Tỷ phú đầu tiên
Người sáng lập Vingroup, Phạm Nhật Vượng, hay “Vượng Vin” như cái cách nhiều người gọi, là một người khôn lanh và làm việc không ngừng nghỉ.
Người giàu nhất Việt Nam này điều hành tập đoàn của ông ta một cách chặt chẽ. Tôi được bảo là ông Vượng chỉ trả lời phỏng vấn mỗi năm một lần, và tờ Tuổi Trẻ của Việt Nam đã giành được suất phỏng vấn đó từ tháng Hai vừa rồi.
Vượng sinh năm 1968 và lớn lên ở Hà Nội. Cha ông ta phục vụ trong không quân. Khi còn là một thiếu niên trong những năm 1980, Vượng là một trong số những học sinh có được đặc quyền đi du học tại Đông Âu. Khi đó, nền kinh tế hậu chiến của Việt Nam vẫn đang khốn khổ vì cấm vận. Sau khi học tại một viện địa chất ở Moscow, Vượng chuyển về Kharkiv ở Ukraine.
Khi khối Xô Viết tan rã, một loạt các cơ hội kinh doanh đã mở ra cho những ai dám làm dám chịu. Vượng ban đầu cùng phối hợp làm ăn với Lê Viết Lam – một sinh viên Việt Nam khác. Ông Lam sau này cũng sáng lập một tập đoàn đa ngành khác là Sun Group.
Năm 1993, Vượng và Lam thành lập Technocom. Công ty này sử dụng một quy trình công nghệ mang từ Việt Nam sang để tạo ra Mivina – nhãn hiệu mì gói phổ biến nhất tại Ukraine.
Cách đây một thập niên, Vượng bán Technocom cho Nestlé với giá ước lượng khoảng 150 triệu đô-la Mỹ. Ông mang khoản tiền này về Việt Nam. Đó là một quyết định đúng thời điểm. Ông rút tiền khỏi Ukraine đúng lúc cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang ảnh hưởng đến quốc gia Đông Âu này, để rồi mang tiền về Việt Nam khi các biện pháp cải cách kinh tế theo định hướng thị trường đang đẩy mạnh tăng trưởng ở đây.
Dự án lớn đầu tiên của Vượng chính là khu resort Vinpearl [thành lập năm 2001, khai trương năm 2003 – ND]. Khu này được xây trên một hòn đảo kém phát triển nằm ngoài khơi thành phố biển Nha Trang. Các nhân viên Vingroup mới vào làm thỉnh thoảng hay được kể lại cách mà Vượng đã giải quyết được một thử thách kỹ thuật tưởng chừng như không thể nào giải quyết nổi: xây một cáp treo đi ngang biển từ ngoài đảo vào trong đất liền.
Sau thành công ban đầu đó, Vượng xây khu tổ hợp cao ốc văn phòng đầu tiên của Hà Nội, trung tâm Vincom Bà Triệu [thành lập năm 2002, khai trương năm 2004 – ND], và một loạt các dự án nhà ở khác tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiều dự án đó được xây dựng với hỗ trợ từ các chương trình “Xây dựng-Chuyển giao” (Build-Transfer). Trong các chương trình này, các công ty nhà nước thiếu tiền hay các quan chức giao đất cho các nhà kinh doanh địa ốc để đổi lấy đường xá hay các cơ sở hạ tầng khác.
Năm 2012, Vượng sáp nhập Vinpearl – mảng kinh doanh resort – với Vincom – mảng kinh doanh địa ốc – để tạo thành Vingroup.
Một năm sau đó, tạp chí Forbes tuyên bố Vượng là tỷ phú đầu tiên của Việt Nam. “Câu chuyện của Vượng chính là hiện thân của câu chuyện Việt Nam thời hậu chiến, một thành quả tư bản trên một đất nước vẫn tồn tại trên danh nghĩa là một nước cộng sản”, Forbes bình luận.
Bây giờ, chiến lược kinh doanh của Vượng tiếp tục theo đuổi cái cốt truyện “hiện thân” đó.
Tất cả những gì tôi nghe kể về Vingroup đều cho thấy đấy là một môi trường làm việc khắt khe. Họ có một chuẩn quy tắc ăn mặc nghiêm khắc, những nhân viên vi phạm có thể chịu phạt bằng cách trừ lương (một phát ngôn viên Vingroup cho tôi biết tiền phạt này được góp vào làm từ thiện).
Trong cuộc phỏng vấn với báo Tuổi Trẻ, Vượng nói rằng văn hóa doanh nghiệp của Vingroup được xây dựng xung quanh “ba giá trị: lòng yêu nước, kỷ luật, và văn minh”. Vượng đề xuất cho nhân viên tập đoàn ông đọc cuốn sách dạy kinh doanh “Từ tốt đến vĩ đại: Tại sao một số công ty đạt bước nhảy vọt còn các công ty khác thì không“.
Vingroup càng mở rộng sang các ngành khác thì sản phẩm mới lại càng xuất hiện nhiều hơn. VinFast mới đây xuất xưởng xe máy chạy điện, một dạng ít ô nhiễm hơn so với phương tiện mà phần lớn người Việt Nam dùng để đi lại. Tuy nhiên, VinFast đang đặt cược là vài triệu người trong dân số 100 triệu người Việt Nam sẽ sớm đặt mua những chiếc xe hơi đầu tiên của họ. Quy trình sản xuất những chiếc ô tô mui kín, mẫu đầu tiên trong một nhóm ba mẫu xe, đã được khởi động vào tháng 6 này.
Công luận biết rất ít về các mối quan hệ giữa Vingroup và chính phủ Việt Nam. Nhưng trong khi giới lãnh đạo Việt Nam đang tìm cách đẩy qua bên lề các doanh nghiệp nhà nước cứng nhắc, họ thường phát biểu rằng khối kinh tế tư nhân là động lực hàng đầu cho tăng trưởng của đất nước.
Năm 2017, khi Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Phú Trọng (người mới đây đã trở thành chủ tịch nước), tới thăm nhà máy VinFast, có tin cho biết ông Trọng đã khen ngợi Vingroup là “nhà tiên phong trong sản xuất nhãn hiệu xe quốc gia”.
Gần đây hơn, trong một dịp khai trương sản phẩm hồi đầu tháng 6/2019, Vượng đã lái một chiếc xe điện tại nhà máy Hải Phòng của VinFast. Ngồi cùng xe với Vượng là khuôn mặt tươi cười của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, người đang khuyến khích người dân nước mình “ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Năm ngoái, chính phủ Việt Nam đưa ra một số biện pháp để kiểm soát lượng xe hơi nhập khẩu. Động thái này có lợi cho VinFast và cả Thaco, nhà sản xuất xe hơi còn lại của Việt Nam. Nhiều người Việt Nam tin rằng động thái đó là một nỗ lực bảo hộ nhãn hiệu xe hơi non trẻ của VinFast.
Việt Nam cũng đã công bố các kế hoạch giảm sử dụng xe gắn máy gây ô nhiễm trong giao thông tại hai siêu đô thị Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Nhiều người Việt Nam nói với tôi cho rằng động thái này cũng được thiết kế để giúp đỡ cho các xe máy chạy điện của VinFast và cho doanh nghiệp kinh doanh xe buýt chạy điện, VinBus, mà Vingroup mới lập ra vào tháng 5/2019.
Khi tôi hỏi phó chủ tịch Thủy rằng Vingroup có đóng vai trò gì trong chính sách giao thông của chính phủ Việt Nam hay không, bà Thủy gạt bỏ ngay ý tưởng đó: “Chúng tôi không bao giờ vận động hành lang với chính phủ vì bất cứ điều gì cả”, bà nói.
Trình bày chung về tầm nhìn của ông Vượng dành cho Vingroup, bà Thủy nói tập đoàn này có một sứ mạng “rất nặng nề” là phải dẫn dắt nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam, với mục tiêu trở thành doanh nghiệp dẫn đầu hay chí ít là đứng thứ nhì trong mọi ngành kinh doanh họ làm. “Chúng tôi đã có may mắn trong các năm qua khi chính phủ hỗ trợ khối kinh tế tư nhân vươn lên hàng đầu”, bà Thủy nói. “Chúng tôi may mắn là đang có mặt đúng thời điểm và đang làm những gì tốt nhất cho đất nước.”
Chiếm lĩnh
Sự thâm nhập của Vingroup vào mọi mặt trong đời sống tại Việt Nam sẽ còn trở nên sâu sắc hơn nữa.
Năm ngoái, Vingroup làm cả thị trường ngạc nhiên bằng tuyên bố khởi động mảng kinh doanh điện thoại thông minh VinSmart, và một đơn vị mới trong tập đoàn chuyên về trí tuệ nhân tạo và phân tích dữ liệu lớn.
Ông Vượng tuyển người một cách sâu rộng cho các hoạt động mới, săn tìm nhân tài từ giới người Việt sống ở nước ngoài, những người hay được gọi là Việt kiều. Vũ Hà Văn là một giáo sư toán học tại Đại học Yale đã có nhiều năm làm việc ở nước ngoài (ở Mỹ ông được biết đến với tên Van H Vu). Ông đã được chọn làm cố vấn chính cho Vingroup về trí tuệ nhân tạo.
Tôi đến nói chuyện với ông Văn tại khu Times City, một khu đô thị tại Hà Nội do Vingroup xây dựng. Khu này là một minh họa sống động cho tầm nhìn của Vingroup: bên cạnh các căn hộ chung cư cao cấp Vinhomes là bệnh viện quốc tế Vinmec, một ngôi trường Vinschool, một thủy cung Vinpearl, và một khu mua sắm Vincom Mega Mall.
Trong văn phòng Vingroup có đầy các ghế lười hạt xốp và tranh ảnh Bill Gates với Steve Jobs, ông Văn bảo tôi rằng công việc của họ là nghiên cứu các ứng dụng dữ liệu lớn sẽ cho phép Vingroup cung cấp thêm các dịch vụ khác khi tập đoàn này mở rộng các ngành kinh doanh điện thoại, TV thông minh, nhà cửa và xe hơi.
Ví dụ, các cửa hàng siêu thị VinMart có thể sử dụng các “camera thông minh” để lưu lại thông tin về thời gian khách hàng nán lại một gian hàng nào đó trong siêu thị.
Ông Văn cũng nói với tôi rằng đơn vị nghiên cứu trí tuệ nhân tạo của Vingroup đang tiến hành các nghiên cứu với mục đích “trợ giúp cộng đồng khoa học và xã hội nói chung”. Trong số đó có một nghiên cứu làm bản đồ gen người cho Việt Nam.
Qua một chương trình có khả năng giúp ích cho ngành công nghệ cao còn non trẻ của Việt Nam, Vingroup còn đang cấp học bổng cho các sinh viên cao học tài năng, những người này không hề có nghĩa vụ bắt buộc phải làm việc cho Vingroup sau khi tốt nghiệp.
“Chúng tôi cho rằng nếu lực lượng lao động của cả nước lớn mạnh, chúng tôi cũng sẽ hưởng lợi thôi,” ông Văn bảo tôi.
Tuy nhiên, với việc Vingroup và các công ty đang lên khác gia tăng ảnh hưởng và cho ra lò các công nghệ mới đầy quyền năng, giới hoạt động xã hội dân sự nói rằng cần phải có biện pháp kiểm tra, giám sát hiệu quả giới doanh nghiệp lớn.
Các quan điểm phê phán và các báo cáo khắt khe về giới doanh nghiệp lớn rõ ràng là đang thiếu vắng trong môi trường truyền thông bị nhà nước kiểm soát của Việt Nam. Các đơn vị truyền thông Việt Nam không chỉ phải hoạt động dưới bàn tay kiểm duyệt của nhà nước, họ thường vật lộn về mặt tài chính và rất ngại làm phiền lòng các doanh nghiệp mua nhiều quảng cáo.
Mối quan hệ giữa cánh nhà báo và các doanh nghiệp thường khá là nhập nhằng. Giống như tại Trung Quốc, các phóng viên Việt Nam thường được trả lương thấp và họ thỉnh thoảng được các doanh nghiệp cho thêm các khoản tiền mặt nhỏ mỗi lần họ đến dự các buổi họp báo.
Khi tôi đến dự buổi khai trương mẫu điện thoại Vsmart tại TP. Hồ Chí Minh vào tháng 12 năm ngoái, trong bộ tài liệu quảng cáo dành riêng cho báo giới mà bên Vingroup trao cho tôi có kèm một phong bì hai triệu đồng (khoảng 85 đô-la Mỹ). Tôi trả cái phong bì đó lại cho một nhân viên Vingroup.
Bên Vingroup xác nhận rằng tại Việt Nam “theo thông lệ” doanh nghiệp thường mời các phóng viên ăn trưa sau buổi họp báo. Một khoản “tiền tiêu vặt” thường được doanh nghiệp trao cho các phóng viên trong trường hợp doanh nghiệp không thể tổ chức ăn trưa. (Các bữa ăn trưa của tôi ở Hà Nội đều do tòa soạn Financial Times trả, ít khi nhiều hơn 10 đô-la Mỹ.)
Khi tôi mới lần đầu viết bài về VinFast cho Financial Times năm 2018, công ty này đã liên lạc với tôi chỉ vài phút sau khi bài báo được đăng lên mạng. Họ yêu cầu chúng tôi xóa bỏ một câu trong bài nói về mối quan hệ giữa Vingroup với hãng BMW vốn đang hỗ trợ chuyên môn kỹ thuật cho VinFast. Vingroup không hề nói rằng câu đó sai sự thật. Financial Times từ chối yêu cầu xóa câu đó của họ.
Tuy nhiên, trong cõi mạng Việt Nam, các tin bài với những chi tiết gây tranh cãi thường biến mất sau khi có sức ép từ các doanh nghiệp hay quan chức nhà nước.
Tranh luận về tầm ảnh hưởng đang lớn mạnh của Vingroup thường sống động hơn trên các mạng xã hội. Việt Nam hay được miêu tả là một phiên bản nhỏ của Trung Quốc, nước láng giềng cộng sản của Việt Nam. Tuy nhiên, có một lĩnh vực mà phép so sánh này trật lất: mạng internet. Trung Quốc xây dựng mạng internet riêng của họ phía sau bức “vạn lý tường lửa” để không cho các dịch vụ mạng xã hội từ Mỹ xâm nhập. Việt Nam thì lại vẫn cho phép Facebook, YouTube và Google hoạt động.
Người Việt Nam được tự do nói những gì họ nghĩ hơn người Trung Quốc nhưng thỉnh thoảng họ vẫn phải gánh chịu hậu quả của việc đó.
Sử dụng một luật an ninh mạng khắt khe mới ban hành, chính phủ Việt Nam đang cố gắng kiểm soát các doanh nghiệp công nghệ khổng lồ từ Mỹ cũng như môi trường tự do ngôn luận mà các doanh nghiệp này cung cấp. Chính phủ Việt Nam đang cảnh giác với vai trò của mạng xã hội trong việc tạo điều kiện cho người dân tổ chức các cuộc biểu tình lớn. Những cuộc biểu tình như thế đã diễn ra trong những năm gần đây, ví dụ như cuộc biểu tình năm 2016 liên quan đến việc một nhà máy thép của Đài Loan xả hóa chất độc hại ra bên ngoài.
(còn tiếp)
Người dịch: Phùng Anh Khương
Nguồn bản tiếng việt: https://www.luatkhoa.org/2019/06/vingroup-va-su-troi-day-day-nghi-van-cua-mot-de-che-kinh-te/
Nguồn bản gốc: The rise and rise of a Vietnamese corporate empire
Phần nhận xét hiển thị trên trang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét