ của thằng Oanh hằng ca ngợi. Thế là đủ,
thế mới đời, cần chó gì ? "
Nghe anh nói thế, tôi
biết là anh nói thực, không phải nói chơi.
Anh luôn bất ngờ, anh Đậu ạ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét