Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2019

Bác bỏ luận điệu “Trung Quốc khuyên Việt Nam ‘lãng tử hồi đầu’”

Hồ Anh Hải
Từ chuyện: Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì sang thăm Việt Nam tháng 6/2014 và tờ Hoàn Cầu Thời Báo đăng tin Trung Quốc đã thúc giục Việt Nam "hãy tự kiềm chế trước khi quá muộn" và "đứa con hoang đàng hãy trở về..." tác giả đã viết bài phản biện sau đây
.
5 năm trước, ngày 02/5/2014,Trung Quốc (TQ) đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam và tiến hành khoan thăm dò dầu khí.
Chính phủ ta đã mạnh mẽ tố cáo hành động này của TQ vi phạm nghiêm trọng chủ quyền Việt Nam tại Biển Đông. Ngày 11/5, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 24, Thủ tướng ta kêu gọi sự ủng hộ của quốc tế, tuyên bố Việt Nam sẽ nghiên cứu mọi phương án bảo vệ chủ quyền, kể cả phương án kiện TQ lên tòa án quốc tế. Trong các ngày 12-14/5 đồng bào ta một số nơi tự phát tổ chức biểu tình phản đối TQ.
Hành động ngang ngược của TQ đã gây ra sự phản đối từ cộng đồng quốc tế. Trước phản ứng quyết liệt của Việt Nam và thế giới, ngày 18/6 Ủy viên Quốc vụ TQ (chức vụ trên Bộ trưởng, dưới Phó Thủ tướng) Dương Khiết Trì đến Hà Nội hội đàm với Bộ trưởng Phạm Bình Minh nhằm giảm tình hình căng thẳng. Ngày 16/7, TQ rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, sớm 1 tháng so với kế hoạch ban đầu.
Cuộc đấu tranh chống lại vụ TQ đưa giàn khoan 981 vào vùng biển Việt Nam để lại cho chúng ta những bài học hữu ích đến nay vẫn cần ôn lại.

Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam năm 2014

Tháng 8 năm nay, Trung Quốc lại ngang ngược đưa trái phép tàu thăm dò địa chấn HD-8 vào thềm lục địa của Việt Nam
.
Mặc dù trắng trợn vi phạm chủ quyền của Việt Nam nhưng TQ luôn tuyên truyền rằng Việt Nam mới là kẻ quấy rối họ thực thi chủ quyền. Ngày 19/6/2014, “Nhân dân Nhật báo”cơ quan ngôn luận của Nhà nước TQ đăng bài “Trung Quốc khuyên Việt Nam: Kẻ hư hỏng nên tỉnh ngộ trở về” (TQ phụng khuyên Việt Nam “Lãng tử hồi đầu”) [1]. Tác giả bài báo lời lẽ xách mé này là bà Tô Hiểu Huy (苏晓晖Su Xiao Hui), Phó Chủ nhiệm Ban Nghiên cứu Chiến lược quốc tế thuộc Viện Nghiên cứu các vấn đề Quốc tế của TQ.
Xin đọc một số câu trong bài báo này (chúng tôi in đậm những chỗ cần chú ý):
Trong tình hình Việt Nam mạnh mẽ quấy nhiễu công việc bình thường của công ty TQ tại quần đảo Tây Sa[Việt Nam gọi là Hoàng Sa], gây nên tình thế căng thẳng liên tục nâng cấp, Ủy viên Quốc vụ TQ Dương Khiết Trì đã đến Việt Nam hội đàm với Trưởng đoàn Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác song phương TQ-VN. Trong hội đàm, hai bên đều tỏ ý coi trọng mối quan hệ song phương và ý muốn quản lý kiểm soát tình hình trên biển; tình thế căng thẳng suýt bùng nổ đã dần dần được hòa hoãn...
Chuyến đi của Dương Khiết Trì cho thấy “TQ một lần nữa tạo cơ hội cho Việt Nam ghìm ngựa trước vực thẳm. Trước đó TQ đã nhiều lần nghiêm chỉnh tuyên bố quần đảo Tây Sa là lãnh thổ vốn có của TQ, không tồn tại bất cứ tranh chấp nào, và yêu cầu Việt Nam ngừng quấy rối tác nghiệp [thăm dò dầu khí, xây đắp đảo...]của phía TQ... Trong hội đàm, Dương Khiết Trì một lần nữa nói rõ giới hạn cuối cùng đối với Việt Nam, TQ mong muốn Việt Nam từ bỏ dã tâm không thiết thực, ngừng tạo ra các tranh chấp mới, quản lý được bất đồng, tránh gây thiệt hại lớn hơn cho mối quan hệ song phương. TQ bỏ ra rất nhiều công sức khuyên Việt NamLãng tử hồi đầu, nhưng Việt Nam có thể đi cùng TQ hay không thì vẫn là vấn đề chưa biết....
Câu cuối cùng viết mập mờ, không rõ đây là lời Dương Khiết Trì hay lời Tô Hiểu Huy; nhưng đã đăng trên “Nhân dân Nhật báo” thì chắc chắn là quan điểm của Nhà nước TQ.
Chữ Hán “Lãng tử” là đứa con/em hư hỏng, bỏ nhà đi lêu lổng. “Lãng tử hồi đầu” là đứa con/em hư hỏng [đã đến lúc] ăn năn hối lỗi, cải tà quy chính, trở về với gia đình.
Trước thái độ nước lớn kẻ cả nói trên của TQ, chúng ta cần trả lời: Việt Nam đấu tranh bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ nước mình là hoàn toàn chính đáng, không có gì phải ăn năn hối cải và chẳng có cái gia đình” nào để chúng ta trở về” cả.
Tại TQ lâu nay vẫn lưu hành một quan điểm lịch sử cho rằng, Việt Nam vốn là đất của TQ, về sau lợi dụng cơ hội nội bộ TQ loạn lạc mà tách ra thành một quốc gia riêng; dân tộc Việt Nam vốn là một trong các tộc người bị tộc Hoa Hạ ở Trung nguyên gọi vơ đũa cả nắm là «Bách Việt», như Mân Việt, Ngô Việt, Lạc Việt...; trong khi các tộc này đều phục tùng sự «chinh phục» [thực ra là xâm lược và cai trị, cướp bóc, đồng hóa] của tộc Hoa Hạ thì tộc Việt Nam lại cứng đầu cứng cổ tách ra khỏi «gia đình Bách Việt», độc lập với TQ; nay đã đến lúc Việt Nam - đứa con hư hỏng bỏ nhà ra đi này nên sớm hối cải, trở về với «gia đình» [nói cách khác, trở thành nước chư hầu của TQ].
Không ít dân mạng TQ tuyên truyền quan điểm nói người Việt Nam vốn là người TQ, sống trên đất TQ, có vương triều đầu tiên là triều Triệu Đà nước Nam Việt, hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân của nước này chính là miền Bắc Việt Nam; về sau Việt Nam giành độc lập, tách ra thành một quốc gia nhưng vẫn triều cống TQ, nhận làm một «phiên quốc» [nước phên giậu] của TQ, cho tới khi bị Pháp chiếm (1884). Sử chính thống Việt Nam không coi nhà Triệu là vương triều của mình, chứng tỏ họ không còn coi TQ là «tôn chủ quốc» [chính quốc, nước mẹ] của mình, như thế là vong ân phụ nghĩa....
Các quan điểm kể trên hoàn toàn trái với sự thật lịch sử, cần dứt khoát bác bỏ. Dưới đây xin trình bày quan điểm của chúng tôi về các vấn đề đó.
1- Lãnh thổ Việt Nam không phải là đất của Trung Quốc.
Sau khi đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước nhà, năm 1428, Lê Lợi ra «Bình Ngô Đại cáo» tuyên bố: «Như nước Đại Việt ta thủa trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác…»
Đúng là «bờ cõi đã chia»: mảnh đất chữ S này trước đời Tần là một vùng đất riêng biệt, người phương Bắc chưa hề đặt chân tới. Thiên nhiên rào chắn mảnh đất này cả bốn phía: phía Tây có dãy Trường Sơn ngăn cách; phía Đông và Nam được biển bọc kín, phía Bắc có dãy Thập vạn đại sơn hiểm trở. Việt Nam cách rất xa vùng Trung nguyên TQ - nơi sinh ra tộc Hoa Hạ (từ triều Hán trở đi gọi là tộc Hán) và từ đời Tần xuất hiện đế chế Trung Hoa cùng chủ nghĩa Đại Hán. Chỉ sau khi bị nhà Tần chiếm (214 TCN), nước ta bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc và từ đó mới bắt đầu tiếp xúc với nền văn minh Trung Hoa. Đất nước này dù bị TQ cai trị hơn 1000 năm và về sau bị Pháp cai trị 80 năm nhưng vẫn là đất của dân tộc Việt Nam. Nếu nói lãnh thổ nào từng bị TQ chiếm đóng đều là lãnh thổ TQ thì cả châu Âu và TQ đều là lãnh thổ của Mông Cổ chăng?
Quá trình bành trướng của chủ nghĩa Đại Hán khởi đầu bằng việc Tần Thủy Hoàng «chinh phục, thống nhất 6 nước», thực chất là xâm chiếm lãnh thổ 6 nước Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề trong các năm 230-221 TCN nhằm biến nước Tần thành một đế quốc lớn mạnh. Quân Tần giết người như giết ngóe, dã man tới mức dù nước Hàn đã đầu hàng nhưng chúng vẫn «Ngũ mã phanh thây» vua nước Hàn và xử chém hàng trăm nghìn tù binh nước Triệu; dân thường bị giết nhiều vô kể. Thủ đoạn tàn ác này khiến các nước xung quanh sợ hãi, nhanh chóng đầu hàng khi bị quân nhà Tần xâm chiếm.
Năm 219 TCN, nhà Tần cho 50 vạn quân đánh xuống phía Nam Trường Giang, quê hương của các bộ lạc «Bách Việt», trong đó có vùng Lĩnh Nam ở phía Nam dãy Ngũ Lĩnh. Cuộc chiến này ác liệt hơn cuộc chiến chiếm 6 nước trước đó, nhất là khi gặp sự chống cự của người Lạc Việt ở Quảng Tây. Đến năm 214 TCN, nhà Tần mới chiếm được Lĩnh Nam sau khi mất hơn 10 vạn lính. Từ con số này có thể suy ra bao nhiêu vạn dân Bách Việt từng chết dưới tay quân Tần. Một số bộ lạc Bách Việt phải di tản, nhờ thế tồn tại và trở thành các dân tộc thiểu số ngày nay ở TQ; ví dụ người Lạc Việt, nay là dân tộc Tráng. Các bộ tộc ở lại dần dần bị tiêu diệt hoặc đồng hóa.
Hầu hết các vương triều TQ đều ra sức tăng số dân nước mình bằng chủ trương giết dân ở các vùng chiếm được - chủ yếu giết đàn ông và đưa nhiều người Hán đến định cư. Mấy nghìn năm qua, chúng liên tục xâm chiếm các vùng xung quanh và đồng hóa các dân tộc thua trận, biến họ thành người Hán.[2] Kết quả là từ một nước Tần ở hai tỉnh Thiểm Tây, Cam Túc hơn 2.200 năm trước, hiện nay, tộc Hán chiếm 92% trong số 1.300 triệu người sống trên lục địa rộng 9,6 triệu km2 và còn muốn chiếm 90% diện tích biển Đông. Ngày nay, người TQ tự hào với công trạng ấy, cho dù tổ tiên họ phải trả giá bằng hàng trăm triệu sinh mạng - điều này cho thấy tư tưởng nước lớn «Đại nhất thống» đã ăn sâu vào đầu óc họ như thế nào.
2- Người Việt Nam không phải là người Trung Quốc và không thuộc cộng đồng Bách Việt.
2.1- Xét về mặt ngôn ngữ-tiêu chuẩn quan trọng nhất để phân biệt các dân tộc. Thời cổ, tổ tiên ta ở xa cách TQ cho nên tiếng Việt Nam thuộc ngữ hệ Môn-Khmer, khác hẳn tiếng Hán và tiếng của các tộc Bách Việt đều thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Tiếng Việt có những âm và thanh điệu không có trong tiếng Hán, như âm b, đ, v, g, nh, ng, ư,... , thanh điệu nặng và ngã.
Tiếng Việt có số lượng âm tiết (syllable) nhiều gấp khoảng 15 lần (ngót 18 nghìn so với hơn 1000 âm tiết) [3]; nghĩa là có hơn chục nghìn âm tiết mà tiếng Hán không có, người Hán không phát âm được. Vì thế chữ Hán không thể ghi được tiếng Việt và tiếng Việt không thể nào là một phương ngữ của Hán ngữ. Mặc dù Việt ngữ dùng chữ Hán hai nghìn năm nhưng người TQ không thể nghe hiểu bất kỳ bài văn thơ chữ Hán nào đọc bằng tiếng Việt.
Hán ngữ nghèo âm tiết nên chỉ có thể dùng chữ viết loại ghi ý (ví dụ chữ Hán), mà không thể dùng chữ viết loại ghi âm như chữ Quốc ngữ Việt Nam.
Các tộc Bách Việt như Mân Việt, Ngô Việt, Vu Việt, Lạc Việt… đều nói một trong các thứ tiếng địa phương (phương ngữ) của Hán ngữ, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, và chữ Hán ghi được các phương ngữ đó.
Tháng 11/2016, TQ công bố kết quả công trình «Nghiên cứu Phương quốc Lạc Việt» quy mô nhà nước, kéo dài 8 năm, do sử gia nổi tiếng TQ Lương Đình Vọng chủ trì, xác định 8 dân tộc thuộc ngữ tộc Tráng-Đồng [Zhuangdong] là Tráng, Đồng, Bố Y, Lê, Thái, Thủy, Mục Lão và Mao Nam có tổ tiên chung là người Lạc Việt; trong đó tộc Tráng (Zhuangzu, chữ Tráng viết là Bouxcuengh) đông nhất, là hậu duệ chính gốc của người Lạc Việt [4]; tiếng nói của họ, tức tiếng Lạc Việt, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng, khác với ngữ hệ của tiếng Việt Nam.
Thời xưa một số người Tráng di cư đến Việt Nam làm thành dân tộc Tày-Nùng, hiện có 2,7 triệu người. Tiếng Tày-Nùng chính là tiếng Tráng, người Kinh nghe không hiểu.
Về ngữ pháp, một khác biệt rất rõ là tiếng Việt đặt tính ngữ sau danh từ, ngược với Hán ngữ, ta gọi là nói ngược. Ví dụ «Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc» trong Hán ngữ phải đặt tính ngữ «Nhân dân Trung Quốc» lên trước «Ngân hàng», thành «Zhongguo Renmin Yinhang». Tráng ngữ cũng viết «Cunghgoz Yinzminz Yinzhangz» theo thứ tự hệt như Hán ngữ. Trong tiếng Việt, trạng ngữ chỉ thời gian có thể đặt trước hoặc sau chủ ngữ nhưng trong tiếng Hán bao giờ cũng phải đặt trước chủ ngữ.
Lẽ thường các dân tộc ở gần nhau đều có ngôn ngữ giống nhau. Sự khác biệt ngôn ngữ quá lớn kể trên giữa tiếng Việt với tiếng của các tộc Bách Việt là bằng chứng rõ nhất cho thấy dân tộc ta thời xưa không ở gần cộng đồng các tộc Bách Việt.
Dĩ nhiên, sau hơn 10 thế kỷ là quận, huyện của TQ và gần 2.000 năm dùng chữ Hán, ngôn ngữ Việt chịu ảnh hưởng lớn của Hán ngữ, khoảng 60% từ vựng tiếng Việt có gốc chữ Hán.
2.2- Xét về thể hình. Người Việt Nam thuộc chủng người thấp nhỏ, phụ nữ thanh mảnh, khác với người Bách Việt ở Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Chiết Giang… Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học nước ta cho thấy hệ gene của người Việt Nam khác rất xa hệ gene của người Hán. [5]
2.3- Xét về văn hóa. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa Hán sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc, nhưng nền văn hóa của dân tộc ta vẫn có nhiều điểm khác. Nổi bật nhất là sự khác biệt về văn hóa chính trị: Người Việt Nam coi độc lập dân tộc là lẽ sống cao nhất; dù bị nước ngoài chiếm đóng cai trị nhưng dân tộc ta xưa nay chưa hề ngừng đấu tranh giành độc lập và chống đồng hóa. Độc lập dân tộc đã trở thành đòi hỏi cao nhất, trên hết; đối với người Việt Nam «Không có gì quý hơn độc lập tự do» (lời Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc, người Việt Nam đều coi các vương triều TQ cai trị mình là chính quyền của kẻ địch, và không ngừng chống lại chúng. Quan điểm đó hoàn toàn chính đáng. Triệu Đà người Hán quê Hà Bắc, xa Việt Nam hàng nghìn dặm vô cớ đem quân đánh chiếm nước ta đang sống trong hòa bình, gây ra cảnh chết chóc tàn phá đau thương, rõ ràng là kẻ xâm lược. Triều đình nước Nam Việt của Triệu Đà đóng đô tại Phiên Ngung, toàn bộ quan lại, quân đội là người TQ, quan quân cai trị Việt Nam cũng đều là người TQ; chúng chỉ lo áp bức bóc lột dân ta, sao có thể coi nhà Triệu là vương triều của Việt Nam?
Với quan điểm trên, tổ tiên ta, kể cả phụ nữ, đã không ngừng nổi dậy đánh đuổi giặc xâm lược: Hai Bà Trưng (năm 40), Bà Triệu (năm 248), ... Khúc Thừa Dụ (năm 905) và kết thúc bằng chiến thắng giành độc lập của Ngô Quyền (năm 938).
Có sử gia TQ nói Mã Viện diệt khởi nghĩa Hai Bà Trưng là «công việc nội bộ» TQ, tương tự việc đàn áp mọi cuộc nổi dậy khác của nông dân TQ, không thể gọi là xâm lược [6]. Thật vô lý. Dân tộc ta đang sống yên lành bỗng dưng bị bọn người phương Bắc vô cớ đánh chiếm nước ta rồi sáp nhập làm quận, huyện của chúng. Hai Bà Trưng đánh đuổi giặc chiếm đóng là chính nghĩa. Mã Viện đánh nước ta, rõ ràng là xâm lược.
Đặc biệt hơn cả là, dù bị chính quyền cai trị ép phải học và dùng chữ Hán suốt cả nghìn năm nhưng do hiểu rõ nguy cơ để mất tiếng mẹ đẻ thì sẽ để mất nòi giống dân tộc mình nên tổ tiên ta đã tìm mọi cách giữ nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ cùng nền văn hóa tiếng Việt, nhờ thế dân tộc ta không bị Hán hóa. Đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam. Thời thuộc Pháp, dân ta cũng đấu tranh thắng lợi đòi thực dân Pháp bãi bỏ chế độ buộc người Việt học tiếng Pháp từ bậc tiểu học; nhờ vậy sau 80 năm Pháp thuộc dân ta vẫn không nói tiếng Pháp như các thuộc địa Pháp khác.
Nhưng các tộc Bách Việt như Ngô Việt, Mân Việt… đều khá dễ dàng chấp nhận sự chiếm đóng, cai trị và đồng hóa của nhà Tần. Tộc Lạc Việt có đánh trả và lánh về vùng núi Quảng Tây, nhờ vậy giữ được tiếng nói; nhưng sau đó họ không dám nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược. Ngày nay, họ trở thành một dân tộc thiểu số ở TQ, sống trong Khu Tự trị dân tộc Tráng, không được là một quốc gia độc lập như Việt Nam.
Ngay cả dân tộc Hán đông người nhất thế giới khi bị ngoại tộc (Mông tộc, Mãn tộc…) xâm lược cũng chịu để cho kẻ địch cai trị hàng trăm năm mà không vùng lên đánh đuổi; giới quan lại người Hán ngoan ngoãn làm tôi tớ cho vua chúa ngoại tộc, giúp chúng áp bức bóc lột đồng bào mình, ép họ phải theo văn hóa ngoại tộc. Thời Mãn Thanh, đàn ông TQ phải để đuôi sam theo kiểu tóc tộc Mãn, các triều thần phải khúm núm tự xưng là «nô tài» trước Hoàng đế người Mãn. Chính quyền với đội ngũ quan lại cơ sở hầu hết là người Hán thời kỳ đầu còn bỏ chữ Hán, dùng chữ Mãn, và từng chặt đầu hàng triệu đàn ông TQ không chịu để đuôi sam. Hán tộc và các tộc Bách Việt đều coi nhà Nguyên và nhà Thanh là vương triều của mình, tuy thực ra đó chỉ là vương triều thực dân; thậm chí coi hoàng đế Thành Cát Tư Hãn của đế quốc Mông Cổ là anh hùng, coi Khang Hy là minh quân của người TQ.
Tóm lại, từ những khác biệt nhiều mặt kể trên, có thể khẳng định: Người Việt Nam thời cổ không phải là người di cư từ phương Bắc xuống; trước khi nhà Tần xâm lược Việt Nam, dân ta không có quan hệ với các tộc người ở bên kia biên giới phía Bắc. Dân tộc ta không phải là thành viên của cộng đồng Bách Việt. Tổ tiên ta chưa bao giờ ngừng đấu tranh giành độc lập dân tộc và trên thực tế đã giành được những thắng lợi vĩ đại, giữ được nguyên vẹn nòi giống và lãnh thổ. Chúng ta kiên quyết giữ vững truyền thông đó, không cho phép bất cứ kẻ nào xâm phạm đất nước này.
Ghi chú:
[1] 党报:中国再给越南机会奉劝浪子早回头 (2014.6.19 人民日报海外版 )
[4] 《骆越方国研究》发布 (2016.11.07 人民网-文化频道)
[6] 越南反华情结:教科书写“越南史就是中国侵略史”

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: